21/4/25

Tầm tư bách kế bất như nhàn

 KHIỂN HỨNG

Hàn Dũ

遊城南十六首 - 遣興
斷送一生惟有酒,尋思百計不如閑。
莫憂世事兼身事,須著人間比夢間。
韓愈                 

Âm

Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu, Tầm tư bách kế bất như nhàn.
Mạc ưu thế sự kiêm thân sự, Tu trước nhân gian tỉ mộng gian.


Nghĩa.

Để gởi gắm một đời chỉ có rượu,
Trăm điều suy tính chẳng bằng nhàn.
Chớ lo chuyện đời, chuyện mình,
Nên xem cõi đời tựa như giấc mộng.

Hai câu đầu thể hiện tình yêu của nhà thơ với rượu, xem rượu là nguồn vui, là tri kỷ. Hai câu sau khuyên con người đừng lo lắng về mọi việc, cần buông xả, xem chuyện nhân thế như giấc mộng.
Bài thơ mang giọng điệu khá chán chường, bày tỏ nỗi cô đơn sâu lắng của một người đã từng yêu lắm cuộc đời, mạnh mẽ dấn thân để cố làm nó tốt đẹp hơn.

Tạm dịch.

Sống ở trên đời duy có rượu,

Tính toan trăm kế chẳng như nhàn.

Chuyện nhà chuyện thế đừng lo nữa,

Xem cõi đời như giấc mộng hoang.

Chú:

-          遊城南十六首: 16 bài thơ viết khi đi chơi phía nam thành. Đây là nhưng bài thơ ông viết khi về già, trở lại Tuyên Thành, nơi ông sống thời niên thiếu. Khiển hứng 遣興 là một trong 16 bài ấy. 遣興 khiển hứng: hứng lên làm giải khuây.

-          斷送 đoạn tống: ở đây mang nghĩa tiêu pha, gửi gắm, phó mặc, khác với nghĩa “hủy hoại” trong tiếng Hán hiện đại. 一生 nhất sinh: một đời, một kiếp.

-          尋思 tầm tư: suy xét.  tầm: tìm.  tư: suy nghĩ. 百計 bách kế: trăm điều tính toán.
 nhàn: nghĩa gốc là hàng rào. Ở đây dùng như  nhàn = thong dong vô sự, yên ổn.

-          莫憂 mạc ưu: chớ lo. 世事 thế sự: chuyện đời. 身事 thân sự: chuyện mình, chuyện bản thân.

-          須著 tu trước: nên đem, nên xem. “Tu” là nên; “trước”, trợ từ, thường được dùng để nhấn mạnh hoặc biểu thị hành động "đem", "lấy", hoặc "xem như". 人間 cõi đời.

Tác giả

韓愈 Hàn Dũ (768 - 824), là nhà thơ thời Trung Đường. Cha mẹ mất lúc mới 2 tuổi, ở với anh trai. Thông minh học giỏi, đỗ tiến sĩ, từng làm quan đến chức thị lang bộ Lại, nhưng cũng từng bị biếm trích do dám can ngăn vua. Một lần dâng sớ can ngăn Hiến Tông “đón xá lợi Phật vào cung” qua bài Luận Phật cốt biểu, khiến “long nhan nổi giận”, suýt bị kết án tử. Nhờ triều thần ra sức cầu xin, ông mới thoát chết, nhưng bị giáng chức làm Thứ sử một châu. Ít lâu sau, ông lại dâng sớ yêu cầu giảm thuế cho vùng bị thiên tai, bị gièm pha, lại bị giáng chức làm tri huyện một huyện hẻo lánh.

Ông nổi tiếng với chủ trương Văn dĩ tải đạo. Ở nước ta thời nhà Trần, Nguyễn Thuyên viết bài văn tế để đuổi cá sấu ở sông Hồng, trừ hại cho dân là học theo ông, được vua Trần Nhân Tông khen ngợi, cho đổi họ thành Hàn Thuyên.

Cao Bá Quát trích dẫn

Hai câu đầu của bài thơ này từng được Cao Bá Quát mượn dùng trong bài hát nói "Uống rượu tiêu sầu", tuy nhiên các bản tiếng Việt (Tuyển tập thơ ca trù, Văn học, 1987; trang web wikisource; thivien . net v.v.) đều chép "trầm tư bách kế" (沉思  thay vì 尋思 tầm tư). Không biết do người sau chép lại sai, hay do Cao Bá Quát cố ý sửa đổi. (沉思 như thâm tư 深思suy nghĩ sâu sắc).

Giản thể

断送一生惟有酒,
寻思百计不如闲。
莫忧世事兼身事,
须著人间比梦间。

 

19/4/25

Tham nhũng

Tham nhũng là từ ghép Hán Việt gồm hai yếu tố: tham (貪) và nhũng (冗), trong đó:

  • tham, chữ Hán viết 貪, là lòng ham muốn vật chất. (Thuyết văn giải tự: “貪, 欲物也” Tham, dục vật dã). Zdic giải thích chi tiết: Thích tiền tài, không từ thủ đoạn để chiếm đoạt.
    Đây là một chữ hình thanh, với 今 (kim, nghĩa là nay) biểu thị âm đọc và 貝 (bối, vốn là hình cái vỏ sò, xưa dùng làm tiền) biểu thị nghĩa.

  • nhũng, chữ Hán viết . có các nghĩa: rảnh rỗi, dư thừa, lộn xộn. Xưa, chữ này viết 宂, là hội ý của 宀 (mái nhà) và 儿 (người): Người ngồi ở nhà là do rảnh rỗi việc đồng áng. Hoặc do dư thừa, vô dụng. Dư thừa thì sinh lộn xộn, rối ren. Thuyết văn giải tự giảng: 冗, 㪔也. 从宀儿(人),人在屋下,無田事 Nhũng, tán dã. Tòng miên, nhân; nhân tại ố hạ, vô điền sự. Nhũng nhiễu 冗擾: rối ren, không được yên. Thường dùng chỉ hành vi gây khó khăn, phiền hà của người có chức quyền  trong khi thực hiện công vụ.

Như vậy, 貪冗 (tham nhũng) theo nghĩa đen là ham muốn tài vật, và dùng cách nhũng nhiễu để có được.

Tuy nhiên, từ ghép này không xuất hiện trong các từ điển Hán ngữ trực tuyến hoặc website Hán ngữ nào (tìm trên Baidu Baike và Zdic với từ khóa “貪冗” không có kết quả). Trong số các từ điển Hán Việt phổ biến, cũng chỉ có Từ điển Nguyễn Quốc Hùng ghi nhận, giải thích là “ham muốn tiền bạc và hạch sách đòi hỏi” (dẫn theo hvdic.thivien.net).

Các từ điển Hán ngữ chỉ thấy ghi nhận từ 貪污 (tham ô), mang nghĩa lợi dụng chức quyền phi pháp để có được tiền tài (Zdic: 利用职权非法取得钱财 lợi dụng chức quyền phi pháp thủ đắc tiền tài).

Nếu “tham ô” tương ứng với embezzlement – tức hành vi chiếm đoạt tài sản công bằng quyền lực, thì “tham nhũng” (corruption) bao hàm rộng hơn, gồm tham ô và nhũng nhiễu.

Từ tham nhũng được các từ điển tiếng Việt ghi nhận. 

Từ điển Khai Trí Tiến Đức: Tham nhũng 貪冗. Nói về quan lại, tham lam nhũng nhiễu. 

Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) định nghĩa: Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và trục lợi.

Tham nhũng là một tội được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng (2018). 

Khoản 1 Điều 3 luật này định nghĩa: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.

Ví dụ về một số hành vi bị coi là tham nhũng:

  • Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản, bao che người phạm pháp.

  • Thực hiện không đúng chức trách hoặc không thực hiện chức trách vì tư lợi.

  • Nhận, đưa, hoặc môi giới hối lộ.

Từ tham nhũng là ví dụ minh họa cho lớp từ Hán Việt do chính người Việt sáng tạo từ các yếu tố vay mượn của chữ Hán. 

16/4/25

Chế độ làng xã ở Việt Nam

CHẾ ĐỘ LÀNG XÃ TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM: MỘT CẤU TRÚC TỰ TRỊ ĐẶC THÙ

I. MỞ ĐẦU

Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, làng xã không chỉ là một đơn vị cư trú đơn thuần mà còn là một thực thể hành chính, văn hóa và xã hội mang tính tự trị cao. Hệ thống làng xã truyền thống đã góp phần định hình cấu trúc nhà nước phong kiến, đồng thời phản ánh đặc điểm tâm thức cộng đồng của người Việt. Bài tham luận này trình bày sự phát triển của chế độ làng xã qua các thời kỳ lịch sử, từ thời Bắc thuộc đến thời hiện đại, làm rõ vai trò của lý trưởng trong thiết chế làng xã, và lý giải câu tục ngữ "Phép vua thua lệ làng" trong bối cảnh quản lý xã hội truyền thống.

II. CHẾ ĐỘ LÀNG XÃ QUA CÁC THỜI KỲ

  1. Thời Bắc thuộc (thế kỷ 2 TCN – thế kỷ 10) Dưới sự đô hộ của các triều đại Trung Hoa, người Việt duy trì các cộng đồng cư dân bản địa (lạc dân), tự quản lý theo phong tục và huyết thống. Cấu trúc làng xã sơ khai, với các chức sắc bản địa như lạc tướng, tồn tại song song với hệ thống hành chính quận, huyện của chính quyền đô hộ.

  2. Thời kỳ độc lập tự chủ (Ngô, Đinh, Tiền Lê) Khi giành được độc lập, các triều đại đầu tiên xây dựng nền hành chính sơ khai. Làng xã được gọi là xã, giáp, lý, do các chức sắc như xã trưởng, lý trưởng quản lý, có quan hệ trung gian giữa triều đình và người dân.

  3. Thời Lý – Trần (thế kỷ 11–14) Hệ thống hành chính được củng cố theo mô hình lộ - phủ - huyện - xã. Lý trưởng đứng đầu làng xã, quản lý các hoạt động dân sinh, giáo dục, tín ngưỡng, an ninh. Hương ước bắt đầu hình thành, thể hiện tính tự trị cao của làng.

  4. Thời Lê sơ (thế kỷ 15–16) Dưới triều Lê, luật pháp được hệ thống hóa (Luật Hồng Đức), làng xã trở thành đơn vị hành chính – tự trị song hành. Hương ước được chuẩn hóa, lý trưởng giữ vai trò trung gian giữa nhà nước và dân làng.

  5. Thời Mạc và Trịnh – Nguyễn phân tranh (thế kỷ 16–18) Đất nước chia cắt, chiến tranh kéo dài khiến chính quyền trung ương suy yếu. Làng xã trở thành điểm tựa ổn định của dân cư, với tính tự trị cao. Ở Đàng Trong, làng xã phát triển linh hoạt hơn để thích ứng với vùng đất mới khai phá.

  6. Thời Nguyễn (thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20) Triều Nguyễn thống nhất đất nước và tổ chức hành chính theo hệ thống tỉnh – phủ – huyện – tổng – xã. Lý trưởng là người đứng đầu làng, chịu trách nhiệm toàn diện từ thuế khóa đến an ninh, giáo dục, tín ngưỡng. Dưới thời Pháp thuộc, làng xã vẫn duy trì nhưng mất dần tính tự trị.

  7. Thời hiện đại (từ 1945 trở đi) Sau Cách mạng tháng Tám 1945, mô hình làng xã phong kiến bị bãi bỏ. Xã trở thành đơn vị hành chính cơ sở dưới chính quyền cách mạng, không còn tính tự trị. Các chức danh như lý trưởng, hương ước, ruộng công bị xóa bỏ.

Tuy nhiên, tại miền Nam Việt Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa (1955–1975), hành chính được tổ chức theo 5 cấp: trung ương – tỉnh – quận – xã – thôn/ấp. Thôn làng vẫn giữ vai trò thiết yếu trong quản trị địa phương, song theo mô hình nhà nước hiện đại, chứ không còn dựa trên truyền thống lệ làng như trước.

III. VAI TRÒ CỦA LÝ TRƯỞNG TRONG LÀNG XÃ TRUYỀN THỐNG

Chức danh lý trưởng (里長) xuất hiện phổ biến từ thời Lê sơ, là người đứng đầu làng. Trong chữ Hán, 里 là làng, 長 là người đứng đầu. Lý trưởng không chỉ điều hành hành chính mà còn tổ chức đời sống văn hóa – xã hội trong làng, từ tế lễ, giáo dục đến xử phạt dân sự. Việc gọi là lý trưởng thay vì xã trưởng phản ánh thực tế: đơn vị làng (里) gần gũi với dân hơn, còn xã (社) là cấp hành chính chính thức nhưng có thể bao gồm nhiều làng.

IV. CHÍNH QUYỀN LÀNG XÃ: QUẢN LÝ VÀ PHỤC VỤ CỘNG ĐỒNG

Làng xã truyền thống có hai vai trò song hành:

  1. Phục vụ dân làng:

  • Duy trì an ninh, trật tự.

  • Tổ chức học hành, mời thầy đồ.

  • Phát triển kinh tế địa phương, tổ chức chợ, bến bãi.

  • Quản lý đất đai, phân phối ruộng công.

  • Duy trì tín ngưỡng, tổ chức lễ hội.

  1. Thực hiện nghĩa vụ với nhà nước:

  • Thu thuế, giao đinh, lao dịch.

  • Tổ chức dân binh khi cần thiết.

V. “PHÉP VUA THUA LỆ LÀNG”: Ý NGHĨA VÀ THỰC TIỄN

Câu tục ngữ phản ánh mối quan hệ giữa luật pháp trung ương và phong tục địa phương. Hương ước – bộ quy ước nội bộ của làng – có thể lấn át pháp luật nhà nước trong một số trường hợp. Dân làng thường ưu tiên "lệ làng" do tính gần gũi, ổn định và gắn bó văn hóa. Tuy nhiên, điều này cũng cho thấy giới hạn của nhà nước phong kiến trong việc kiểm soát toàn bộ xã hội.

VI. KẾT LUẬN

Chế độ làng xã truyền thống là một cấu trúc tự trị đặc thù của xã hội Việt Nam. Lý trưởng là người đại diện tiêu biểu cho thiết chế ấy. Mô hình làng xã vừa hỗ trợ nhà nước trong quản lý xã hội, vừa bảo lưu những giá trị văn hóa – cộng đồng đặc sắc. Câu nói “Phép vua thua lệ làng” là biểu hiện sống động của tính chất bán hành chính – bán văn hóa trong quản trị địa phương truyền thống Việt Nam.

Việc nghiên cứu chế độ làng xã không chỉ giúp hiểu rõ lịch sử hành chính Việt Nam, mà còn cung cấp những gợi ý quan trọng cho cải cách thể chế và xây dựng chính quyền cơ sở trong bối cảnh hiện đại.

Review L'Étranger

ChatGPT

Tác phẩm L'Étranger (Người xa lạ, 1942) là một cột mốc mở đầu và mang tính biểu tượng trong sự nghiệp văn chương và triết học của Albert Camus, không chỉ giới thiệu phong cách độc đáo của ông mà còn là một trong những tác phẩm nền tảng của chủ nghĩa phi lý (absurde) – triết lý mà Camus trở thành đại diện tiêu biểu.


📘 1. Tóm tắt nội dung ngắn gọn:

Nhân vật chính, Meursault, là một viên chức người Pháp sống ở Algérie thuộc địa. Tác phẩm mở đầu bằng câu nổi tiếng:

"Aujourd’hui, maman est morte. Ou peut-être hier, je ne sais pas."
(Hôm nay mẹ tôi mất. Hoặc có lẽ hôm qua, tôi không biết.)

Từ cái chết của mẹ, Meursault bắt đầu một hành trình kỳ lạ – thụ động, lãnh đạm, như thể thế giới quanh anh không buộc được cảm xúc nơi anh. Sau một loạt sự kiện, anh giết một người Ả Rập, gần như vô thức, dưới ánh nắng thiêu đốt của biển. Cuối cùng, anh bị kết án tử hình, nhưng chính trong tù, khi đối diện cái chết, Meursault lại đạt được một thứ “giác ngộ” phi lý – chấp nhận sự vô nghĩa của đời sống và sự vắng mặt của Thượng đế như một điều tất yếu, thậm chí là giải thoát.


🧠 2. Vai trò của L'Étranger trong sự nghiệp Camus:

🔹 A. Tuyên ngôn tiểu thuyết của triết lý phi lý (absurde)

Camus không phải một nhà hiện sinh theo kiểu Sartre, ông theo đuổi “chủ nghĩa phi lý” (philosophie de l’absurde) – nơi con người khát khao ý nghĩa trong một vũ trụ câm lặng, vô nghĩa.

L’Étrangermảnh ghép văn chương đầu tiên trong “Bộ ba phi lý” của Camus, gồm:

  1. L'Étranger – tiểu thuyết

  2. Le Mythe de Sisyphe – tiểu luận triết học

  3. Caligula hoặc Le Malentendu – kịch

📌 Meursault chính là biểu tượng của con người phi lý: không dối mình, không viện đến tôn giáo, không cần an ủi – mà can đảm nhìn thẳng vào sự vô nghĩa để sống và chấp nhận.


🔹 B. Đặt tên tuổi Camus lên bản đồ văn học hiện đại

  • Xuất bản năm 1942, giữa Thế chiến II, L’Étranger đã gây chấn động vì văn phong lạnh lùng, phi truyền thống và nhân vật “vô cảm” đến sốc.

  • Dù bị chỉ trích bởi một số trí thức thời đó (Sartre từng có quan hệ rồi rạn nứt với Camus), tác phẩm vẫn nhanh chóng được đánh giá như một kiệt tác hiện đại.

  • Cùng với tiểu luận Le Mythe de Sisyphe xuất bản cùng năm, Camus được nhìn nhận như một nhà văn-triết gia, không chỉ viết truyện mà còn góp phần định hình tư tưởng thời đại.


🔹 C. Ảnh hưởng sâu sắc đến văn học và triết học thế kỷ 20

  • L'Étranger mở đường cho một kiểu nhân vật mới: “con người phi lý” – không theo luân lý thông thường, không phản kháng bằng giận dữ, mà bằng sự trung thực tàn nhẫn với thực tại.

  • Camus cho thấy: cái phi lý không phải là sự tuyệt vọng, mà là khởi đầu của tự do.

    “Le monde m’est indifférent, moi aussi je le suis.” (Thế giới dửng dưng với tôi, tôi cũng vậy.)


🧭 3. Tóm tắt giá trị nghệ thuật và triết học:

Phương diệnĐặc điểm nổi bật
Văn phongLạnh lùng, đơn giản, miêu tả như thể máy móc – phản ánh sự tách biệt giữa con người và thế giới
Cốt truyệnHành động vô lý, phi truyền thống – không kịch tính hóa, không lý giải tâm lý
Triết lýPhi lý, chấp nhận cái chết, phủ nhận trật tự đạo đức hay tôn giáo thông thường
Nhân vậtMeursault – hình mẫu “người xa lạ” với xã hội, thậm chí với chính bản thân mình

📌 Kết luận:

L’Étranger là tác phẩm mở màn và thiết yếu trong toàn bộ di sản triết học – văn học của Camus. Nó không chỉ định hình phong cách viết, mà còn đặt nền móng cho toàn bộ quan niệm sống của ông về sự phi lý, tự do, và phẩm giá con người trong một vũ trụ vô nghĩa.

15/4/25

Siddhartha và Zorba

 

Siddhartha và Zorba: Hai hành trình, một nỗi khao khát sống

I. Giới thiệu

Siddhartha, nhân vật chính trong tiểu thuyết cùng tên của Hermann Hesse (1922), và Alexis Zorba, linh hồn hoang dã trong Zorba the Greek của Nikos Kazantzakis (1946), là hai hình tượng văn học mang dấu ấn sâu sắc trong văn chương thế kỷ XX. Một bên là người Ấn Độ cổ đại đi tìm giác ngộ giữa đời thường; bên kia là người Hy Lạp hiện đại sống trọn từng khoảnh khắc như một nghi lễ thiêng liêng. Tuy xuất thân từ hai nền văn hóa khác biệt, hai thời đại, hai thế giới quan tưởng như đối lập, họ vẫn gặp nhau nơi tận cùng của một câu hỏi xưa cũ: sống là gì và sống thế nào mới thật sự là sống?


II. Sự khác biệt: Hai cực của một tấm bản đồ

Điểm xuất phát đầu tiên của Siddhartha và Zorba là sự tương phản gần như triệt để về văn hóa và bản chất.

Siddhartha sinh ra trong tầng lớp tinh hoa trí thức, con của một vị Bà-la-môn, được giáo dục trong truyền thống Phật giáo và Ấn Độ giáo. Hành trình của anh bắt đầu bằng sự khước từ: từ bỏ giáo lý, từ bỏ khổ hạnh, từ bỏ dục lạc – để cuối cùng đi đến buông bỏ tất cả. Siddhartha là người hướng nội, sống bằng chiêm nghiệm. Những chuyển hóa trong anh thường lặng lẽ, như dòng sông mà anh lắng nghe đến mức hòa tan vào nó.

Ngược lại, Alexis Zorba là một nhân vật nồng nhiệt, ồn ào, sống bằng trực giác và bản năng. Không triết lý suông, không lý luận trừu tượng, Zorba yêu, ăn, làm việc, chơi đàn và nhảy múa bằng cả thân thể và tâm hồn. Ông thường xuyên chế giễu trí thức – điển hình là người kể chuyện (có thể xem như hiện thân của chính Kazantzakis) – vì “đọc quá nhiều mà sống quá ít”.

Nếu Siddhartha là biểu tượng của trung đạo, thanh tịnh, thì Zorba là lửa, là sự sống bùng nổ. Nếu một người đi đến giác ngộ bằng im lặng, thì người kia đi đến minh triết bằng tiếng cười, âm nhạc và thất bại.


III. Sự tương đồng: Hai con đường, một đích đến

Tuy khác biệt về hình thức và phương pháp, Siddhartha và Zorba lại cùng đi trên một hành trình cốt lõi: hành trình tìm kiếm tự do nội tâm và ý nghĩa đích thực của đời sống.

Cả hai đều khước từ khuôn mẫu. Siddhartha từ chối lời dạy của cả Đức Phật vì anh tin rằng chân lý không thể truyền đạt, chỉ có thể tự thân chứng nghiệm. Zorba thì phá vỡ mọi lề thói, mọi định kiến – từ tình dục đến lao động – để sống một cách toàn vẹn, tự nhiên, không sợ hãi.

Cả hai đều là những bậc thầy không cố ý dạy ai, nhưng lại thức tỉnh người khác bằng chính cách họ sống. Siddhartha thức tỉnh người lái đò và chính độc giả. Zorba truyền cảm hứng sống mãnh liệt cho người trí thức bên cạnh, khiến anh ta “muốn xé nát tất cả sách vở để học cách sống từ đầu”.

Cả hai đều đạt tới một dạng minh triết, nơi chấp nhận đời sống như nó là, với những khổ đau, niềm vui, cái chết – và vượt qua nó bằng lòng từ tốn hoặc sự cuồng nhiệt yêu đời.


IV. Kết luận: Hai khuôn mặt của tự do

Siddhartha và Zorba là hai biểu tượng văn học tưởng như đối lập, nhưng thực ra là hai cực của một trục tâm linh – một người đi vào im lặng, người kia đi vào tiếng cười; một người thấm nhuần thiền định, người kia thấm đẫm rượu vang và âm nhạc. Nhưng cả hai đều dạy chúng ta rằng sự sống không nằm trong những gì được dạy, mà trong những gì được sống – sống trọn vẹn, sống có ý thức, sống không sợ hãi.

Trong một thế giới hiện đại đang bị kéo căng giữa lý trí và bản năng, giữa tốc độ và hoang mang, giữa trật tự và vô nghĩa, thì Siddhartha và Zorba có thể là hai người bạn tinh thần – một trầm mặc dẫn lối vào nội tâm, một sôi nổi nhắc ta đừng quên sống.

Mẹ ơi, con xin lỗi

 Truyện ngắn

ChatGPT

---

Mẹ ơi, con xin lỗi

Lại mưa.
Thành phố này hình như không chờ ai ngẩng đầu để đổ mưa. Cũng như đời, không đợi ai kịp lớn mới bắt đầu khó.

Tin nhắn vừa gửi đi. Có thể mẹ đang đọc. Có thể mẹ chưa đọc. Có thể mẹ sẽ đọc đi đọc lại…
Tôi không biết.
Chỉ biết mình đang run, không phải vì lạnh. Mà vì lần đầu nói thật – sau ngần ấy năm toàn những lời giả.

Tôi không tốt nghiệp.
Không có khóa luận, không có điểm anh văn đủ chuẩn. Không còn niềm tin nào để ép mình đến giảng đường.

Mẹ chắc chưa quên hôm tôi nhận giấy báo trúng tuyển. Một ngôi trường đại học công lập khá nổi tiếng. Mẹ mừng đến phát khóc. Cái mừng của người cả đời không dám mơ, nay bỗng thấy giấc mơ thành thật.
Mẹ nói: "Con mẹ vậy là giỏi rồi! Nhà mình có đứa lên đại học, hơn cha rồi, thế là nhà có phước!"

Phải. Tôi không phải người đầu tiên trong đại gia đình đi học. Nhưng là người đầu tiên và duy nhất của mẹ. Của ba. 

Tôi còn nhớ đêm trước khi rời quê.
Sân nhà có mấy lon bia ướp trong xô nước đá. Cha ngồi với mấy chú, vài miếng khô, mấy tiếng cười.
Cha cụng ly, nửa đùa nửa thật: “Mày không đỗ thì mày chết với tao. Nhưng đỗ rồi thì tao chết với mày.”
Ai nấy cười rộ.
Mẹ từ bếp bước ra, tay bưng thêm mấy món. Mắt mẹ lấp lánh như trời vừa tạnh.

Lúc đó, tôi chưa hiểu hết lời ba nói. Tôi đang thấy mình sắp bay.
Tự do. Thành phố. Một căn phòng trọ với cái cửa sổ nhỏ xíu. Một cái giường xếp. Một bàn học cũ. Một chỗ ngồi trong giảng đường mấy trăm người.

Không ai gọi dậy.
Không ai dọa phạt nếu bỏ tiết.
Không ai hỏi hôm nay ăn gì, mặc gì, buồn vui ra sao.

Chỉ có tôi. Và sự tự do – lớn đến mức tôi không ôm nổi.

Bạn bè mỗi đứa một hướng. Có đứa học chăm như máy, có đứa sống như không cần ngày mai. Có người rủ chơi game. Có người rủ yêu đương. Tôi trôi giữa họ như một cọng cỏ, không rễ, không phương hướng.

Một môn rớt. Rồi hai. Rồi .. tôi không dám nhớ nữa.
Tôi ngại vào lớp. Ngại cả cái bóng của mình in trên vách.
Và tôi bắt đầu nói dối.

Mỗi lần về quê, tôi mặc chiếc áo sơ mi là phẳng, cười tươi, kể mẹ nghe về “đề tài khóa luận” tôi không hề có.
Mẹ vừa lắng tai nghe, vừa bóc cam bóc bánh ...
Nhìn mẹ vui vẻ, hạnh phúc, tôi nuốt múi cam mà thấy cổ họng đắng ngắt. 

Giá mà ngày xưa tôi đủ dũng cảm nói với mẹ: con không hợp trường lớp.
Con muốn học nghề, đi làm, học cái gì có thể dùng đôi tay mà sống.
Nhưng tôi im. Vì tôi sợ.
Không phải sợ mẹ giận. Mà sợ mẹ buồn.

Tôi đã không muốn mẹ mất mặt. Nhưng cuối cùng lại làm mẹ đau lòng hơn cả.

Nếu bây giờ có ai hỏi tôi, sai lầm lớn nhất của tôi là gì, thì tôi sẽ nói: sai lầm lớn nhất là không dám nói thật với mẹ ngay từ đầu.
Tôi đã sống bằng sự kỳ vọng của mẹ cha, cái kỳ vọng tôi sớm thấy vượt quá sức mình. tại sao tôi không dám nói từ đầu? Tại tôi thương mẹ. Hay tại tôi ích kỉ, sợ mất đi tình thương yêu ấy?

Tôi đang tìm việc. Chưa biết có ổn không, nhưng ít nhất là tôi thấy mình đang bước đi bằng hai chân, chứ không lết bằng lời nói dối nữa.
Tôi sẽ không xin tiền nữa. Không đòi hỏi gì thêm từ mẹ – người đã cho tôi nhiều hơn cả khả năng mình có thể đền đáp.

Khi nào ổn hơn, tôi sẽ về.
Hoặc sẽ gọi. Nếu mẹ còn muốn nghe tiếng tôi.

…Mưa đã tạnh.
Chỉ còn loáng nước dưới chân, và những chiếc xe lao qua, bắn tung tóe những vệt bùn vào tường.

Tôi nhớ mẹ.
Và nhớ cái thời mình chưa biết nói dối.

14/4/25

Tình yêu dưới mắt Shopenhauer và Freud

Quan điểm của Arthur SchopenhauerSigmund Freud về tình yêu có nhiều điểm tương đồng sâu sắc, dù xuất phát từ hai hệ thống triết học và phân tâm học khác nhau. Cả hai đều nhìn tình yêu dưới lăng kính bản năng, vô thức và gắn với những động lực sinh học hơn là lý trí hay đạo đức.


1. Schopenhauer: Tình yêu là mưu đồ của ý chí sinh tồn

Schopenhauer tiếp cận tình yêu từ hệ thống triết học duy tâm và bi quan của mình:

  • Ông cho rằng đằng sau mọi hành vi con người là “ý chí sống” (Wille zum Leben) – một lực mù quáng thúc đẩy sinh tồn và sinh sản.

  • Tình yêu chỉ là công cụ của ý chí này, nhằm khiến con người chọn bạn tình theo cách tối ưu cho sự duy trì nòi giống.

  • Những cảm xúc mãnh liệt, lãng mạn thực chất là ảo ảnh của ý chí giống nòi, che mờ lý trí để đạt mục tiêu sinh học.

  • Cái gọi là “tiếng sét ái tình” không phải là sự lựa chọn cá nhân, mà là sự lựa chọn của giống loài thông qua cá nhân, để tạo ra đứa con có tổ hợp gene tốt nhất.

“Tình yêu lãng mạn là một âm mưu của loài người chống lại cá nhân."


2. Freud: Tình yêu là biểu hiện của bản năng dục vọng bị dồn nén

Freud, từ góc độ phân tâm học, cũng xem tình yêu là một biểu hiện của các xung năng vô thức:

  • Ông nhấn mạnh đến bản năng tính dục (libido) như động lực cơ bản của hành vi con người, kể cả tình yêu.

  • Tình yêu nảy sinh khi dục vọng bị dồn nén được chuyển hướng (thăng hoa hoặc bù đắp), thường gắn với các hình ảnh từ thời thơ ấu (như phức cảm Oedipus).

  • Theo Freud, tình yêu thường không thuần khiết mà luôn lẫn lộn giữa ham muốn, quyền lực, mặc cảm, và vô thức.

  • Những lý tưởng hóa trong tình yêu là cơ chế phòng vệ, giúp con người đối phó với xung đột giữa dục vọng và chuẩn mực xã hội.

"Chúng ta không bao giờ yêu một người như họ thật sự là – mà yêu hình ảnh của họ trong tâm trí ta."


3. Tương đồng giữa Schopenhauer và Freud

Dù khác biệt về hệ hình tư duy (triết học vs. phân tâm học), cả hai chia sẻ một cái nhìn giải thiêng, thậm chí bi quan về tình yêu:

Điểm tương đồngMô tả
Vô thức chi phốiCả hai đều cho rằng con người không thực sự “ý thức” về lý do yêu – tình yêu bị điều khiển bởi vô thức (ý chí sống hoặc libido).
Tình yêu phục vụ sinh họcSchopenhauer nhấn mạnh sự duy trì giống nòi, Freud nhấn mạnh sự giải tỏa dục năng – đều hướng về mục tiêu sinh học.
Ảo tưởng của cá nhânTình yêu khiến con người tưởng mình tự do, nhưng thực chất là bị chi phối bởi lực lượng bên trong họ không kiểm soát được.
Tình yêu không thuần lýCả hai phủ nhận tình yêu như một hành vi lý trí hay thuần đạo đức. Đó là một sự lừa dối đẹp phục vụ những động cơ sâu xa.

4. Khác biệt chính

Khía cạnhSchopenhauerFreud
Nền tảng lý thuyếtTriết học siêu hình, bi quanPhân tâm học, tâm lý học hiện đại
Bản năng chủ đạoÝ chí sống (sinh tồn, sinh sản)Libido (dục vọng đa dạng hơn, bao gồm cả phi sinh sản)
Trị liệuKhuyên từ bỏ ham muốn, hướng đến khổ hạnhPhân tích vô thức để hiểu và điều hòa xung đột nội tâm

 Tình yêu – trong cái nhìn của cả Schopenhauer và Freud – không còn là khúc hát thiêng liêng của con tim, mà là một cơ chế sâu kín, bị chi phối bởi những lực vô hình bên dưới bề mặt ý thức. Quan điểm này dẫu có vẻ lạnh lùng, nhưng lại chạm đến một sự thật đầy nhân tính: rằng yêu không chỉ là sự lựa chọn lý trí, mà là một tình trạng tồn tại – nơi cái tôi và bản năng va đập, mặc cảm và khát khao hòa trộn.

Từ Schopenhauer, ta hiểu rằng tình yêu có thể là một “trò lừa vĩ đại” của giống loài, khiến cá nhân tưởng rằng mình đang hành động vì chính mình trong khi thật ra là vì thế hệ sau. Từ Freud, ta thấy tình yêu là nơi tiềm thức lên tiếng, nơi quá khứ cá nhân – tuổi thơ, những tổn thương, ham muốn chưa nói thành lời – tìm cách được bù đắp.

Trong thời đại hôm nay, khi tình yêu bị giằng co giữa lãng mạn hóa và thực dụng hóa, thì việc nhìn lại những tư tưởng này giúp ta hiểu tình yêu như một tiến trình đa tầng: vừa sinh học, vừa tâm lý, vừa xã hội. Ta có thể không đồng tình toàn bộ với Schopenhauer hay Freud, nhưng ta không thể phủ nhận rằng tình yêu luôn nhiều nghĩa hơn là những lời thì thầm trong đêm.

Chấp nhận những mặt tối của tình yêu không khiến ta yêu kém chân thành hơn – trái lại, có thể khiến tình yêu của ta bớt ảo tưởng nhưng sâu sắc hơn, có trách nhiệm hơn và cũng nhân bản hơn. Và có lẽ, chính khi hiểu rằng mình không hoàn toàn kiểm soát được vì sao mình yêu, ta mới bắt đầu học cách yêu một cách tự do.



13/4/25

Triết học là gì

 

1. Triết học là gì?

Triết học (từ gốc Hy Lạp philosophia - "tình yêu đối với sự khôn ngoan") là ngành học nghiên cứu những câu hỏi căn bản nhất về:

  • Thế giới: Thế giới là gì? Nó có nguồn gốc và bản chất ra sao?

  • Con người: Con người là ai? Ý thức, tự do, linh hồn có tồn tại không?

  • Nhận thức: Ta biết được gì? Làm sao biết điều mình biết là đúng?

  • Giá trị: Cái gì là tốt, xấu, đúng, sai, công bằng, hạnh phúc?

Nói ngắn gọn, triết học là nỗ lực lý tính để hiểu bản chất sâu xa của hiện thực, của con người và của tư duy.


2. Vì sao phải học tập, nghiên cứu triết học?

  • Mở rộng tư duy: Triết học giúp ta đặt câu hỏitư duy phản biện, không chấp nhận mọi thứ như hiển nhiên.

  • Hiểu rõ thế giới và chính mình: Nhờ triết học, ta hiểu mình đang sống trong một thế giới có quy luật, có lịch sử tư tưởng, và có sự vận động không ngừng.

  • Định hướng giá trị sống: Triết học giúp ta suy ngẫm về điều gì thực sự có ý nghĩa, từ đó sống có định hướng, có chiều sâu.

  • Nền tảng của nhiều ngành khác: Khoa học, chính trị, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… đều bắt đầu từ những câu hỏi triết học.


3. Triết học có cần thiết cho cuộc sống không?

Có. Dù bạn có học triết hay không, bạn vẫn đang "sống" triết học mỗi ngày, trong cách bạn:

  • Chọn điều gì là đúng hay sai (đạo đức).

  • Tin vào điều gì là thật hay giả (nhận thức).

  • Hiểu bạn là ai và nên sống thế nào (bản thể và hiện sinh).

Chẳng hạn: khi bạn băn khoăn "Tôi sống để làm gì?", "Công bằng là gì?", hay "Có số phận hay không?", thì bạn đã đang suy tư triết học rồi đó.


4. Nếu muốn học triết thì học như thế nào?

Tùy vào mục tiêu của bạn mà cách học có thể khác nhau. Nhưng đây là một lộ trình chung:

a. Học cách đặt câu hỏi và suy nghĩ

Đọc sách, suy ngẫm và trò chuyện với người khác. Triết học không bắt đầu từ đáp án, mà từ câu hỏi.

b. Làm quen với các triết gia và trường phái lớn

Plato, Aristotle, Descartes, Kant, Hegel, Marx, Nietzsche, Sartre, Wittgenstein… mỗi người đều đưa ra một cách hiểu riêng về thế giới và con người.

c. Học triết theo chủ đề

Ví dụ: triết học chính trị, triết học đạo đức, hiện sinh, phân tích ngôn ngữ, triết học khoa học…

d. Liên hệ với thực tiễn

Hãy hỏi: tư tưởng này giúp gì cho cuộc sống, công việc, mối quan hệ hay niềm tin của mình?

e. Đọc chậm, đọc sâu, và đối thoại

Triết học không giống truyện tranh hay bài báo. Nó cần được nghiền ngẫm, phản biện, thảo luận.

5. Một số tác phẩm cơ bản nên đọc để tìm hiểu về triết học

Nếu bạn muốn học một cách hệ thống thì có thể làm thế này:

  1. Đọc "Thế giới Sophie" hoặc sách nhập môn như của Politzer – để có khung khái quát.

  2. Học theo giáo trình môn triết lớp 12 thời VNCH

    Các sách này thường chia rõ 4 phân môn:

    • Tâm lý học – Nghiên cứu hoạt động tinh thần, cảm giác, ý chí, trí nhớ…

    • Luận lý học (Logic) – Học về các quy luật của tư duy, lập luận.

    • Đạo đức học – Học về cái thiện, trách nhiệm, hạnh phúc…

    • Siêu hình học (Metaphysics) – Bàn về bản thể, hiện hữu, thực tại.

    Nên học dần từng phần: tâm lý học → luận lý học → đạo đức học → siêu hình học.
    Những cuốn sách ấy:

    • Có lối trình bày chặt chẽ, ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu. Chủ yếu là giới thiệu các khái niệm cơ bản và các triết thuyết quan trọng từ cổ đại đến nay.

    • Phù hợp cho người mới học, đặc biệt là những ai thích suy nghĩ trừu tượng nhưng có khuynh hướng thực tiễn.

    • Mang đậm tinh thần khai phóng, ảnh hưởng triết học Pháp – phương Tây hiện đại – nhưng vẫn không xa rời văn hóa Á Đông.

    Hiện nay, bạn có thể tìm các bản số hóa (PDF, scan) những sách này trên các diễn đàn như TVE-4U, Diễn đàn sách xưa, hoặc các nhà sưu tầm cá nhân.

  3. Sau khi hiểu được những khái niệm cơ bản và có cái nhìn tổng quan về các triết thuyết xưa nay, tiếp tục tìm hiểu sâu hơn, xen kẽ triết học Tây Phương và triết học Đông phương 

  4. Nhập môn:
    • Thế giới Sophie (Jostein Gaarder): Tiểu thuyết dẫn dắt qua lịch sử triết học phương Tây, dễ đọc.
    • Triết học căn bản (William F. Lawhead): Tổng quan rõ ràng về triết học phương Tây.
    • "Tư tưởng phương Đông"  (Trần Văn Giàu).  Phần đầu rất sâu và có hệ thống.

    • Minh triết trong đời sống (Nguyễn Duy Cần): Triết học phương Đông thực tiễn, gần gũi.
    • Lăng già tâm ấn hoặc các tác phẩm của Thích Nhất Hạnh (rất triết lý, dễ tiếp cận)
  5. Kinh điển chọn lọc:
    • Cộng hòa (Plato): Bàn về công lý và xã hội lý tưởng.
    • Đạo Đức Kinh (Lão Tử): Dạy về sự hài hòa và sống vô vi.
    • Luận Ngữ (Khổng Tử): Hướng dẫn đạo đức và trách nhiệm xã hội.
  6. Ghi chép và đối thoại – tự đặt câu hỏi, viết lại suy nghĩ, trao đổi với bạn bè.

Tóm tắt: Triết học – đúng nghĩa – là gì?

Triết học, theo đúng nghĩa cổ điển và hiện đại, là:

  • Tư duy phê phán (critical thinking),

  • Đặt vấn đề thay vì áp đặt câu trả lời,

  • Tìm kiếm chân lý chứ không bảo vệ chân lý cố định.

---
link sách
1. Thế giới của Sophie. https://nhasachmienphi.com/the-gioi-cua-sophie.html
2. "Hành trình khám phá thế giới triết học phương Tây" của William F. Lawhead . https://drive.google.com/file/d/17Ja4dwpX88QD45JE-3F2N5nySxrl6yNY/view?usp=sharing
3. Không tìm thấy cuốn Minh triết trong đời sống của Nguyễn Duy Cần, nhưng có bản của tác giả khác:MINH TRIẾT TRONG ĐỜI SỐNG
Darshani Deane | Nguyên Phong dịch
Nguyễn Duy Cần viết khá nhiều sách về triết học: Nhập môn triết học Đông phương, Lão tử tinh hoa, Phật học tinh hoa, v.v. ebook khá dễ kiếm trên mạng.
Ví dụ với cuốn Nhập môn:
4. Lăng Già tâm ấn do Nhất Hạnh giảng không tìm thầy trên mạng, chỉ tìm thấy bài giảng của Thích Thanh Từ trong thư viện Hoa Sen.
Với người muốn tìm hiểu PG một cách có hệ thống, tôi nghĩ nên đọc bộ Phật học phổ thông của Thích Thiện Hoa. Còn nếu chỉ muốn liếc qua coi thử nó là cái gì, tôi nghĩ có thể đọc Nẻo vào Thiền học của Nhất Hạnh: https://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/thien-tap/neo-vao-thien-hoc/
5. Câu chuyện triết học. Will Durant. https://drive.google.com/file/d/1s1cf0TTHapFWOf9lwslLMWnmA6SQUymm/view?usp=sharing
5. các sách khác như bộ sách GK triết lớp 12, Đạo Đức Kinh, Luận ngữ .. có nhiều tác giả soạn/dịch và rất dễ tìm trên mạng.
ChatGPT không giới thiệu cuốn Câu chuyện triết học của W Durant. Nhưng tôi thấy cuốn này cũng rất đáng đọc, nên giới thiệu thêm ở đây.
https://drive.google.com/file/d/1s1cf0TTHapFWOf9lwslLMWnmA6SQUymm/view?usp=sharing

11/4/25

Đề thi Triết Tú tài 2 1965

 Bài làm của các trò Grok, DeepSeek, ChatGPT xem ở đây: https://8khung.blogspot.com/2025/04/e-thi-triet-1965.html

Sau đây là bài làm của trò manus và Gemini

Gemini

I. Câu hỏi (10 điểm):

  1. Phân tích khác phân chia thế nào?

    • Phân tích: Chia một đối tượng thành các phần nhỏ hơn để hiểu rõ cấu trúc và mối quan hệ giữa các phần.
    • Phân chia: Sắp xếp các đối tượng vào các nhóm hoặc loại khác nhau dựa trên các đặc điểm chung.
  2. Có mấy loại chứng minh toán học?

    • Có hai loại chính:
      • Chứng minh trực tiếp: Chứng minh một mệnh đề bằng cách sử dụng các định nghĩa, tiên đề và định lý đã được chứng minh trước đó.
      • Chứng minh gián tiếp: Chứng minh một mệnh đề bằng cách giả sử điều ngược lại và dẫn đến mâu thuẫn.
  3. Kể một thí dụ chứng tỏ toán học có giúp ích cho khoa học thực nghiệm.

    • Ví dụ: Toán học được sử dụng để tính toán quỹ đạo của các hành tinh, giúp các nhà thiên văn học dự đoán các hiện tượng thiên văn.
  4. Liệt kê các phương pháp của Stuart Mill.

    • Các phương pháp của Stuart Mill bao gồm:
      • Phương pháp đồng thuận
      • Phương pháp dị biệt
      • Phương pháp phần dư
      • Phương pháp biến thiên đồng thời
  5. Kỹ thuật có giúp gì cho khoa học không?

    • Có, kỹ thuật cung cấp các công cụ và phương pháp mới để thực hiện các thí nghiệm và thu thập dữ liệu, giúp khoa học tiến bộ.
  6. Thế nào là tập quán?

    • Tập quán là những hành vi hoặc thói quen được lặp đi lặp lại và trở thành một phần của văn hóa hoặc lối sống của một cộng đồng.
  7. Hãy cho biết một vài đặc tính của đam mê.

    • Đam mê thường có các đặc điểm:
      • Mạnh mẽ và mãnh liệt
      • Chiếm đoạt tâm trí và cảm xúc
      • Có thể dẫn đến hành động phi lý
  8. Những yếu tố nào làm nên ý thức đạo đức?

    • Các yếu tố bao gồm:
      • Lý trí
      • Cảm xúc
      • Giá trị văn hóa
      • Kinh nghiệm cá nhân
  9. Vì sao tự do là điều kiện của trách nhiệm?

    • Tự do cho phép con người lựa chọn hành động của mình, và do đó, họ phải chịu trách nhiệm về những hành động đó.
  10. Định nghĩa công bình.

    • Công bình là sự đối xử công bằng và bình đẳng đối với tất cả mọi người, dựa trên các nguyên tắc đạo đức và pháp lý.

Bài luận: Đề 1. 

Quyền có phải là hậu quả của sức mạnh không?

Mở đầu:

Câu hỏi về mối quan hệ giữa quyền và sức mạnh là một trong những vấn đề triết học chính trị kinh điển, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà tư tưởng từ cổ chí kim. Liệu quyền lực chỉ đơn thuần là sản phẩm của sức mạnh, hay nó còn có những nền tảng khác? Bài luận này sẽ đi sâu vào phân tích mối quan hệ phức tạp này, xem xét các quan điểm khác nhau và đưa ra một cái nhìn toàn diện.

Thân bài:

1. Quan điểm cho rằng quyền lực là hậu quả của sức mạnh:

  • Chủ nghĩa hiện thực chính trị: Quan điểm này cho rằng trong quan hệ quốc tế, quyền lực là yếu tố quyết định. Các quốc gia mạnh hơn có khả năng áp đặt ý chí của mình lên các quốc gia yếu hơn.
  • Chủ nghĩa Mác: Theo Mác, quyền lực chính trị là công cụ của giai cấp thống trị để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình.
  • Lịch sử: Nhiều ví dụ lịch sử cho thấy các đế chế và chế độ độc tài thường dựa vào sức mạnh quân sự và kinh tế để duy trì quyền lực.

2. Quan điểm phản bác quyền lực là hậu quả của sức mạnh:

  • Chủ nghĩa pháp quyền: Quan điểm này cho rằng quyền lực phải được giới hạn bởi luật pháp và các nguyên tắc công bằng.
  • Chủ nghĩa tự do: Chủ nghĩa tự do nhấn mạnh quyền tự do và quyền bình đẳng của cá nhân, cho rằng quyền lực không thể được sử dụng một cách tùy tiện.
  • Hợp pháp hóa: Quyền lực có thể được hợp pháp hóa thông qua sự đồng thuận của người dân, ví dụ như thông qua bầu cử dân chủ.
  • Đạo đức: Một số nhà triết học cho rằng quyền lực phải được sử dụng một cách đạo đức và phục vụ lợi ích chung của xã hội.

3. Phân tích mối quan hệ giữa quyền lực và sức mạnh:

  • Mặc dù sức mạnh có thể là một yếu tố quan trọng trong việc thiết lập và duy trì quyền lực, nhưng nó không phải là yếu tố duy nhất.
  • Quyền lực cũng có thể dựa trên các yếu tố khác như sự đồng thuận, hợp pháp hóa, đạo đức và luật pháp.
  • Trong một xã hội dân chủ, quyền lực phải được giới hạn và kiểm soát để tránh lạm dụng.

Kết luận:

Mối quan hệ giữa quyền lực và sức mạnh là một vấn đề phức tạp và đa chiều. Mặc dù sức mạnh có thể đóng một vai trò quan trọng, nhưng quyền lực không chỉ đơn thuần là hậu quả của sức mạnh. Nó còn được xây dựng trên nền tảng của luật pháp, đạo đức, và sự đồng thuận của người dân. Trong một xã hội lý tưởng, quyền lực phải được sử dụng một cách công bằng và phục vụ lợi ích chung của tất cả mọi người.


Menus

Phần I: Câu hỏi (10 điểm)

1. Phân-tích khác phân chia thế nào?

Phân tích và phân chia là hai phương pháp tư duy khác nhau trong logic học:
Phân tích (analysis) là quá trình tư duy nhằm phân giải một đối tượng thành các yếu tố cấu thành để hiểu rõ bản chất, cấu trúc và mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Phân tích đi sâu vào bên trong đối tượng, tìm hiểu các thuộc tính, đặc điểm và quy luật vận động của đối tượng.
Phân chia (division) là quá trình tư duy nhằm chia một khái niệm thành các loại, các dạng khác nhau theo một tiêu chí nhất định. Phân chia tạo ra các nhóm, các lớp đối tượng riêng biệt và không giao nhau. Mỗi đối tượng chỉ thuộc về một nhóm, một lớp.
Sự khác biệt cơ bản: Phân tích đi từ tổng thể đến các bộ phận cấu thành, tìm hiểu bản chất bên trong; còn phân chia đi từ khái niệm chung đến các loại, các dạng cụ thể, tạo ra hệ thống phân loại.

2. Có mấy loại chứng-minh toán-học?

Trong toán học có các loại chứng minh chính sau đây:
  1. Chứng minh trực tiếp: Xuất phát từ các tiên đề, định lý đã biết để suy ra kết luận cần chứng minh.
  2. Chứng minh gián tiếp (phản chứng): Giả sử mệnh đề cần chứng minh là sai, sau đó chỉ ra điều này dẫn đến mâu thuẫn, từ đó kết luận mệnh đề ban đầu là đúng.
  3. Chứng minh quy nạp toán học: Chứng minh mệnh đề đúng với n = 1, sau đó chứng minh nếu mệnh đề đúng với n = k thì nó cũng đúng với n = k+1.
  4. Chứng minh bằng phản ví dụ: Chứng minh một mệnh đề là sai bằng cách đưa ra một ví dụ cụ thể mà ở đó mệnh đề không đúng.
  5. Chứng minh bằng cách xây dựng: Chứng minh sự tồn tại của một đối tượng bằng cách xây dựng trực tiếp đối tượng đó.

3. Kể một thí-dụ chứng-tỏ toán-học có giúp ích cho khoa-học thực-nghiệm.

Toán học giúp ích cho khoa học thực nghiệm qua nhiều thí dụ, trong đó nổi bật là:
Thí dụ về lý thuyết tương đối của Einstein: Einstein đã sử dụng hình học phi Euclid và phép tính tensor để xây dựng lý thuyết tương đối rộng. Các phương trình toán học của ông đã dự đoán hiện tượng uốn cong ánh sáng khi đi qua trường hấp dẫn mạnh. Năm 1919, trong một cuộc nhật thực toàn phần, các nhà thiên văn học đã quan sát và xác nhận hiện tượng này, chứng minh lý thuyết của Einstein là đúng. Đây là minh chứng rõ ràng cho việc toán học có thể dự đoán các hiện tượng vật lý trước khi chúng được quan sát trong thực tế.

4. Liệt kê các phương-pháp của Stuart Mill.

Stuart Mill đã đề xuất năm phương pháp quy nạp để xác định mối quan hệ nhân quả, được gọi là "Mill's Methods":
  1. Phương pháp đồng thuận (Method of Agreement): Nếu hai hay nhiều trường hợp của hiện tượng đang nghiên cứu chỉ có một hoàn cảnh chung, thì hoàn cảnh đó là nguyên nhân hoặc kết quả của hiện tượng.
  2. Phương pháp dị biệt (Method of Difference): Nếu một trường hợp xảy ra hiện tượng và một trường hợp không xảy ra hiện tượng chỉ khác nhau ở một hoàn cảnh, thì hoàn cảnh đó là nguyên nhân hoặc một phần của nguyên nhân của hiện tượng.
  3. Phương pháp đồng thuận và dị biệt kết hợp (Joint Method of Agreement and Difference): Kết hợp hai phương pháp trên để tăng độ tin cậy.
  4. Phương pháp biến đổi đồng hành (Method of Concomitant Variations): Nếu một hiện tượng biến đổi theo một cách đặc biệt khi một hiện tượng khác biến đổi theo một cách đặc biệt, thì giữa chúng có mối quan hệ nhân quả.
  5. Phương pháp tàn dư (Method of Residues): Loại bỏ các nguyên nhân đã biết của một hiện tượng phức tạp, phần còn lại của hiện tượng được gây ra bởi phần còn lại của các nguyên nhân.

5. Kỹ-thuật có giúp gì cho khoa-học không?

Kỹ thuật có nhiều đóng góp quan trọng cho khoa học:
  1. Cung cấp công cụ và thiết bị: Kỹ thuật tạo ra các thiết bị, dụng cụ thí nghiệm, máy móc đo lường chính xác giúp các nhà khoa học quan sát, đo đạc và phân tích các hiện tượng tự nhiên.
  2. Mở rộng khả năng nghiên cứu: Kỹ thuật giúp con người vượt qua giới hạn tự nhiên, như kính hiển vi để quan sát thế giới vi mô, kính thiên văn để quan sát vũ trụ xa xôi.
  3. Kiểm chứng lý thuyết: Kỹ thuật giúp xây dựng các mô hình thực nghiệm để kiểm chứng các lý thuyết khoa học.
  4. Ứng dụng tri thức khoa học: Kỹ thuật biến tri thức khoa học thành các ứng dụng thực tiễn, từ đó đặt ra các vấn đề mới cho khoa học.
  5. Phát triển phương pháp tính toán: Kỹ thuật máy tính giúp xử lý dữ liệu lớn, mô phỏng các hiện tượng phức tạp, hỗ trợ đắc lực cho nghiên cứu khoa học.

6. Thế nào là tập-quán?

Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực cụ thể.
Đặc điểm của tập quán:
  1. Là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày.
  2. Được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước chung.
  3. Có tính ổn định và bền vững theo thời gian.
  4. Có tính tự nguyện tuân thủ, không cần sự cưỡng chế từ bên ngoài.
  5. Phản ánh đặc trưng văn hóa, lối sống của một cộng đồng.
Tập quán có thể được áp dụng khi các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định, nhưng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật.

7. Hãy cho biết một vài đặc-tính của đam-mê.

Đam mê có những đặc tính cơ bản sau:
  1. Tính kích thích: Đam mê tạo ra sự hứng khởi, niềm vui và động lực mạnh mẽ. Khi làm việc với đam mê, con người không cảm thấy mệt mỏi, chán nản hay lo lắng.
  2. Tính bền bỉ: Đam mê giúp con người kiên trì theo đuổi mục tiêu dù gặp khó khăn, thử thách. Người có đam mê sẵn sàng dành nhiều thời gian, công sức để theo đuổi điều mình yêu thích.
  3. Tính sáng tạo: Đam mê thúc đẩy tư duy sáng tạo, giúp con người tìm ra những giải pháp mới, cách tiếp cận độc đáo.
  4. Tính định hướng: Đam mê giúp con người xác định rõ mục tiêu, con đường đi và những giá trị mà họ muốn theo đuổi trong cuộc sống.
  5. Tính liên kết với sở trường: Đam mê thường gắn liền với những điều mà con người có khả năng làm tốt, những lĩnh vực mà họ có thể phát huy tối đa tiềm năng.
  6. Nguy cơ nhầm lẫn: Đam mê có thể bị nhầm lẫn với những ham muốn nhất thời hoặc bị ảnh hưởng bởi xu hướng xã hội, dẫn đến việc theo đuổi những điều không thực sự phù hợp.

8. Những yếu tố nào làm nên ý thức đạo đức?

Ý thức đạo đức được hình thành từ nhiều yếu tố:
  1. Tri thức đạo đức: Hiểu biết về các giá trị, chuẩn mực, quy tắc đạo đức của xã hội và cộng đồng.
  2. Tình cảm đạo đức: Khả năng cảm nhận, đồng cảm với người khác, biết xấu hổ khi làm điều sai trái, tự hào khi làm điều tốt.
  3. Niềm tin đạo đức: Tin tưởng vào các giá trị đạo đức, cho rằng sống theo đạo đức sẽ mang lại hạnh phúc cho bản thân và cộng đồng.
  4. Lý trí đạo đức: Khả năng suy xét, đánh giá, phân biệt đúng sai, thiện ác trong các tình huống cụ thể.
  5. Ý chí đạo đức: Quyết tâm hành động theo các chuẩn mực đạo đức dù gặp khó khăn, cám dỗ.
  6. Thói quen đạo đức: Các hành vi đạo đức được lặp đi lặp lại đến mức trở thành thói quen, phản xạ tự nhiên.
  7. Môi trường xã hội: Ảnh hưởng từ gia đình, nhà trường, cộng đồng và xã hội rộng lớn hơn.
  8. Văn hóa và truyền thống: Các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng được truyền từ đời này sang đời khác.

9. Vì sao tự-do là điều kiện của trách-nhiệm?

Tự do là điều kiện tiên quyết của trách nhiệm vì những lý do sau:
  1. Tự do lựa chọn: Chỉ khi con người có quyền tự do lựa chọn giữa các phương án hành động khác nhau, họ mới có thể chịu trách nhiệm về lựa chọn của mình. Nếu không có tự do lựa chọn, hành động chỉ là sự cưỡng bức, không thể quy trách nhiệm.
  2. Tự do ý chí: Trách nhiệm đòi hỏi hành động phải xuất phát từ ý chí tự do của chủ thể, không bị ép buộc bởi các yếu tố bên ngoài. Chỉ khi con người tự do quyết định, họ mới phải chịu trách nhiệm về quyết định đó.
  3. Nhận thức về hậu quả: Tự do đi kèm với khả năng nhận thức và dự đoán hậu quả của hành động. Khi con người tự do lựa chọn, họ phải ý thức được hậu quả có thể xảy ra và chịu trách nhiệm về những hậu quả đó.
  4. Tự do và ràng buộc: Theo triết học hiện sinh, tự do không phải là vô hạn định mà luôn gắn với trách nhiệm. Khi con người tự do, họ phải tự ràng buộc mình vào trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng.
  5. Tự do như nền tảng của đạo đức: Không có tự do, không thể có đạo đức và trách nhiệm đạo đức. Chỉ khi con người tự do lựa chọn làm điều tốt hay điều xấu, họ mới có thể được đánh giá về mặt đạo đức.

10. Định nghĩa công-bình.

Công bình là một khái niệm đạo đức và pháp lý, chỉ sự công bằng, chính đáng trong các mối quan hệ xã hội, trong việc phân phối quyền lợi và nghĩa vụ.
Theo Aristotle, công bình là một kiểu bình đẳng, nhưng không phải là đối xử với mọi người như nhau. Công bình đòi hỏi đối xử bình đẳng với những người bình đẳng và đối xử không bình đẳng với những người không bình đẳng. Ví dụ, nếu tất cả học sinh trong lớp toán đều được cho điểm "C", họ đã được đối xử bình đẳng nhưng không công bằng, vì những học sinh giỏi hơn hoặc chăm chỉ hơn xứng đáng được điểm cao hơn.
Công bình bao gồm hai khía cạnh chính:
  1. Công bình phân phối: Liên quan đến việc phân chia các lợi ích và gánh nặng trong xã hội theo các tiêu chí như công lao, nhu cầu, khả năng.
  2. Công bình hiệu chỉnh: Liên quan đến việc sửa chữa những bất công, đền bù thiệt hại, trừng phạt hành vi sai trái.
Công bình là một trong những đức tính quan trọng nhất của con người và là nền tảng của một xã hội ổn định, hòa bình và phát triển.

Phần II: Bài Luận (10 điểm)

Đề 1: Quyền có phải là hậu-quả của sức mạnh không?

Mở bài

Trong lịch sử tư tưởng triết học, mối quan hệ giữa quyền lực và sức mạnh luôn là một chủ đề gây tranh cãi. Nhiều triết gia đã đưa ra những quan điểm khác nhau về việc liệu quyền có phải là hậu quả tất yếu của sức mạnh hay không. Câu hỏi này không chỉ mang tính học thuật mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong việc hiểu về bản chất của quyền lực, cách thức tổ chức xã hội và các mối quan hệ chính trị.

Thân bài

1. Quan điểm cho rằng quyền là hậu quả của sức mạnh
Nhiều triết gia đã ủng hộ quan điểm rằng quyền chính là hậu quả của sức mạnh:
Thucydides và chủ nghĩa hiện thực: Trong tác phẩm "Lịch sử chiến tranh Peloponnese", Thucydides đã viết: "Kẻ mạnh làm những gì họ có thể làm, và kẻ yếu chịu đựng những gì họ phải chịu". Quan điểm này cho thấy quyền lực chính trị xuất phát từ sức mạnh quân sự và kinh tế.
Niccolò Machiavelli: Trong "Quân Vương", Machiavelli lập luận rằng để duy trì quyền lực, nhà cai trị phải sẵn sàng sử dụng sức mạnh khi cần thiết. Ông viết: "Người nào dâng hiến quyền lực cho kẻ khác thì sẽ tự chôn vùi chính mình". Theo ông, quyền lực chính trị không thể tách rời khỏi khả năng sử dụng sức mạnh.
Thomas Hobbes: Trong "Leviathan", Hobbes cho rằng trong trạng thái tự nhiên, con người sống trong tình trạng "chiến tranh của tất cả chống lại tất cả". Để thoát khỏi tình trạng này, con người phải từ bỏ một số quyền tự nhiên và trao quyền cho nhà nước. Quyền lực của nhà nước, theo Hobbes, dựa trên khả năng sử dụng sức mạnh để áp đặt trật tự.
Friedrich Nietzsche: Với khái niệm "ý chí quyền lực", Nietzsche cho rằng khát vọng quyền lực là động lực cơ bản của con người. Quyền lực không chỉ là khả năng kiểm soát người khác mà còn là khả năng tự khẳng định và vượt qua giới hạn của bản thân.
2. Quan điểm phản đối việc quyền chỉ là hậu quả của sức mạnh
Ngược lại, nhiều triết gia khác lại cho rằng quyền không đơn thuần là hậu quả của sức mạnh:
Plato: Trong "Cộng hòa", Plato lập luận rằng quyền lực chính trị nên dựa trên tri thức và đức hạnh, không phải sức mạnh. Ông đề xuất mô hình nhà nước lý tưởng do các triết gia cai trị - những người có kiến thức về điều thiện.
Aristotle: Aristotle phân biệt giữa quyền lực chính đáng và quyền lực không chính đáng. Theo ông, quyền lực chính đáng phải phục vụ lợi ích chung, không chỉ lợi ích của người cầm quyền. Quyền lực dựa trên sức mạnh đơn thuần là một hình thức thoái hóa của chính quyền.
John Locke: Trong "Khảo luận thứ hai về chính quyền", Locke lập luận rằng quyền lực chính trị xuất phát từ sự đồng thuận của người dân, không phải từ sức mạnh. Chính quyền chỉ chính đáng khi được sự đồng ý của người bị trị và tôn trọng các quyền tự nhiên của họ.
Immanuel Kant: Kant đề cao lý tưởng về một trật tự pháp lý dựa trên lý tính, không phải sức mạnh. Theo ông, quyền lực chính trị chỉ chính đáng khi nó phù hợp với các nguyên tắc đạo đức phổ quát và tôn trọng phẩm giá con người.
Jean-Jacques Rousseau: Trong "Khế ước xã hội", Rousseau lập luận rằng quyền lực chính trị chính đáng xuất phát từ ý chí chung của cộng đồng, không phải từ sức mạnh của cá nhân hay nhóm người. Ông viết: "Kẻ mạnh nhất không bao giờ đủ mạnh để luôn luôn là chủ nhân, trừ khi họ biến sức mạnh thành quyền và sự vâng phục thành nghĩa vụ."
3. Phân tích biện chứng về mối quan hệ giữa quyền và sức mạnh
Thực tế, mối quan hệ giữa quyền và sức mạnh phức tạp hơn việc đơn thuần khẳng định hoặc phủ định một trong hai quan điểm trên:
Sự chuyển hóa từ sức mạnh sang quyền: Max Weber định nghĩa quyền lực chính đáng là khả năng ra lệnh và được tuân theo, không chỉ dựa trên sức mạnh cưỡng bức. Theo ông, quyền lực chính đáng có thể dựa trên truyền thống, đặc tính cá nhân (quyền lực thần thánh) hoặc luật pháp hợp lý. Quá trình chuyển hóa từ sức mạnh đơn thuần sang quyền lực chính đáng đòi hỏi sự chấp nhận của người bị trị.
Sự phụ thuộc lẫn nhau: Michel Foucault cho rằng quyền lực không chỉ là khả năng áp đặt ý chí mà còn là một mạng lưới quan hệ phức tạp, thấm nhuần trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Quyền lực không chỉ đàn áp mà còn sản sinh ra tri thức và chủ thể.
Vai trò của các thiết chế: Theo John Rawls, các thiết chế xã hội công bằng có thể giúp điều hòa sức mạnh và quyền lực, đảm bảo quyền lực được sử dụng vì lợi ích chung. Công lý, theo ông, là đức tính đầu tiên của các thiết chế xã hội.
Sự tương tác giữa quyền lực vật chất và tinh thần: Antonio Gramsci phân biệt giữa sự thống trị (dựa trên sức mạnh cưỡng bức) và sự lãnh đạo về mặt đạo đức và trí tuệ (hegemony). Quyền lực bền vững đòi hỏi sự kết hợp giữa hai yếu tố này.

Kết luận

Qua phân tích trên, có thể thấy mối quan hệ giữa quyền và sức mạnh không đơn giản là quan hệ nhân quả một chiều. Trong khi sức mạnh có thể là cơ sở vật chất cho quyền lực, nhưng quyền lực chính đáng và bền vững đòi hỏi nhiều yếu tố khác như sự đồng thuận, tính hợp pháp, đạo đức và phục vụ lợi ích chung.
Trong xã hội hiện đại, chúng ta hướng tới một trật tự xã hội nơi quyền lực không chỉ dựa trên sức mạnh mà còn dựa trên pháp luật, đạo đức và sự đồng thuận. Quyền lực chính đáng phải tôn trọng phẩm giá con người, bảo vệ các quyền cơ bản và phục vụ lợi ích chung của cộng đồng.
Như vậy, câu trả lời cho câu hỏi "Quyền có phải là hậu quả của sức mạnh không?" không thể là một câu trả lời đơn giản có hoặc không. Quyền và sức mạnh có mối quan hệ biện chứng, trong đó sức mạnh có thể là điều kiện cần nhưng không phải là điều kiện đủ cho quyền lực chính đáng và bền vững.