13/4/14

Du xuân - nhìn lại chân dung 13 vị vua nhà Nguyễn

Nhân đang có Festival Huế 2014, mời nghe nhã nhạc cung đình Huế, và nhìn lại chân dung 13 vị vua nhà Nguyễn.



Sau đây là chân dung 13 vị vua triều Nguyễn được khắc họa và đăng tải trên website ABS Travel lấy lại từ trang kienthuc.net.vn. Phần đọc thêm Một chút lịch sử lấy từ trang nguyentl.free.fr

Gia Long (1762 – 1820)

Gia Long (1762 – 1820) là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.

click đọc thêm Một chút lịch sử
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm Ất Dậu (1765), Chúa Vũ Nghuyễn Phúc Khoát mất. Quyền thần Trương Phúc Loan chuyên quyền thay Chúa đổi ngôi, đưa Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi Chúa để dễ bề khống chế. Từ đó Ðàng Trong bắt đầu đi vào con đường suy thoái, sưu cao thuế nặng, khắp nơi đều vang lên tiếng than oán và cuối cùng dẫn đến việc ba anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa năm Quí Tỵ (1773). Lợi dụng lúc Ðàng Trong có nội loạn, Chúa Trịnh xua quân qua sông Linh Giang tấn công Phú Xuân (Huế). Phú Xuân thất thủ, tôi chúa họ Nguyễn phải chạy vào Gia Ðịnh, chấm dứt sự nghiệp của Chúa Nguyễn ở Ðàng Trong.

Trong số người chạy loạn có Nguyễn Ánh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. Nguyễn Ánh là con của hoàng tử Nguyễn Phúc Côn và bà Nguyễn Thị Hoàng. Nguyễn Ánh (hay Nguyễn Phúc Ánh) sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762), thuở thiếu thời đã tỏ ra là một con người có chí và thông minh vì thế rất được Chúa yêu, tuy còn nhỏ nhưng ông được Chúa phong cho chức Chưởng sứ, ông đã tỏ ra là một tướng cầm quân có tài.

Năm Tân Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Ðịnh, Chúa tôi họ Nguyễn phải bỏ thành kéo tàn quân chạy về Ðịnh Tường, Cần Thơ. Quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, bắt được và giết Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Ánh bắt đầu một cuộc sống long đong và vất vả.

Vài năm sau, Nguyễn Ánh lấy lại được Sài Côn (Saigon) rồi tiến ra lấy lại Bình Thuận. Năm Canh Tí (1780) Nguyễn Ánh lên ngôi Vương ở Gia Ðịnh. Năm Nhâm Dần (1782), thấy thế lực Nguyễn Vương ngày càng mạnh, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo quân vào đánh, Saigon thất thủ, Nguyễn Vương lại bôn tẩu về Hà Tiên rồi chạy ra đảo Phú Quốc.

Nguyễn Vương vốn là con người có chí nên ông bất chấp gian khổ, canh cánh trong lòng một mối thù phục quốc. Chính vì thế nên khi biết được Giám mục Pháp Bá Ða Lộc (Pigneau de Béhaine), người có uy tín và thế lực tại Pháp thời bấy giờ đang ở Ðàng Trong , Nguyễn Vương không ngần ngại cho mời giám mục tới và nhờ giám mục làm sứ giả trong việc cầu viện Pháp. Nguyễn Vương đã để cho con trưởng của mình là Nguyễn Phúc Cảnh mới 4 tuổi theo Giám mục Bá Ða Lộc sang Pháp làm con tin.

Trong thơ cho Vua Pháp (Louis XVI), Nguyễn Vương xin Pháp giúp 1.500 lính và tàu bè, súng ống, vật dụng. Ðể đền bù, Pháp được độc quyền buôn bán ở nước Việt Nam, nhường cho nước Pháp đảo Côn Lôn (Côn đảo), và cảng Hội An (có sách nói là cảng Ðà Nẵng).

Giám mục Bá Ða Lộc ký được hiệp ước Versailles với Pháp ngày 28-11-1787, vua Pháp giao trách nhiệm thi hành hiệp ước cho một ông tướng đống quân ở Ấn Ðộ nhưng ông nầy không thích Giám mục Bá Ða Lộc nên nói ra với vua Pháp và cũng vì nước Pháp đang bị nội loạn nên rốt cuộc vua Pháp không thi hành hiệp ước. Chờ mãi không được, Giám mục Bá Ða Lộc bỏ tiền riêng để mướn một số lính đánh thuê rồi trở về Việt Nam. Năm 1789 thì Hoàng tử về đến Gia Ðịnh.
Khi đưa con đi rồi Nguyễn Vương cũng từ giã mẹ và vợ để sang Xiêm La (Thái Lan) cầu cứu. Tới tháng 6 năm 1784 thì vua Xiêm cho tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 20 vạn quân và 300 chiếc thuyền sang giúp Nguyễn Vương. Lúc đầu quân Xiêm đại thắng chiếm nhiều tỉnh Kiên Giang, Trà Ôn, Sa Ðéc. Sau đích thân Nguyễn Huệ đem đại quân vào đánh, quân Xiêm thua bỏ chạy về nước, Nguyễn Vương cũng chạy theo về Xiêm La lánh nạn.

Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh tiến chiếm Phú Xuân rồi rồi thừa thắng tiến ra Thăng Long (Hà Nội) diệt họ Trịnh. Việc Nguyễn Huệ ra Bắc làm cho Nguyễn Nhạc (anh của Nguyễn Huệ) nghi ngờ nên cũng vội vã đem quân ra Bắc, hai anh em gặp nhau ở Thăng Long rồi cùng về. Nguyễn Huệ được đóng quân ở Phú Xuân và được phong là Bắc Bình Vương. Từ đó anh em Tây Sơn đã có mầm móng bất hoà, nhiều lần hai anh em đã đem quân đánh nhau.

Vì ham tranh quyền nên anh em Tây Sơn đã không ngó ngàng gì đến các xứ Ðàng Trong nhất là từ Qui Nhơn (Bình Ðịnh) trở vào, lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Vương đã cùng với các bộ tướng củ, tháng 9 năm Ðinh Mùi (1787), trở về nước. Nguyễn Vương đã được dân miền Nam giúp đở rất nhiều, có nhiều tướng giỏi đến phò như Võ Tánh, nên chẳng mấy chốc lực lượng Nguyễn Vương đã lớn mạnh. Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ phải bỏ Gia Ðịnh trở về Qui Nhơn. Nguyễn Vương lấy toàn bộ xứ Gia Ðịnh đặt làm bản doanh rồi bắt đầu tổ chức việc cai trị. Năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Vương cho đắp lại thành Gia Ðịnh theo kiểu bát quái có 8 cửa xây bằng đá ong.

Thấy Nguyễn Vương lớn mạnh, tháng 3 năm Nhâm Dần (1782) vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn đem quân vào đánh nhưng bị quân Nguyễn Vương đánh lui. Kể từ đó về sau, quân Tây Sơn luôn thất bại khi đem quân vào đánh.

Ở Phú Xuân, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lại tiến quân ra Bắc diệt nhà Lê rồi cho Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm ở lại để cai trị Bắc Hà. Vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Ðược tin, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Ðế ở Phú Xuân lấy hiệu là Quang Trung thống lãnh đại quân tiến ra Bắc đánh tan 20 vạn quân nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị phải chạy thoát thân bỏ quên cả ấn tín.

Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung băng hà, con là Quang Toảng lên ngôi mới 10 tuổi, vì thế Vương nghiệp triều Tây Sơn nhanh chóng rơi vào suy vong.

Ðược tin vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Vương rất vui mừng, đẩy mạnh việc chuẩn bị đánh Tây Sơn. Dưới trướng Nguyễn Vương lúc bấy giờ có nhiều quan chức người nước ngoài như Dayot (Ông Trí), Philippe Vannier (Ông Chấn), Guilloux, Laurent Barisy (Ông Mân), De Forçant (Ông Lăng), Jean Baptiste Chaigneau, Olivier de Puymanel (Ông Tín), Theodore Lebuen. Những quan chức nầy là những cố vấn kỹ thuật cho Nguyễn Vương trong lãnh vực quân sự, vũ khí, đấp thành, v.v...

Cuộc chiến kéo dài đến năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Vương chiếm lại được Phú Xuân, và ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhăm Tuất (1802) Nguyễn Vương lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. Lên ngôi xong vua Gia Long đưa quân tiến ra đất Bắc, quân Tây Sơn tan rã lần hồi. Ðến tháng 6 cùng năm thì vua Gia Long đã thống nhất được sơn hà, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 300 năm.

Ngài ra lệnh quật mả vua Nguyễn Nhạc và vua Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi còn đầu thì đem bỏ giam trong ngục tối (có sách viết là đốt thây thành tro rồi đổ xuống sông, còn sọ thì làm gáo đựng nước tiểu).

Vua sai sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam-Việt, nhưng vì đất Nam-Việt đã có bên Tàu đời nhà Triệu ngày trước nên Thanh triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt-Nam để cho khỏi lầm với tên củ.

Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ có ngôi Hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì con lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.

Bỏ chức Tể tướng, lập ra 6 bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư:

-Bộ Lại : coi việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc, v.v...
-Bộ Hộ : coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc, v.v...
-Bộ Lễ : coi việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi cử, v.v...
-Bộ Binh : coi việc binh lính, v.v...
-Bộ Hình : coi việc pháp luật, v.v...
-Bộ Công : coi việc làm cung điện, dinh thự, v.v...

Ngài lập Văn Miếu ở các trấn thờ đức Khổng Tử. Mở trường lớn ở Kinh đô để dạy con các quan và các sĩ-tử (sau nầy vua Minh Mạng đổi tên là Quốc Tử Giám). Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học ra làm quan...

Vua Gia Long không theo đạo Thiên Chúa dù Ngài rất biết ơn Giám mục Bá Ða Lộc và có nhiều thiện cảm với các giáo sĩ, nhưng Hoàng tử Cảnh đã theo đạo khi ở chung với Giám mục Bá Ða Lộc. Một lá thư của Cha Lelabousse viết vào tháng 6-1792 cho biết : "Trong buổi lễ được tổ chức vào khoãng cuối tháng 7-1789, Hoàng tử Cảnh nhất định không đến lạy trước bàn thờ tổ tiên đã làm cho Nguyễn Vương đau khổ tủi nhục và tức giận, vứt bỏ phẩm phục, mũ niệm, nói rằng ông là một người cha bất hạnh".

Nhưng vua vẫn một lòng kính trọng Giám mục, trong một lá thư của Giám mục viết cho Hội truyền giáo hải ngoại năm 1795, Giám mục kể rằng trong năm đó có mười chín ông quan trong triều đình viết sớ đưa lên cho Nguyễn Ánh xin Ngài thận trọng đừng để Giám mục lo việc giáo huấn Hoàng tử Cảnh. Nguyễn Vương nổi trận lôi đình, vứt sớ xuống đất và kể những công trạng của Giám mục đối với gia đình và sự nghiệp của Vương. Nguyễn Ánh hăm dọa là sẽ phạt thẳng tay những người có ý nghĩ xấu nầy. Xong Vương vào hậu cung kể lại cho vợ nghe và hai người quyết định là giấu chuyện nầy không cho Giám mục biết.

Ngày 19 tháng 12 năm Canh Thìn (3-2-1820) vua Gia Long băng hà thọ 58 tuổi (theo Trần Trọng Kim thì Ngài mất năm 1819).

Minh Mạng (1791 – 1841)

Vua Minh Mạng, cũng gọi là Minh Mệnh (1791 – 1841), tức Nguyễn Thánh Tổ, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn. Được xem là một ông vua năng động và quyết đoán, Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao, trong đó có việc ngăn chặn quyết liệt ảnh hưởng phương Tây đến Việt Nam.

click đọc thêm Một chút lịch sử
Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Ðảm, sanh năm Tân Hợi (1791) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Ðịnh, con thứ tư của vua Gia Long và bà Thuận Thiên Trần Hoàng hậu. Khi Hoàng tử Cảnh mất thì Ngài được lập làm Thái tử, khi vua Gia Long băng hà, theo di chiếu Ngài lên nối ngôi, lúc nầy đã 30 tuổi và đổi niên hiệu là Minh Mạng.

Ngài tiếp tục việc tu sửa lại kinh thành Huế, công trình kiến trúc quan trọng nhất dưới thời Minh Mạng là cửa Ngọ Môn. Các sách đều khen ông là một nhà vua văn võ kiêm toàn (nhưng theo một lá thư của một vị Giám mục người Pháp thì Vua không có tài văn chương gì cả mà chỉ do các ông quan nịnh bợ Vua hùa theo ca tụng). Vua Minh Mạng bắt đầu một cuộc cải cách từ nội trị đến ngoại giao.

Về mặt nội trị, nhà vua bỏ hầu hết các dinh, các trấn mà thành lập các tỉnh (31 tỉnh), thành lập Nội các và Cơ mật viện để cùng với vua bàn chuyện nước (tới thời Bảo Ðại mới bị giải tán). Lập Quốc Tử Giám. Bắt đầu mở các khóa thi Hội, thi Ðình để lấy tiến sĩ (tới thời Khải Ðịnh mới bị giải tán). Lập Quốc sử quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Phát thưởng cho những ai tìm được sách củ hay làm ra sách mới v.v...

Các nước láng giềng xa gần đều gởi sứ thần đến thông hiếu và vua cũng cử nhiều phái đoàn đến các nước đó để ban giao. Năm Mậu Tuất (1838) vua Minh Mạng đổi tên nước là Ðại Nam.

Ngài không thích đạo Thiên Chúa nên không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước, Ngài có ra dụ (sắc lệnh) nói rằng : "Ðạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo". Lúc bấy giờ không phải là một mình vua ghét đạo Thiên Chúa mà thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ý cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cắm thế nào mặc lòng, vẫn có người đi giảng đạo Thiên Chúa, nhà vua lấy điều đó làm trái phép nên ra dụ lần nữa nói rằng ai bắt được giáo sĩ đem nộp thì được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và các nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo. Việc cấm đạo nầy cứ dai-đẳng mãi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.

Cũng vì việc cấm đạo Thiên Chúa cho nên sự buôn bán với người nước ngoài cũng bị cản trở vì Triều đình thấy thỉnh thoảng khi có chiếc tàu buôn lại thì lại có một vài người giáo sĩ Thiên Chúa giáo trên đó nên càng lạnh nhạt với người nước ngoài. Vua từ chối không tiếp một tàu ngoại quốc nào cả ngay cả tàu Pháp. Hai ông quan người Pháp (Chaigneau và Vannier) làm trong triều đình từ thời Gia Long thấy vua Minh Mạng có vẻ không thích người ngoại quốc nên cũng xin từ chức rồi đem gia đình trở về Pháp.

Sau nầy vua Pháp có gởi sứ giả sang xin ban giao với Việt Nam nhưng vua Minh Mạng không tiếp, nước ta coi như bế quan tỏa cảng từ đó.

Vua Minh Mạng mất năm Canh Tí (1840), thọ 50 tuổi, trị vì được 21 năm


Thiệu Trị (1807 – 1847)

Vua Thiệu Trị (1807 – 1847) là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa.

click đọc thêm Một chút lịch sử
Vua Minh Mạng băng hà, người con trưởng của vua là Hoàng Tử Nguyễn Phúc Tuyền, húy là Miên Tông sinh năm Ðinh Mão (1807) được di mệnh nối ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Sách nói vua Thiệu Trị là một người hiền hoà, siêng năng cần mẫn nhưng không có tính hoạt động như vua cha. Mọi việc đều noi theo cũ không có gì đổi mới.

Ông nổi tiếng là ông vua thi sĩ, có để lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là hai bài thơ chữ Hán có tên là Vũ Trung Sơn Thủy (cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Ðêm thơ ở Phước Viên). Cả hai bài không trình bài theo lối thường mà viết thành năm cái vòng tròn đồng tâm, mổi vòng tròn có một số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nhìn vào như một "trận đồ bát quái", vua có chỉ cách đọc và đố là kiếm ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay chưa ai kiếm ra được hết.

Dưới thời nầy đất Nam-kỳ có nhiều giặc giã, dân Chân-Lạp nổi loạn và quân Tiêm-La sang đánh phá, vua phải dùng binh đánh dẹp mãi tới năm Thiệu Trị thứ bảy (1847) mới yên được.

Từ khi vua Thiệu Thị lên ngôi thì việc cấm đạo Thiên Chúa mới nguôi đi được một ít, nhưng triều đình vẫn ghét đạo, và những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn bị giam ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroïne, ông nầy đem tàu vào Ðà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha. Năm Thiệu Trị thứ năm (1845) có người Giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết, sai quân đem tàu Alcmène vào Ðà Nẵng lĩnh giám mục ra.

Năm Ất Tỵ (1847) quan nước Pháp biết rằng ở Huế không còn giáo sĩ bị giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Ðà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới. Lúc hai bên còn đang thương nghị về việc ấy thì quan nước Pháp thấy thuyền của ta đóng gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân ta đấp đồn lũy, mới nghi có sự âm mưu gì chăng bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.

Vua Thiệu Trị thấy vậy tức giận vô cùng, lại có dụ (sắc lệnh) ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội những người trong nước đi theo đạo. Vài tháng sau thì vua lâm bệnh nặng.

Nguyễn Phúc Hồng Bảo là con trưởng của vua Thiệu Trị (nhưng lại không phải là con của chánh phi Phạm Thị Hằng mà là con của bà phi Ðinh Thị Hạnh). Bảo vốn là người ham chơi, không chịu học hành, tổi ngày chỉ lo đánh bạc. Vua Thiệu Trị có la rầy nhiều lần nhưng không được.

Khi vua lâm bệnh nặng, cho đòi các quan đại thần vào trối. Trương Ðăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp vào chầu. Ngài phán rằng Hồng Bảo tuy lớn nhưng ngu độn, ít học, chỉ ham vui chơi, nối nghiệp không đặng, con thứ hai là Hồng Nhậm, thông minh, ham học giống vua có thể cai trị nước được. Vua yêu cầu các quan phải thi hành tờ di chiếu của vua để lại. Triều thần khóc, bái lạy và gọi Hồng Nhậm đến trao ấn và kiếm. Hồng Bảo được tin, tức giận đem thân binh vào nhưng bị quan Phạm Thế Lịch đem quân cản lại chỉ để cho một mình Hồng Bảo vào mà thôi. Hồng Bảo vào gặp vua lạy lục, vua quay mặt đi không trả lời, Phạm Thế Lịch và Vũ Văn Giải đưa Hồng Bảo ra hậu cung và cầm giữ ở đó. Mấy ngày sau thì vua băng hà tại điện Càn Thành (1847), làm vua được 7 năm, thọ 40 tuổi (theo Nguyễn Phúc tộc gia phả).



Tự Đức (1829 – 1883)

Vua Tự Đức (1829 – 1883), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm hay còn có tên Nguyễn Phúc Thì, là con trai thứ hai của vị hoàng đế thứ 3 triều Nguyễn,Thiệu Trị. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883. Trong thời gian trị vì của ông, nước Đại Nam dần dần rơi vào tay quân Pháp.

click đọc thêm Một chút lịch sử
Hồng Nhậm lên ngôi lúc 19 tuổi, lấy niên hiệu là Tự Ðức, việc lên ngôi của Tự Ðức bị nhiều người nghi ngờ nên cũng có người chống. Hồng Bảo (anh Tự Ðức) âm mưu với một số người để tìm cách giành lại ngai vàng. Việc bại lộ, Hồng Bảo bị hạ ngục và bị kết án tử hình. Tự Ðức tha chết cho anh nhưng cho lệnh giam lại, nhưng không hiểu sao Hồng Bảo thắt cổ chết trong ngục (có sách viết là bị ép uống thuốc độc). Cái chết của Hồng Bảo trở thành một nghi án. Vua Tự Ðức sợ sau nầy sử không chép đúng sự thật nên tự mình kể lại cuộc đời của mình và cho khắc vào bia đá lớn để lại cho hậu thế, bia nầy ngày nay vẫn còn ở trong lăng Tự Ðức.

Người ở trong nước chia ra làm bốn hạng là : sĩ, nông, công, thương. Sĩ : là hạng người chuyên nghề đi học, thầy thuốc, thầy bói, v.v... những nghề phong lưu nhàn hạ. Nông : là hạng người chuyên nghề làm ruộng. Công : là hạng người làm thợ hoặc làm một công nghệ gì để lấy lợi (dệt vải, làm mắm muối, v.v...). Thương : là hạng người làm nghề buôn bán.

Ðời vua Tự Ðức có rất nhiều loạn lạc (giặc cờ Ðen, cờ vàng, cờ Trắng, nội loạn, phò Lê diệt Nguyễn v.v...) và cũng là giai đoạn đầu mà Pháp đánh Việt Nam.

Năm Tự Ðức thứ 9, có chiến thuyền "Catinat" vào cửa Ðà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách triều đình Việt Nam về việc giết đạo Thiên Chúa. Không được trả lời, quân Pháp bắn phá các đồn lũy rồi bỏ đi. Có ông Giám mục Pellerin trốn được lên tàu. Giám mục Pellerin về Pháp thuật lại cho triều đình Pháp cảnh các giáo sĩ Thiên Chúa giáo bị đàn áp dã man ở Việt Nam, và nói rằng chỉ cần có loạn là các tín đồ Thiên Chúa giáo sẽ nổi lên đánh giúp, lại có bà Hoàng hậu Pháp Eugénie rất sùng đạo nên cũng nói giúp ông Pellerin. Pháp Hoàng mới quyết ý sang đánh nước ta.

Tháng 7 năm Tự Ðức thứ 11 (1858), Trung tướng Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu Y-pha-nho (Espagne) cả thảy 14 chiếc vào cửa Ðà Nẵng bắn phá rồi hạ thành An hải và thành Tôn hải. Theo dự trù, trung tướng Rigault de Genouilly tính tiến đánh Huế sau khi hạ Ðà Nẵng nhưng chờ hoài mà chẳng thấy tín đồ Thiên Chúa giáo nổi loạn lại thấy quân ta đổ xuống ngày càng đông, quân Pháp lại không quen khí hậu nên ngã bệnh cũng nhiều. Trung tướng Rigault de Genouilly gây lộn với Giám mục Pellerin và viết thư về Pháp kể tình hình, Giám mục Pellerin giận bỏ về Mã Lai. Thấy đánh Huế chưa nổi, ông trung tướng Pháp đổi ý, quay qua đánh Gia Ðịnh vì là nơi dể lấy hơn và là vùng trù phú hơn.

Ðầu năm sau trung tướng Rigault de Genouilly dẩn quân Pháp và Y-pha-nho vào cửa Cần Giờ, đánh thành Gia Ðịnh, chỉ trong 2 ngày thì thành vở. Quan hộ-đốc Vũ Duy Ninh tự vận. Quân Pháp san phẳng thành trì làm bình địa. Xong trung tướng Pháp lại đem quân trở ra Ðà Nẵng đánh một trận ở đồn Phúc Ninh, quân ông Nguyễn Tri Phương thua phải rút về giữ đồn Nại-hiên và đồn Liên-trì. Trung tướng Rigault de Genouilly cũng bệnh nên xin về Pháp nghĩ, thiếu tướng Page sang thay, ông đề nghị việc giảng hoà, cốt chỉ xin được tự do giảng đạo Thiên Chúa và được buôn bán với nước ta nhưng triều đình Huế lúc đó chỉ còn những ông quan già, chỉ biết đạo Nho thà chết để giữ nước, không chịu nhục, không phải là người biết mềm mỏng trong vấn đề ngoại giao nên Vua cũng phải nghe theo.

Ðến năm 1862 thì quân Pháp đã chiếm luôn Biên Hoà và Vĩnh Long. Triều đình mới chịu phái hai ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Tiếp vào Nam giảng hoà với Pháp ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1862).

Trong bản hoà ước ấy (12 khoãn) có những khoãn như sau :

-Nước Việt Nam phải để cho giáo sĩ Thiên Chúa Giáo nước Pháp và nước Y-Pha-Nho được tự do giảng đạo và để dân gian được tự do theo đạo.

-Nước Việt Nam phải nhượng đứt cho nước Pháp tỉnh Biên Hoà, tỉnh Gia Ðịnh và tỉnh Ðịnh Tường và phải để cho chiến thuyền của Pháp ra vào tự do ở sông Mékong (Cửu Long).

Vua Tự Ðức bắt buộc phải nhường 3 tỉnh Nam kỳ cho Pháp nhưng trong bụng vẫn muốn lấy lại vì là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn nên đã phái ông Phan Thanh Giản, ông Phạm phú Thứ và ông Ngụy Khắc Ðản đem phẩm vật sang nước Pháp và nước Y-Pha-Nho để xin chuộc lại 3 tỉnh miền Nam. Vua Pháp hẹn sẽ suy nghĩ lại rồi trả lời sau, nhưng ông bộ trưởng hải quân và thuộc địa Pháp Chasseloup-Laubat không chịu trả đất cho Việt Nam nên nói ra, vua Pháp nghe lời.

Triều đình Huế cũng nghĩ là Pháp sẽ không ngừng ở đó nên sai ông Phan Thanh Giản vào trấn giữ Miền Nam. Năm Tự Ðức thứ 20 (1867), thiếu tướng De la Grandière kéo quân đánh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ông Phan Thanh Giản biết thế chống không nổi nên bảo các quan nộp thành trì cho đở đổ máu rồi uống thuốc độc tự vận. Toàn cảnh đất Nam Kỳ thuộc về Pháp, thuế má, luật lệ điều gì cũng do Pháp quyết định cả. Nước Pháp tạm ngừng cuộc chinh phục tại đây.

Quân Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ nhất : 6 năm sau, ở miền Bắc có ông Jean Dupuis (tên việt là Ðồ Phổ Nghĩa) chuyên buôn bán vũ khí, ông ta tìm đường sông để chở hàng qua Tàu và kiếm ra đường sông Hồng nhưng bị quân triều đình làm khó dể vì ông ta không có giấy phép. Jean Dupuis ngạo mạn kiếm chuyện gây gổ với triều đình rồi sai người phụ tá tên Millot vào Saigon tìm gặp viên Thống đốc Nam kỳ là Thiếu tướng hải quân Dupré để kể tình hình và xin trợ giúp. Thiếu tướng Dupré là người đã đễ ý tới vùng Bắc kỳ từ lâu, ông đã viết thư về Paris xin lấy luôn đất Bắc kỳ nhưng bên Pháp lúc bấy giờ đang yếu vì chiến tranh với nước Thổ nên ra lệnh không được gây sự ở Bắc kỳ. Khi được Millot đến đốc thúc thì ông Dupré quyết định hành động, ông viết thư cho Paris nói là xin được tự quyết định, ông không cần viện trợ, nếu chuyện không thành thì ông sẽ lãnh hết trách nhiệm.

Dupré sai Trung úy hải quân Françis Garnier đem quân ra Hà Nội giả nói là để giải quyết chuyện xích mích của Jean Dupuis rồi kiếm chuyện để bắn vào thành Hà Nội sáng hôm rằm năm Quí Dậu (1873). Chỉ một giờ thì thành vỡ, tướng Nguyễn Tri Phương bị thương nặng, Pháp bắt tính giải về Saigon nhưng Nguyễn Tri Phương không cho băng bó và nhịn ăn chết. Thành Hà Nội thất thủ, quân ta không hiểu chuyện gì hết nên cứ thấy quân Pháp là bỏ chạy, chỉ trong 20 ngày mà mất 4 tỉnh.

Lúc bấy giờ có tướng Tàu là Lưu Vĩnh Phúc đầu đảng của "giặc cờ đen" về hàng triều đình Huế, vua Tự Ðức phong cho chức Ðề đốc để phụ đánh quân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc đem quân về đánh thành Hà Nội. Françis Garnier đem quân ra nghênh thì bị phục kích chết ở cầu Giấy. Paris biết chuyện nên triệu Thiếu tướng Dupré về Pháp trị tội, Thiếu tướng Dupré tìm cách đở tội nên trở mặt, sai ông Ðại úy hải quân Philastre ra Hà Nội để trả lại thành và 4 tỉnh bị chiếm. Hai bên ký hoà ước năm Giáp Tuất (1874) trong đó triều đình Huế công nhận cả miền Nam là thuộc về Pháp và Pháp cũng bồi thường lại cho Việt Nam bằng tàu bè và súng ống.

Quân Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ hai : Năm 1881, có hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân Nam (bên Tàu) nhưng khi đi đến Lào-Kay thì bị loạn quân cản trở không đi được, viên Thống đốc Le Myre de Vilers bèn gởi thư về Pháp nói rằng nên chiếm luôn Bắc kỳ để bảo đảm sự lưu thông buôn bán với Tàu. Lúc đó nước Pháp đã hồi phục lại sinh lực nên cũng có ý bành trướng ở Nam Á. Năm 1882, Thống đốc một mặt gởi thư cho triều đình ta nói là Vua bất lực, đất nước loạn ly, Pháp phải trấn an đất Bắc để bảo vệ quyền lợi của dân Pháp, một mặt gởi Ðại tá hải quân Henri Rivière ra Hà Nội, gởi tối hậu thư cho quan Tổng Ðốc Hoàng Diệu bắt phải hàng. Ðúng 8 giờ sáng thì quân Pháp tấn công, 11 giờ thành đổ, ông Hoàng Diệu treo cổ tự tử.

Viên Khâm sai Pháp ở Huế là Rheinart sang thương thuyết, trong đó đòi nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ và nhường thành thị Hà Nội cho Pháp. Nhiều người trong Triều đình nói rằng : "Nước ta trong còn Lưu Vĩnh Phúc, ngoài còn nước Tàu, lẽ nào bó tay mà chịu" nên từ chối. Sau đó Triều đình cho người sang cầu cứu với nước Tàu, Triều đình nhà Thanh được dịp bèn gởi quân qua đóng hết các tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây. Quân Pháp thấy quân Tàu tràn qua biên giới nên cũng xua quân đánh luôn. Ðại tá Henri Rivière cũng bị quân cờ đen giết tại cầu Giấy.

Ðúng lúc nầy thì vua Tự Ðức mất ngày 16 tháng 6 năm Quí-Mùi (1883) trị vì 36 năm, thọ 55 tuổi.


Dục Đức (1853 - 1883)
tên thật Nguyễn Phúc Ưng Chân
Chỉ ở ngôi 3 ngày năm 1883.
Miếu hiệu Công Tôn Huệ Hoàng Đế

click đọc thêm Một chút lịch sử
Vua Tự Ðức vì lúc nhỏ bị bệnh đậu mùa nên lớn không có con, nên vua có xin 3 người con trai của 2 người em làm con nuôi.

Vua nhường ngôi lại cho con trưởng Ưng Chân, phong 3 ông đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tuờng và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính để giúp tân Vương. Thảm kịch bắt đầu từ mấy câu di chiếu của Vua Tự Ðức viết về đạo đức và trách nhiệm của Ưng Chân:

"Vì tiên liệu Trẫm đã nuôi sẵn ba con. Ưng Chân lớn tuổi nhất, từ lâu đã đến tuổi trưởng thành, tuy nhiên mắt hơi có tật, dù xưa nay vẫn dấu kín, sợ sau nầy không còn thấy sáng, tánh lại hiếu dâm, vì tâm tính rất xấu, không chắc đảm đương nổi việc lớn. Nhưng đất nước cần có vua lớn tuổi. Trong thời thế khó khăn nầy không dùng Ưng Chân thì dùng ai ? ..."

Các quan Phụ chính Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dâng sớ lên vua Tự Ðức xin bỏ mấy đoạn có liên quang đến tính nết xấu của tự quân và xin bỏ câu “không chắc đảm đương nổi việc lớn” nhưng vua Tự Ðức từ chối. Nhà vua bảo:

-Phải giữ lại câu đó để nhắc người kế vị phải tự răn mình, tu tỉnh.

Ngày 17-7-1883 Dương lịch, vua Tự Ðức băng hà tại điện Càn Thành. Theo di chiếu Hoàng tử Ưng Chân vào chịu tang và coi như là vua kế vị, niên hiệu là Dục Ðức.

Ba ngày sau (20-7-1883) là lễ đăng quang của vua Dục Ðức tại điện Thái Hoà. Quan Phụ chính Trần Tiễn Thành đứng ra đọc Di chiếu, tới đoạn nói về tật xấu của vua, ông hạ giọng đọc rất thấp (có sách nói là không đọc) thì lúc bấy giờ quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường nhảy ra nắm áo ông và nói lớn :

-Tại sao ông không đọc đoạn tiên đế nói đến những gì Ngài nghĩ về Ưng Chân ?

Xong ông Tường cho người khác ra đọc lại di chiếu, đọc vừa xong cái đoạn nói về thói hư tật xấu của vua Dục Ðức thì ông Tôn Thất Thuyết cắt ngang lời người đọc và nói :

-Ðây là đoạn mà ông Thành đã không chịu đọc, phải xin ngưng buổi lễ để xin ý kiến của Thái Hậu và đình thần xem thử phải làm gì !

Sở dĩ hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dám làm vậy vì trước đó hai ngày họ đã dâng lên Hoàng Thái Hậu Từ Dũ tờ hạch tội buộc cho vua Dục Ðức ba tội lớn :

-Muốn sửa di chiếu

-Có đại tang mà mặc áo màu

-Hư hỏng, ăn chơi.

Ðược bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ bật đèn xanh, hai ông Phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết liền truất ngôi của vua Dục Ðức và quản thúc ông ngay tại Dục Ðức đường. Nhà học của ông bỗng trở thành nhà tù giam. Ông Dục Ðức làm vua chỉ vỏn vẹn có 3 ngày. Sau đó ông bị chuyển qua giam tại Thái Y Viện và cuối cùng chết vì đói và khát tại Ngục Thất Thừa Thiên để lại 8 bà vợ, 11 người con trai và 8 người con gái. (Vua Dục Ðức là cha của vua Thành Thái và là ông nội của Vua Duy Tân).

Quan Ngự Sử Phan Ðình Phùng có lên tiếng can ngăn liền bị bắt giam rồi bị cách chức đuổi về quê.


Hiệp Hòa (1847 – 1883)

Hiệp Hòa (1847 – 1883) là vị vua thứ sáu của vương triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Tên thật của ông là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên là Nguyễn Phúc Thăng, là con thứ 29 và là con út của vua Thiệu Trị cùng bà Đoan Tần Trương Thị Thuận. Ông lên ngôi tháng 7/1883, nhưng bị phế truất và qua đời vào tháng 10 cùng năm.

click đọc thêm Một chút lịch sử
Ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tôn em của vua Tự Ðức là Lạng Quốc Công, tên là Hường Dật, lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Hoà.

Vua Hiệp Hoà thấy hai ông đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lộng hành quá bèn tìm cách loại trừ bằng cách thay đổi chức tước của hai ông cho bớt binh quyền. Hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết biết là vua không tin dùng mình nên liền âm mưu lập ông Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba của vua Tự Ðức lên làm vua rồi bắt ép vua Hiệp Hoà uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hoà chỉ làm vua được hơn 4 tháng.

Ông phụ chính Trần Tiễn Thành ra tiếng phản đối nên bị hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết ra lệnh giết luôn.

Trong lúc đó thì Pháp vẫn tiếp tục chiếm các tỉnh của Việt Nam (cửa Thuận An, thành Hải Dương, ...), Triều đình Huế thất thế xin hoà. Hoà ước Quí Mùi (1883) ra đời trong đó nước Nam chịu nước Pháp bảo hộ và phải nhường một số đất cho Pháp. Triều đình ta có ra lệnh ngừng đánh, phải rút quân về Huế nhưng một mặt quân đội Tàu không nghe lệnh Triều đình Huế, một mặt còn nhiều người yêu nước và ỷ lại Tàu nên có nhiều người không chịu rút quân mà vẩn đánh Pháp, do đó chiến tranh với Pháp vẫn tiếp diển, Triều đình Huế bất lực.


Kiến Phúc (1869 – 1884)

Kiến Phúc (1869 – 1884), tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, thường được gọi là Dưỡng Thiện, là vị vua thứ bảy của vương triều nhà Nguyễn. Ông là con thứ ba của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức chọn làm con nuôi. Kiến Phúc lên ngôi năm 1883, tại vị được 8 tháng thì qua đời khi mới 15 tuổi.

click đọc thêm Một chút lịch sử
Ông Dưỡng Thiện, tên là Ưng Ðăng là con nuôi thứ ba của vua Tự Ðức lên ngôi vua lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Vua chỉ có 15 tuổi, mọi việc đều do ông Tường và ông Thuyết quyết định cả.

Có nhiều ông quan thấy vậy liền trả ấn lại cho triều đình, từ quan rồi đi chiêu mộ binh mà đánh Tây.

Có sách nói rằng Ưng Ðăng được tin triều đình tới rước mình về làm Vua, Ưng Ðăng sợ quá chui xuống gầm giường trốn, mọi người phải lôi ra, ông la hét khóc lóc thảm thiết nhưng vẫn bị đem lên kiệu đưa về cung. Ông viện đủ mọi cách để từ chối nhưng vẫn bị hai ông Tường và Thuyết ép phải lên ngôi. Vua Kiến Phúc ở ngôi được có hơn 6 tháng thì phải bệnh mất ngày 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884). Có sách nói rằng Vua bị ông Tường thuốc chết vì Vua bắt gặp ông Tường đang tư tình với bà phi Nguyễn Thị Hương, để bịt miệng Vua, lợi dụng lúc Vua đang bệnh ông Tường bỏ thuốc độc vào thuốc trị bệnh của Vua.

Sau khi ký hiệp ước Quí Mùi với nước ta, quan Toàn quyền Harmand ra Bắc kỳ để sửa sang sự cai trị, lập ra đội lính tuần cảnh, tục gọi là lính "khố xanh" và bãi đội lính cờ vàng mà Thiếu tướng Bouet đã mộ được. Quân Pháp tiến chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Ðáp cầu, Hưng Hóa, Tuyên Quang, ...

Vì biết nước Tàu quá đông nên Pháp cũng muốn làm hoà, chánh phủ Pháp sai Trung tá Fournier lên Thiên Tân để nghị hoà với Tổng đốc Tàu Lý Hồng Chương. Hai bên ký hoà ước Fournier năm Giáp Thân (1884) trong đó Tàu chấp nhận là Pháp bảo hộ nước Việt Nam.

Nước Pháp có sai ông Công sứ Patenôtre từ Tàu sang Huế để sửa lại tờ hoà ước của ông Harmand đã ký ngày 23 tháng 7 năm Quí Mùi (1883), rồi đến ngày 13 tháng 5 năm 1884 Dương lịch, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm Thận Duật và ông Tôn thất Phan ký tờ hoà ước mới (hoà ước Patenôtre), trong đó Triều đình Huế chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm 2 khu vực là Trung kỳ và Bắc kỳ, trên giấy tờ thì mổi kỳ có một cách cai trị khác nhau (Trung kỳ bảo trợ chứ không phải bảo hộ) nhưng trên thực tế thì từ từ Pháp bảo hộ tất cả, Triều đình Huế chỉ là hư vị mà thôi. Pháp bắt Việt Nam phải trả cái ấn của Tàu phong cho vua Việt Nam nhưng ông Nguyễn Văn Tường thương lượng để đem cái ấn đó ra mà nấu chảy.


Hàm Nghi (1871 – 1943)

Hàm Nghi (1871 – 1943) là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, là em trai của vua Kiến Phúc. Năm 1884, Hàm Nghi được đưa lên ngôi ở tuổi 13. Sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa ông ra ngoài và phát hịch Cần Vương chống thực dân Pháp. Phong tràoCần Vương kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (thủ đô xứ Algérie).

click đọc thêm Một chút lịch sử
Sau khi vua Kiến Phúc mất rồi, đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Ðức là ông Chánh Mông lên ngôi mới phải. Nhưng hai ông Tường và ông Thuyết sợ lập vua lớn tuổi thì các ông ấy mất quyền hành nên chọn ông Ưng Lịch là em ruột ông Chánh Mông mới 12 tuổi, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi.

Viên Khâm sứ Rheinart thấy hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cứ tự tiện lập vua không hỏi ý ông trước đúng như đã giao kết nên gởi quân vào Huế bắt Triều đình phải xin phép. Ông Thuyết và Tường phải làm tờ xin phép bằng chữ Nôm nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt làm bằng chữ Nho (chữ Tàu), hai ông phải viết lại, viên Khâm sứ mới chịu và sau đó đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi.

Năm sau (1885), Thống Tướng De Courcy được chánh phủ Pháp cử sang Việt-Nam để phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ ở Việt-Nam. Tướng De Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của ông, 500 người, đi vào cửa chánh là cửa dành riêng cho đại khách. Triều đình Huế xin để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các bật tướng lảnh là đi cửa chánh thôi cho đúng với nghi thức triều đinh, nhưng tướng De Courcy nhất định không chịu.

Ông Nguyễn Văn Tường và ông Tôn Thất Thuyết thấy Pháp khinh mạn Vua mình như thế đều giận lắm bèn nhất định tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá vào đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch, đến sáng thì quân Pháp phản công, quân ta thua chạy.

Ông Nguyễn Văn Tường cho người rước Vua Hàm Nghi (lúc nầy mới 13 tuổi) trực chỉ tới thành Quảng Trị để lánh nạn nhưng nữa đường thì ông bỏ Vua ra trình diện với quân Pháp. Tướng De Courcy hẹn cho ông hai tháng phải tìm cách để rước Vua về. Ông Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước Vua về nhưng ông Thuyết cản thư không cho Vua biết.

Ông Thuyết ở Quảng Bình làm hịch Cần Vương để kêu gọi dân chúng giúp Vua chống Pháp, dân chúng nổi dậy rất đông, đâu đâu cũng có kháng chiến nhưng vì rải rác các nơi nên lực lượng không mạnh (mạnh nhất là phong trào của Ðề Thám). Có thuyết kể rằng khi ông Tường tới kêu vua bỏ trốn, vua trả lời rằng "ta có đánh với ai đâu mà phải chạy ?" nhưng quân hộ vệ đã nhào tới ôm vua bỏ lên kiệu và tuông thành trốn. Khi ông Thuyết ra hịch Cần Vương, kể tội ác của Pháp thì vua Hàm Nghi mới trả lời rằng : "Bây giờ Trẫm mới hiểu" và từ đó đã trở thành một lảnh tụ kháng chiến dũng cảm.

Hết hạn hai tháng thì cả gia đình ông Nguyễn Văn Tường bị ông De Courcy đài ra Côn Ðảo rồi sau đó bị đưa tới đảo Haiti ở Thái Bình Dương. Ðược ít lâu thì ông Tường mất, xác được đưa về chôn ở quê nhà.

Trong thời gian nầy, quân Tàu lại sung đột với quân Pháp ở Bắc kỳ vì Triều đình Trung Hoa không chấp nhận cái hoà uớc mà tướng Lý Hồng Chương đã ký, viện cớ là Triều đình Tàu không hay biết gì về vụ đó (có sách nói là Tàu giận vụ Pháp bắt hủy cái ấn của Tàu ban cho Việt Nam), cuộc chiến bùng nổ dử dội ở Tuyên Quang, Lạng Sơn, ... Hải quân Pháp bắn phá Phúc Châu và vây Ðài Loan. Tới năm 1885, chánh phủ Tàu thấy chiến tranh không lợi nên thuận ký tờ hoà ước Thiên Tân với Pháp ngày 27 tháng 4 năm Ất Dậu, trong đó Tàu chấp nhận là Việt Nam thuộc Pháp chứ không thuộc Tàu nữa và bắt đầu vẽ lại một cách chánh thức biên giới Việt-Hoa. Từ đây trở đi coi như Pháp đã chiếm hết nước ta.


Vua Đồng Khánh (1864 – 1889)

Vua Đồng Khánh (1864 – 1889), miếu hiệu Nguyễn Cảnh Tông, là vị Hoàng đế thứ chín của nhà Nguyễn, tại vị từ năm 1885 đến 1889. Tên húy của nhà vua các tài liệu ghi khác nhau, nơi thì ghi làNguyễn Phúc Ưng Kỷ, Nguyễn Phúc Ưng Thị, Nguyễn Phúc Ưng Biện, Nguyễn Phúc Chánh Mông, ngoài ra còn có tên Nguyễn Phúc Đường. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức nhận làm con nuôi năm 1865.

click đọc thêm Một chút lịch sử
Thấy vua Hàm Nghi đã thoát ly triều đình kéo cờ khởi nghĩa chống Pháp, Thống tướng De Courcy sai ông De Champeaux lên yết kiến bà Từ Dũ là mẹ đẻ của Vua Tự Ðức để xin lập ông Chánh Mông lên làm Vua. Ngày 6 tháng 8 âm lịch năm Ất Dậu (1885), con nuôi thứ hai của Vua Tự Ðức, tên là Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ Pháp làm lễ thụ phong, được tôn làm Vua, lấy niên hiệu là Ðồng Khánh.

Sách Trần Trọng Kim viết "Vua Ðồng Khánh tính tình hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được lòng người Pháp", nói một cách khác thì Vua Ðồng Khánh không chống Pháp.

Lúc đó Vua Hàm Nghi vẩn còn ở mạn Quảng Bình, Pháp dồn quân đánh mạnh về vùng nầy, ông Tôn Thất Thuyết thấy thế yếu, không chống nổi quân Pháp nên bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé thuộc huyện Tuyên Hóa rồi nói rằng sang Tàu xin cầu cứu. Ông Tôn Thất Thuyết ở lại bên Tàu và chết già ở tỉnh Quảng Ðông, có sách nói rằng vì nước Tàu mới ký hiệp ước làm hoà với Pháp nên không muốn giúp Việt Nam (sách Trần Trọng Kim thì nói ông Thuyết lên Lai Châu nương tựa vào họ Ðiêu, đến lúc nghe tiếng Pháp lên đánh liền bỏ họ Liêu mà trốn sang Tàu).

Vua Ðồng Khánh đích thân ra tận Quảng Bình để dụ Vua Hàm Nghi và các quan tùy tùng về hàng, hứa là sẽ cho cai trị 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nhưng không thành công.

Ðến tháng giêng năm Mậu Tý (1888), Vua Hàm Nghi bị tên hầu cận Trương Quang Ngọc tham tiền nên cùng một số người tới tấn công trại Vua ban đêm trong lúc ngủ, giết quân tùy tùng trong đó có Tôn Thất Thiệp (con của Tôn Thất Thuyết), rồi đem Vua về nộp cho Pháp để lấy thưởng. Lúc nầy vua đã 18 tuổi, từ lúc bị bắt vua Hàm Nghi không nói năng gì cả chỉ nhất thiết chối rằng mình không phải là vua (có sách nói là quân Pháp rất bối rối vì không biết có phải là vua Hàm nghi không, các quan lại trong vùng có đến bái mạng nhưng vua coi như không biết, nhưng khi thầy học củ của vua là Nguyễn Thuận tới thăm thì vua Hàm Nghi vái chào, từ đó viên quan Pháp Dabat mới chắc là vua Hàm Nghi). Pháp đày Vua Hàm Nghi sang sứ Algérie, ở đó Vua lập gia đình với một người Pháp, có 3 con, 2 gái 1 trai, và mất năm 1944. Hài cốt sau được chuyển về Pháp.
(sau nầy tên Trương Quang Ngọc bị ông Phan Ðình Phùng - đảng Văn Thân trong phong trào Cần Vương- sai quân vây bắt rồi đem ra chém đầu để trị tội bán Vua)


Ngày 27 tháng chạp năm Mậu Tý (28-1-1889) vua Ðồng Khánh thọ bệnh mà mất, ở ngôi được 3 năm, thọ 26 tuổi.


Thành Thái (1879 – 1954)

Vua Thành Thái (1879 – 1954) là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên là Nguyễn Phúc Chiêu. Ông là con thứ 7 của vuaDục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị Điểu). Do chống Pháp nên ông bị đi đày tại ngoại quốc.

click đọc thêm Một chút lịch sử
Con vua Ðồng Khánh mới 3 tuổi nên không nối ngôi được. Triều đình Huế và Khâm sứ Rheinart đã đồng ý đưa Bửu Lân là con của vua Dục Ðức lên ngôi lấy hiệu là Thành Thái ngày 2-2-1889 (lúc đó mới vừa 10 tuổi đang bị giam trong ngục với mẹ -sách TTK). Sách nói vua Thành Thái là người cầu tiến, yêu nước và chống Pháp. Nhà vua muốn áp dụng các công cuộc cải cách quốc gia (chính nhà Vua đã hớt tóc ngắn, biết lái xuồng máy và xe hơi). Nhưng trước các ý tưởng cấp tiến của nhà Vua, người Pháp lo ngại tìm cách ngăn trở. Ðể che mắt, Vua thành Thái giả hành động như một kẻ điên rồ. Năm 1907, Pháp biết Vua tìm cách chống Pháp nên vu khống là Vua bị điên rồi truất phế Vua Thành Thái đem giữ tại Vũng Tàu và đến năm 1919 thì đem sang an trí tại đảo La Réunion bên Phi Châu (đi cùng một lúc với vua Duy Tân sau nầy).

Bị giam cầm nơi quê người mãi đến tháng 5 năm 1947 (sau khi vua Duy Tân mất) cựu hoàng Thành Thái mới được cho về Việt Nam và quản thúc tại Sàigon cho đến 24-3-1954 là ngày vua mất, thọ 76 tuổi.


Duy Tân (1900 – 1945)

Vua Duy Tân (1900 – 1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn (ở ngôi từ 1907 tới 1916), sau vuaThành Thái. Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông bất hợp tác với Pháp và bí mật liên lạc với các lãnh tụ khởi nghĩa Việt Nam. Vì lý do này, ông bị người Pháp đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương.

click đọc thêm Một chút lịch sử
Vua Duy Tân sinh ngày 19-9-1900, con trai thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Ðịnh. Vua Thành Thái rất đông con, đáng lẻ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng Pháp sợ Vua trưởng thành khó sai khiến nên phải tìm chọn một người càng nhỏ tuổi càng hay.

Hôm Khâm sứ Lévecque cầm danh sách các Hoàng tử con Vua Thành Thái vào Hoàng cung chọn vua, trong lúc điểm danh thì thiếu mất « mệ Vĩnh San ». Triều đình hốt hoảng chạy đi kiếm thì thấy Vĩnh San đang chui dưới gầm giường bắt dế. Vĩnh San bị lôi ra, mặt mày lem luốt, quần áo ướt nhẹp vì mồ hôi. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, bọn thị vệ đưa ngay Vĩnh San ra trình diện quan Pháp.

Mới trông thấy Vĩnh San, các quan Pháp vừa ý ngay vì theo họ đứa bé mặt mày dơ tèm lem có vẻ nhút nhác và đần độn, chắc dể sai khiến sau nầy. Thế là Pháp chọn Vĩnh San làm Vua, mới 7 tuổi đầu. Triều đình thấy Vua nhỏ bèn xin tăng thêm một tuổi thành tám. Nghĩ tình Vua Thành Thái suốt đời ước nguyện đổi mới mà không làm được, nên những người phò tá còn chút quyền hành đã lấy niên hiệu cho người nối nghiệp là Duy Tân.

Ngay sau lễ Tôn Vương một ngày (5-9-1907), vua Duy Tân đã tỏ ra khác hẳn hôm qua, Vua không hề có một cử chỉ nhúc nhát sợ Tây, ông tiếp quan toàn quyền Ðông Dương thẳng bằng tiếng Pháp. Một nhà báo Pháp đã thuật lại là « ...Một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám ».

Ðể kiểm soát vua, Pháp đã bày ra những việc sau:

-Lập một phụ chính gồm sáu ông đại thần là Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dục để cai trị nước Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp.

-Ðưa ông Ebérhard, một tiến sĩ sinh học qua dạy cho Vua Duy Tân học khoa học (có sách nói mục đích là để theo dõi những hành động của Vua Duy Tân).

Khoãng năm 1912, ông Mahé lên làm Khâm sứ Pháp ở Huế. Mới lên khâm sứ ít lâu ông ta đã mở một chiến dịch tìm vàng ráo riết. Mahé lấy tượng vàng đúc từ thời Nguyễn Phúc Chu (đầu thế kỷ thứ 18) trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào mả lăng Vua Tự Ðức để tìm vàng và đào sới lung tung trong Ðại Nội để tìm vàng. Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ.

Vua Duy Tân ngày đêm ăn ngủ không yên, ông ra lệnh đóng cửa Cung và không tiếp ai hết. Toà Khâm Sứ Pháp làm áp lực với nhà Vua thì nhà Vua đe doạ là sẽ tuyệt giao với các nhà đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng Tây phải triệu toàn quyền Sarraut ở Hà Nội vào giải quyết. Gặp toàn quyền Vua Duy Tân đã vạch tội của Khâm Sứ Pháp ở Huế. Ðể xoa dịu, toàn quyền Sarraut đã khiển trách Mahé về hành động bất nhân đó. Vua Duy Tân mới hạ lệnh cho mở cửa Hoàng Thành.

Năm Vua Duy Tân 13 tuổi, ngày lục lọi giỡ ra xem những hiệp ước mà hai nước Việt-Pháp đã ký với nhau rồi một hôm giữa triều đình, nhà Vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi tiếng Pháp sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm 1884 (Patenôtre) vì ông cảm thấy việc thi hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau (Trung kỳ bảo trợ chứ không phải bảo hộ), nhưng cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.

Vua Duy Tân mặc dù bị đày nhưng vẫn thiết tha với quê hương, ông vẩn tìm cách trở lại với đất nước. Ðệ nhị thế chiến xảy ra, ông nghĩ đó là cơ hội để ông có thể thoát ra khỏi nơi giam cầm bằng cách xin đi lính cho Tây. Và đúng như tiên liệu, sau đó vua Duy Tân đã có dịp sang Pháp gặp Tướng De Gaulle (1945) và được ông nầy hứa là sang năm sẽ đích thân đưa Vua về Việt Nam để trở lên ngôi mặc cho bộ Thuộc Ðịa phản đối. Vua Duy Tân mừng lắm có tuyên bố với nhiều người cuộc hồi hương sắp tới nầy nhưng rất tiếc chiếc phi cơ chở ông trên đường từ Pháp về đảo để thăm vua cha và gia đình đã bị rớt, không ai sống sót (tháng 12 năm 1945). Ðây vẫn là một nghi vấn cho lịch sữ.
Năm 15 tuổi, Vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong Phụ Chính, bắt buộc các vị phải ký vào biên bản để đích thân Vua sẽ cầm qua trình với toà Khâm Sứ nhưng các ông đại thần sợ Tây giận sẽ kiếm chuyện nên từ chối không ký và phải xin yết kiến bà Thái Hậu để nhờ bà can gián nhà Vua. Từ đó không những nhà Vua có ác cảm với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình.

Biết được vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục (do ông Trần Cao Vân cầm đầu) hội quyết định móc nối. Mùa hè năm 1915 vua ra cửa Tùng nghĩ mát, người tài xế tên Phan Hữu Khánh là người trong hội có đưa cho Vua một bức thư của 2 lảnh tụ là Trần Cao Vân và Thái Phiên. Vua đọc thư cảm động lắm và đòi gặp 2 người. Thế là ông Trần Cao Vân và ông Thái Phiên cùng vua Duy Tân mưu đồ khởi nghĩa đánh Pháp, nhưng không ngờ ngày vua xuất thành (3-5-1916) để làm cách mạng thì có người phản bội đi báo Tây, 2 ngày sau vua Duy Tân bị bắt, Pháp bắt Triều đình ta phải xử, Thượng thư bộ Học Hồ Ðắc Trung được ủy nhiệm thảo bản án. Ông Trần Cao Vân tuy bị giam trong ngục nhưng nhờ được người đưa được một mảnh giấy cho ông Hồ Ðắc Trung xin được lảnh hết tội và xin tha cho Vua. Ông Hồ Ðắc Trung làm án đổ hết tội cho 4 ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Ðề và Nguyễn Văn Siêu. Bốn ông đều bị chém đầu còn vua Duy Tân thì bị đày đi đảo Réunion cùng với vua Thành Thái (1919).


Khải Định (1885 – 1925)

Vua Khải Định (1885 – 1925), hay Nguyễn Hoằng Tông, là vị Hoàng đế thứ 12 nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên làNguyễn Phúc Tuấn, con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục.

click đọc thêm Một chút lịch sử
Truất phế vua Duy Tân xong, triều đình Huế được sự chấp thuận của toà Khâm sứ đưa Hoàng tử cả Nguyễn Phúc Bửu Ðảo con của vua Ðồng Khánh lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Ðịnh.

Theo các sách mà tôi có thì vua Khải Ðịnh chỉ là vị vua ăn chơi, chỉ lo cho mình chứ không lo cho nước, lại rất chuộng trang điểm và tự mình sáng chế ra những bộ y phục mới cho vua và cho cả quan hộ vệ (xin xem hình vua Khải Ðịnh thăm Paris). Năm 1922 khi Vua đi dự cuộc "thi đấu xảo thuộc địa" ở Marseille (Pháp) ông Phan Chu Trinh có gởi một bức thư trách Vua 7 tội trong đó có tội "ăn mặc lố lăng". Dưới thời của Ngài, trong triều đình không có chuyện xích mích với Pháp, theo sách thì gần như Ngài để cho Toà Khâm Sứ định đoạt mọi chuyện.

Sách kể rằng vua Khải Ðịnh chỉ thích đàn ông, khi coi hát bội, vua đều bắt các "kép" giả "đào" để đóng ; nhưng sách lại nói rằng ông lại có một người con trai (Hoàng tử Vĩnh Thụy) với bà phi Từ Cung !

Nếu xem cái site của vua Duy Tân (http://vinhsan.free.fr) làm bởi các con cháu của Ngài thì chúng ta lại có thêm được một "tiếng chuông" khác : Trong đó vua Khải Ðịnh được xem như một người vua muốn cải tiến đất nước, Ngài bỏ chuyện thi cử vì cho rằng cái học đó đã lổi thời, không còn thích hợp với cái xã hội hiện tại và khi Ngài qua Pháp (năm 1922) là để tìm cách giải thích cho Pháp hiểu sự ham muốn (đòi hỏi) tự trị của dân tộc Việt. Ở đây chúng ta cũng được biết thêm là Hoàng tử Vĩnh Thụy chỉ là con nuôi của vua Khải Ðịnh !

Vua Khải Ðịnh có xây cất nhiều công trình mà cái nổi tiếng nhất là cái lăng của Ngài, nếu nhìn vào thì người ta sẽ nhận diện ra ngay là một công trình Á Châu nhưng nó hoàn toàn không giống những kiến trúc đương thời, từ vật liệu xây cất tới cách trang trí nội thất. Có người khen kẻ chê nhưng nhất định đây là lần đầu tiên trong lịch sử mà dân Việt Nam tìm cách tự tạo riêng cho mình một đường lối kiến trúc.

Vua Khải Ðịnh mất ngày 25-9 năm Ất-Sửu (6-11-1925).



Bảo Đại (1913 – 1997)

Bảo Đại (1913 – 1997) là vị Hoàng đế thứ 13 và cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, còn có tên là Nguyễn Phúc Thiển , tục danh "mệ Vững", là con của vua Khải Định và Từ Cung Hoàng thái hậu. Đúng ra "Bảo Đại" chỉ là niên hiệu nhà vua, nhưng tục lệ vua nhà Nguyễn chỉ giữ một niên hiệu nên nay thường dùng như là tên nhà vua.

click đọc thêm Một chút lịch sử
Hoàng tử Vĩnh Thụy sanh ngày 23 tháng 9 năm Quí Sửu (23-10-1913), khi vua Khải Ðịnh mất thì Hoàng tử Vĩnh Thụy còn đang học ở bên Pháp (từ năm 1922). Toàn quyền Pháp Monguillot ra lệnh thành lập hội đồng phụ chính mới do ông Tôn Thất Hân đứng đầu và đại diện cho chánh phủ Việt Nam để ký với Pháp một hiệp định mới. Theo hiệp định nầy thì Khâm sứ sẽ là chủ tịch hội đồng nội các của Việt Nam, và kể từ dây Triều đình Huế sẽ không còn ngân sách riêng như trước nữa.

Ngày 14-11 năm Ất-Sửu, Hoàng Thái tử Vĩnh Thụy được tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Bảo Ðại. Lên ngôi vua xong, Bảo Ðại giao công việc triều chánh cho hội đồng phụ chính rồi trở sang Pháp học cho đến năm 1932 mới trở về nước. Theo sách thì vua Bảo Ðại tính nắm lại quyền hành để cải tổ nước nhà nhưng gặp phải sự phản đối của các quan bảo thủ và bị chánh phủ Pháp cản trở, ông thất vọng vì thấy mình làm vua cũng như không nên đâm ra chán nản, lao mình vào các cuộc đi săn, chơi thể thao, ...

Tháng 3-1945, Nhật đánh úp Pháp và tuyên bố là muốn giúp Việt Nam dành độc lập. Ngày 11-3-1945 viện Cơ Mật của Triều đình Huế tuyên bố Việt Nam dành lại chủ quyền, bải bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Ngày 17-3-1945 vua Bảo Ðại giải tán hội đồng Cơ Mật (lập từ thời Minh Mạng) và giao cho ông Trần Trọng Kim thành lập nội các mới, theo nguyên tắc "Dân vi quý", trong thành phần Nội Các phần lớn là các nhà Tây học (như Hoàng Xuân Hãn,...), nhưng từ khi thành lập Nội Các, ông Trần Trọng Kim chẳng làm gì được cả vì quyền hành đều nằm trong tay Nhật hết !

Ngày 19-8-1945, Việt Minh chiếm chính quyền ở ngoài Bắc, biểu tình trước Nhà Hát Lớn Hà Nội để nghe tuyên bố của Mặt Trận Cứu Quốc Việt Minh. Cũng cùng ngày nầy trong Nam (theo Philippe Devilliers) đài phát thanh Việt Nam có truyền thanh một chiếu của vua Bảo Ðại gửi quốc dân, yêu cầu dân hy sinh để giữ độc lập và Vua sẵn sàng "làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.".

Ngày 24-8-1945, vua Bảo Ðại nhận được một bức điện văn của Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng từ Bắc đánh vào nội dung như sau : "Một chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời đã thành lập, chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu đức vua thoái vị ngay để củng cố và thống nhất nền độc lập nước nhà.". Sách chép là lúc đó ở Huế không ai biết Hồ Chí Minh là ai, sau khi điều tra biết được Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc thì vua Bảo Ðại mới thốt ra câu tiếng Pháp : "ça vaut bien le coup alors !" (như thế thì cũng đáng -thoái vị- !)

Ngày 25/8/1945, vua Bảo Ðại cho công bố chiếu thoái vị. Ngày 26/8/1945 nhà vua làm lễ ở Thế Miếu và ngày 30/8/1945 đại điện chính phủ cách mạng lâm thời gồm các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận nhận ấn kiếm của nhà vua tại cửa Ngọ Môn (Huế). Vua Bảo Ðại được phong chức Cố Vấn Tối Cao cho chính quyền mới.

Triều đại nhà Nguyễn chấm dứt sau 143 năm trị vì (1802-1945).

Sau đệ nhị thế chiến, Pháp trở lại Ðông Dương và tìm cách chiếm lại Việt Nam. Năm 1946, cựu hoàng Bảo Ðại lưu vong bên Hồng Kông. Năm 1948, Pháp thấy không xong nên tìm cách đưa cựu hoàng Bảo Ðại về lập chánh phủ để có "chánh nghĩa", cựu hoàng Bảo Ðại đòi Pháp phải xác nhập 3 kỳ (thống nhất) và cho Việt Nam độc lập, Pháp tỏ vẻ chịu nhượng bộ và ký với cựu hoàng Bảo Ðại hiệp ước Hạ-Long ngày 5-6-1948 (với ông Cao ủy Emile Bollaert), bầu cựu hoàng làm Quốc Trưởng nhưng trong hiệp định lại đòi điều khiển quân đội, tài chánh và ngoại giao! cựu hoàng Bảo Ðại không hài lòng nên giận bỏ sang Pháp (nhưng vẫn điều hành từ xa).

Tới năm 1954, sau hội nghị Genève chia đôi nước Việt Nam từ vĩ tuyến thứ 17, cựu hoàng Bảo Ðại mời ông Ngô Ðình Diệm làm Thủ Tướng ở Sàigòn, cuối năm 1955 các viên chức Hoa Kỳ ở Sàigòn giúp ông Ngô Ðình Diệm tổ chức một cuộc "trưng cầu dân ý" để lật đổ cựu hoàng Bảo Ðại và tôn ông Diệm lên làm Tổng Thống.

Cựu hoàng Bảo Ðại mất tại Paris tháng 7 năm 1997.


ref: 

Kiến thức.net.vn
Lịch sử tóm tắt Triều Nguyễn

Một thời gian dài nhà Nguyễn bị kết án nặng nề rước voi về giày mả tổ, bán nước cho Tây .. Sau 1975 các con đường, ngôi trường mang tên vua chúa nhà Nguyễn đều bị đổi tên. Năm 2008 có một hội thảo quốc gia về Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn đặt vấn đề đánh giá lại giai đoạn này được gần với lịch sử hơn. Có thể đọc:


Bài Tổng kết Hội thảo "Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn .. " của GS Phan Huy Lê
Phỏng vấn GS Phan Huy Lê

Tuy nhiên sau đó trên Tạp chí CS cho đăng bài Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nói về triều Nguyễn. Các bài tổng kết, phỏng vấn gốc trên vietnamnet hiện ko còn tìm được nữa .. Các đề nghị sửa đổi SGK không biết có thực hiện ?


54 nhận xét:

  1. Lâu lâu ...phải tìm cảm giác...TEM VÀNG 1 nhát cho nó hên nào :D Anh chịu khó viết entry theo đơn đặt hàng nhở... hôm nay nói về vua thì bữa nào anh nói về hoàng hậu nha :)

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Ah, ok. Trong đoạn Một chút lịch sử ở phần Gia Long có ghi:

      [color="blue"]Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ có ngôi Hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì con lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.
      Bỏ chức Tể tướng, lập ra 6 bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư
      [/color]

      Lâu nay nhiều người vẫn nhắc đến lệ Tứ bất của nhà Nguyễn. Cuốn Lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản năm 1971, trang 370 có viết: [color="blue"]"Nhà Nguyễn củng cố nền thống trị bằng cách tăng cường chế độ chuyên chế. Các vua Nguyễn muốn thâu tóm vào tay tất cả quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giám sát... không muốn cho một ai chia sẻ quyền hành hoặc lấn át uy quyền của mình. Vì mục đích đó, Gia Long đặt ra lệ "bốn không" là không đặt tể tướng, không lấy đỗ trạng nguyên, không lập hoàng hậu, không phong tước vương cho người ngoài hoàng tộc (mà đối với người trong hoàng tộc cũng chỉ phong tước danh dự mà thôi)".[/color]

      Thật ra điều này ko đúng. Gia Long có lập đến 2 hoàng hậu. Sau này Bảo Đại cũng lập hoàng hậu. Phong vương thì theo Nguyễn Phúc tộc thế phả thì có ít nhất 7 Hoàng tử được phong tước Vương khi còn tại thế. Ko lấy Trạng nguyên có thể do ko ai đủ tiêu chuẩn. Ko lập Tể tướng thì từ thời nhà Lê trung hưng đã ko có.

      Tóm lại chuyện tứ bất chỉ là suy diễn, đến nay chưa ai tìm ra tài liệu nào chứng thực có vị vua nhà Nguyễn nào đặt ra lệ ấy.

      Có thể xem ở đây:
      anninhthudo.vn

      kienthuc.net.vn

      Xóa
    2. Đúng rồi anh ! Em cũng thích Hậu hơn !
      Trong cờ Vua, Hậu tung hoành hơn nhiều á anh ! (hong liên quan :p )

      Xóa
    3. Ơ, mấy anh em mình giống nhau nhỉ. Anh cũng thích hậu hơn :d

      Xóa
    4. Chiện! Lệnh ông hông bằng cồng bà... nên Hậu to nhứt... thịt gà thì nhất phao câu (Cũng coi là Hậu nha) :))...Hậu thì ngoài tung hoành trên bàn cờ như cờ vua của Ớt thì cũng tung hoành ngang dọc tam cung lục viện....thí dzụ thế.. nên anh chả nói em cũng đoán anh thích Hậu òi =))

      Xóa
    5. Hì, phao câu thì .. cho anh xin nhé. Sợ lắm :))

      Xóa
    6. =)) Đại ca điêu nhá , "phao câu thì cho anh xin" xong kèm " sợ lắm" ! Cho đại ce 1 chưởng đi Linh Giang , xin rồi biểu sợ là seo là seo ?????

      Trong cờ vua tớ khoái 3 đứa á Ớt :
      1/ Hậu : tung hoành ngang dọc cực lợi hại .
      2/ Ngựa (mã) : toàn nhảy qua đầu qua cổ người khác mà đi kể cả hậu đối phương cũng phải cực kỳ coi chừng điểm này .
      3/ Tốt : khi vào đến hậu cung của đối phương được phong làm hậu . Khẹc khẹc ! Mà trong bàn cờ có 2 hậu của 1 đối thủ thì chỉ từ chết đến chết thôi .

      Xóa
    7. Ô ! Đại ca đúng là đại ca tụi mềnh nhỉ ? Cũng thích Hậu cơ ! :D Nhưng mờ chắc là "Hoa hậu" á Đại ca ! :D
      @ LG: Thì bởi ! Tui thích cái vụ tung hoành ngang dọc đó đó bồ ! Bồ tèo của tui lúc nào cũng hỉu í tui hết ! Cưng quá ! :-*
      @ PT: Bà nói đúng ý tui luôn ! Ba đứa đó ngon, Hậu thì khỏi nói zồi, quyền uy đệ nhất ! Mã thì nhảy trên đầu trên cổ ngừi ta hong à ! B-) Còn con tốt mới nguy hiểm, rón rén, từ từ đến khi tiến vào được hậu cung thì thành Hậu. Lúc đó nghiễm nhiên Vua được "một kiểng hai huê" ! Ngon nhể ! :)) (Đại ca tụi mềnh mà được chọn chắc là thích làm Vua lúc này nhứt á ! Há Đại ca há ! :D )

      Xóa
    8. @Ớt: tốt biến thành Hậu là điềm Vua sắp chết, ngồi nhìn mà run chứ thích nổi gì hả em

      @Mít: cho xin .. miễn í

      Hỏi mọi người, nghiêm túc nhé: Vì sao [color="blue"]Nhất phao câu nhì đầu cánh[/color]. Xin giải thích ý nghĩa câu tục ngữ này.

      Xóa
    9. Đại ce làm em ngứa mỏ , phi chủi đi òi mà de lại cãi nhaoo với anh nà .

      Với riêng em nha : về gia cầm hay động vật có cánh biết bay .

      Nhất phao câu : phao câu độc nhất chứa toàn chất làm mượt lông của gà , vịt , chim chóc .... nên phao câu em hỏng măm dù nhiều ngừi biểu phao câu béo bùi ngọt mìm ...

      Nhì đầu thôi , đầu gà đầu đầu dzịt chim chóc toàn sán lãi không hà tập trung ở hốc mắt và mỏ , em hông măm đâu dù nhìu dân nhậu biểu ngon lém hic ...

      Thứ ba là cánh thì em có măm vì em thích ... gặm xương hic hic hic nhưng cánh là cơ quan độc thứ 3 của gà dzịt chim chóc nó phủ nhiều da nhứt , da gà dzịt chim chóc cực độc , hông tin anh cứ măm măm da tụi nó nhiều vào thấy kết quả liềng hà ! :D

      Đại ce , Ớt , Linh Giang phát biểu cho em hóng hớt với xem em nghĩ thế nào . Câu tục ngữ này có từ hồi em chưa có mẹt , em hông biết ý gì khác hông hic hic !

      Xóa
    10. "[color="green"]Nhất phao câu nhì đầu cánh[/color]"
      Trước giờ theo em hiểu từ "đầu cánh" trong câu này là nguyên một từ chứ không tách ra "đầu""cánh".
      Phao câu là phần béo nhất, ngon nhất, PT chê chứ trong con gà, phần này em mê nhất. Ở nhà hay ở CTy mà có món gà thì nhất nhất phao câu phải để dành cho em kèm thêm dĩa muối tiêu chanh + ớt ! Hì hì ! Có lẽ vì em thích ăn đồ béo, bơ, phomai, tép mỡ .... :D (dzị mà còn không mập lên được đó anh!)
      Còn đầu cánh là phần thịt nạc gần "bả vai" con gà, hì hì, nghĩa là phần cánh gần lưng nhất, phần này vì sao lại là "nhì" thì em không biết vì em chẳng thấy ngon, tuyền nạc là nạc, chỉ vớt vát là được chút da là ngon ! :)

      @ PT: Chân gà thì còn có thể gặm được chứ đầu gà là tui hong xài đâu ! phần đầu, cổ này tui thường bỏ vì chẳng có gì ngon cả ! :D

      Xóa
    11. @Mít: tham khảo thêm bài báo này Có đúng là nhất phao câu .. ?
      @Ớt: ớt hiểu đầu cánh là đầu của cái cánh, giống ông Anh Chi, ở bài này

      Hì còn chờ thêm kiến giải của mọi người nhé.

      Xóa
    12. ông An Chi, sorry

      Xóa
    13. Ui mịa ui... tui đỏ phết nhở... tem vàng 1 phát...gầy bàn nhậu... đi 1 hồi về cái vụ Hậu - Phao câu - Đầu - Đầu, cánh - chưn gà... zôm zả phết :x
      @ Ớt: Tui là tui bồ kết pà nhứt đó... sở thích giống tui...thung thướng nhứt là ăn uống xả láng mà bao nhiu chất bổ béo nó chui xuống cống... và mình dzáng vưỡn "mình hạc sương mai" nhở Ớt nhở :))
      @ PT: Trên đời cái sự XƯỚNG nó cũng đặc biệt nhắm í bồ ợ...chỉ vì sợ mất dzáng, da mà phời KÌM HÃM CÁI SỰ XUNG XƯỚNG...âu cũng là cái thiệt thòi đó nha :))...bữa nao ra được xứ Bắc kỳ... tui đãi cả tuần chỉ ăn cánh gà cho...béo hú lên nha :-P
      @ Anh K: Sao anh xin cái Phao rùi lại cất cái Câu đi dzị...Anh cứ theo em với Ớt mà xử gà ngoé theo sở thích đê... chứ mà nghe PT "tư vấn" thì dzáng xưa có khi lại trở thành "Rất dài mà rất...xa" đó =))

      P/S: Ớt ợ! từ khi bồ tái xứt lốc - sì pót... cái kiềng 3 chưn bọn mềnh cũng vững chãi phết ...nếu Tam Anh mừ có mẹt ở đơi... "bố chí" cái nồi thì..Khung xườn cũng...NHỪ thoai... cố gắng duy trì phong độ nài nha =))

      Xóa
    14. Hì là LG giải tích câu tục ngữ như Ớt phải ko ?

      Tức nhất phao câu nhì đầu cánh vì hai thứ đó ngon nhất ? Hơn cả đùi gà, ức gà ?

      Xóa
    15. Hông! em hông giải thích tục ngữ ca dao đâu...khoản í em iếu mừ :D... em chỉ nói em thích măm "mấy chỗ" như Ớt ... mấy thức đó beo béo, ngầy ngậy...dễ măm hơn cả chỗ ức ... chứ còn chỗ ngon nhứt như đùi thì có ai chê bao giờ đâu anh :))

      Xóa
    16. @ Đại K: "ớt hiểu đầu cánh là đầu của cái cánh". Mẹ em giải thích cho em như vậy, nhưng bà không gọi là "đầu cánh" mà bà gọi là "chéo cánh" :)
      @ LG: Sở thích của Đại ca ta là đùi gà cơ LG ợ !
      Pà "gõ dây thép" cho Tamanh đi LG ! Tui sẽ cố gắng giữ phong độ 8 ! Hì hì ! :D
      iu Pà, iu cả mợ PT nữa :-*

      Xóa
    17. Èo! sao nhờ sân nhà anh để 8 mà pà lại SẾN dzị :-/ :))

      Xóa
    18. Mợ đơi , mợ ghé nhà Đại thăm 2 bồ rồi dzìa nha ! Hihi nói xong thấy miềng dzô dziêng ác , qua nhà Đại ca thăm 2 bồ hic hic ! Dzậy mờ có ngừi hỉu mới dzui chớ !

      Xóa
    19. Hic hic ! Sorry Đại ca em oánh thiếu chữ "ca" trong tên " Đại ca " . Đai ca tự thêm "ca" dzô nha ! Hic hic ! :D

      Xóa
    20. @ LG: Hix ! Tui thì SẾN như con hến hồi nào giờ mà ! :) Mà pà yên tâm đi ! Đại K mình cũng SẾN ác liệt hong kém gì tui đâu !
      @ Đại K: Sorry Đại K, em cứ thích 8 ở nhà Đại K vậy đó ! Có nói xấu Đại K chút xíu cũng ráng mờ chịu đi ha ! Chứ có ghét thì cũng đâu làm gì tụi em được ! Hì hì ! :D

      Xóa
  2. Em đánh giá cao tinh thần cổ vũ Festival Huế 2014 của Khùng hehe

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. nhân tiện festival thì ôn lại tí lịch sử, nghe lại bản nhạc cổ thôi

      Xóa
  3. Mấy ông vua đời đầu của triều Nguyễn có nhiều vợ, đông con và thường chết trẻ nhỉ, đạika Kh . :-o

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Ý QT là có quan hệ nhân quả ?
      QT có khi nào thử dùng Minh Mạng thang chưa ? :d

      Xóa
  4. [color="blue"]Nhất phao câu, nhì đầu cánh[/color]

    Quả thật có một thời dân Việt ta quan niệm làm thịt con gà thì thích nhất là phao câu, nhì là đầu cánh. Đọc bài của Ngô Tất Tố kể chuyện cái phao câu phải chỉa 4 chia năm cho các cụ chức sắc mỗi người tí ti thì biết nó quí như nào. cái phao câu dù sao còn dễ hiểu vì sao người ta lại thích - nó cực béo. Nhưng còn đầu cánh, dù cho hiểu là "đầu và cánh" hay "đầu của cái cánh" thì rõ ràng cũng ko thuyết phục được nó hơn như nào, khi so sánh với các phần khác, ví dụ đùi, ức gà.

    Một câu khác cũng gần gần câu này: [color="blue"]Nhất bì nhì cốt ( = nhất da nhì xương)[/color]. Sao da và xương lại được các cụ xưa coi trọng thế nhỉ ? Giờ thử cho con cái, có đứa nào thèm lấy ko ?

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Em nghĩ thế này . Hic hic .

      1/ Nếu là con gà thì khi cúng , gà được ngắm rất kỹ da gà phải đẹp như da mấy ẻm dưỡng ở spa trước khi cúng dzậy . Nếu không có bộ khung (xương) thì gà làm sao thẳng thớm để cúng nên nó quan trọng ốm( gầy ) tí hông sao hic hic !

      2/ Ở người thì da là biểu hiện của sức khỏe nếu như không muốn nói là đọc được sức khỏe qua làn da được đến 80% ... Không có bộ xương chắc khỏe thì hổng đi đâu mà mần được á . Còn cái khác gầy ốm , thiếu hụt chút ít có thể du di dù vẫn là cần thiết .

      Xóa
    2. Cho đến giờ phút này em vẫn rất nghiền phao câu và đầu cánh. Bao giờ hết phao câu và đầu cánh thì em mí sờ đến ức gà. Tuyệt đối em ko ăn đùi gà, dù mọi người khen nhìu.
      @Nhưng còn đầu cánh, dù cho hiểu là "đầu và cánh" hay "đầu của cái cánh" thì rõ ràng cũng ko thuyết phục được nó hơn như nào, khi so sánh với các phần khác, ví dụ đùi, ức gà.
      Thật đáng tiếc cho ai ko bít thưởng thức phần đầu của cái cánh gà, hehe, phần này với em thì ngon sau phao câu. Phao câu béo ngậy lại mềm. Đầu cánh cũng ngầy ngậy nhờ có thịt mềm và da mỏng. Với em so sánh đầu cánh và đùi gà, ức gà là 1 sự so sánh khập khiễng hehe
      Các cụ ta ngày xưa quả là sành ăn! Nhưng đằng sau cái sành ăn í các cụ có ẩn ý gì nữa ko ta? Có bao giờ các cụ ám chỉ vòng 1 và vòng 3 của người phụ nữ ko hả Khùng???

      Xóa
    3. @Mít: tức theo em câu Nhất bì nhì cốt là để chỉ những yếu tố làm cho con gà tốt khi cúng lễ ?

      @Nẻ: Em nói thật ko đấy ? Theo anh quan sát hiện nay số người thích ăn phao câu như em và Ớt là rất hiếm. Số thích đầu cánh, coi hơn cả ức, đùi gà lại càng hiếm hơn. Nói chinh xác thì mới biết em là người đầu tiên thích ăn đầu cánh hơn ức, đùi

      Xóa
    4. Hì hì ! Câu của các cụ lúc nào cũng 2 nghĩa đen và nghĩa bóng . Theo em "nhất bì nhì cốt " cũng vậy á Đại ca . Cho cả người và ... gà cúng hic ! Vì nãy giờ mình đang nói chiện gà nên em phân tích theo gà cúng . Hiểu theo nghĩa nào cũng được ạ ! :D

      Xóa
    5. Đại K ui ! Tại anh mê đùi (gà) quá thôi, chứ đầu cánh tuy cũng là nạc nhưng mềm & ngọt hơn đùi nhiều ! Hong tin anh măm thử coi biết liền ! :D
      @ PT: Câu "nhứt bì nhì cốt" đúng nhất với tui lúc này đó mợ ! :(

      Xóa
    6. Anh K:[color="red"] "Theo anh quan sát hiện nay số người thích ăn phao câu như em và Ớt là rất hiếm" [/color]- Anh bảo thế em cũng nhất trí thế vì con gà có 2 cái đùi và 2 cái cánh nhưng chỉ có 1 cái... phao...lại chẳng to lắm nên thấy ngon thì có khi người chặt đã CHÉN rùi thì làm sao mà có nhìu ngừi được măm nữa :)) - Dưng mờ theo em hôm nào anh thử 1 bữa xem sao... nhấm nháp từng chút thôi và đừng măm quá 3 cái anh sẽ cảm nhựn thấy "Ẻm phao" đó...khoái hơn "ẻm đùi" :D

      Xóa
    7. Em cũng nhận thấy số người ăn phao câu hiện nay rất ít (TT em có 3/25; Xóm em có 2/46; nhà em có 1/4; trong lốc anh cũng chỉ có em, chị Ớt, chi LG thik phao câu). Nhưng theo em, số người ăn ít vậy ko hẳn do ngta ko còn thik phao câu nữa, mà do nghe nói phao câu ko tốt cho sức khoẻ nên ngừng ăn, dù rất thèm, hehe, chứ ko như em điếc ko sợ súng. Ấy là phao câu, còn đầu cánh thì ko như anh thấy đâu, rất nhìu người, ít nhất là những người chung quanh em, thik đầu cánh hơn ức và đùi đấy. Với em đùi gà ngán lắm, toàn thịt là thịt, em chỉ ăn đùi gà với điều kiện xé ra làm gỏi thui, chứ gặm ko cái đùi thì “say no”. May mà nhà em M thì chỉ ăn đùi gà, em thì phao câu, cánh, phần còn lại A2 tự giải quyết nên ko …đánh nhau vỡ đầu hehe

      Xóa
    8. Cả nhà anh 4 người, chả ai ăn phao câu và da gà. Ngồi nhậu với bạn bè, gắp bỏ đứa nào cũng từ chối. Ai cũng ngán vì béo, ớn qá. Đầu cánh thì chỉ ăn khi bụng no, ko muốn ăn nên cầm cánh gặm cho vui ..

      Và, anh nghĩ, chính yếu tố i) béo ngậy và ii) gặm cho vui này là cơ sở để các cụ ngày xưa sắp i) nhất cho phao câu / bì và ii) nhì cho đầu cánh / cốt.

      Thời các cụ còn nghèo lắm, cả năm làm vất vả rất cần chất béo nhưng chỉ những dịp cúng giỗ mới có miếng thịt nên đánh giá số 1 cho cái gì béo ngậy, số 2 cho cái gì có thể gặm được lâu cho đã cơn thèm ..

      Thật ra ko chỉ đời các cụ mà mới đây thôi, thời 197x, đầu 198x .. Có thể các em bé sau này ko tưởng tượng được, là có một thời thịt mỡ heo bán bằng hoặc có lúc đắt hơn nạc heo. Múc bát canh có miếng tóp mở nổi lềnh bềnh, bao nhiêu đôi đũa tranh nhau vớt ..

      Câu tục ngữ chỉ phản ánh một kinh nghiệm ăn uống rất thực dụng của một thời kì đói khổ, thế thôi. Chả có vòng 1, vòng 2 gì ở đây đâu. Ah, mà em nào muốn ví von thì cái phao câu ko tương ứng với v2 nhé :))

      Xóa
    9. Nẻ phát thanh chuẩn luôn...nhất là về cái vụ phao câu... chị ưng iêm roài :x :x :x

      Xóa
    10. @Cả nhà anh 4 người, chả ai ăn phao câu và da gà: Khi nào nhà anh ăn gà thì gọi em nhé, em phao câu, M da gà hehe (M nghiền da gà kinh khủng lun!)
      @Đầu cánh thì chỉ ăn khi bụng no, ko muốn ăn nên cầm cánh gặm cho vui ..: khi bụng no ko ăn nủi đầu cánh đâu Khùng ơi, vì đầu cánh ngậy ngậy, bùi bùi. Lúc no rùi thì chỉ có thể gặm chân or phần đuôi cánh thui.
      @Và, anh nghĩ, chính yếu tố i) béo ngậy và ii) gặm cho vui này là cơ sở để các cụ ngày xưa sắp i) nhất cho phao câu / bì và ii) nhì cho đầu cánh / cốt: em chưa thoả mãn mí lập luận này của anh!
      @Thời các cụ còn nghèo lắm, cả năm làm vất vả rất cần chất béo nhưng chỉ những dịp cúng giỗ mới có miếng thịt nên đánh giá số 1 cho cái gì béo ngậy, số 2 cho cái gì có thể gặm được lâu cho đã cơn thèm ..: số 1 cho cái gì béo ngậy thì tại sao ko nói đến tóp mỡ, chân giò mà lại là phao câu gà?
      @Ah, mà em nào muốn ví von thì cái phao câu ko tương ứng với v2 nhé: cái phao câu tương ứng mí vòng 3, nếu gặp ai có v3 vĩ đại thì bọn em hay kháo nhau: ui chao phao câu phúc hậu thế!









      Xóa
    11. @ Linh Giang: Chị đừng ưng em thế chứ, em ứ nhường phao câu cho chị đâu hihi

      Xóa
    12. Ông Minh Mạng ui, ông Gia Long ui, ông Bảo Đại ui… có ông nào thik phao câu thì dơ tay lên cho em bít với hihihi

      Xóa
    13. @ Nẻ: Hic! chị kiệm nhời khen nhắm í... dưng mờ em đi tông vào bụng chị thế... xem chừng hỏng có phao câu roài...:( :((
      @Anh K : Anh hỏng măm cái này ... khi nèo mọi ngừi đùn đẩy nhao thì anh lấy rùi....bỏ vào túi bóng rùi chuyển phát nhanh cho em nha :))

      Xóa
    14. @Nẻ
      Lúc no rùi thì chỉ có thể gặm chân or phần đuôi cánh thui.
      Anh hiểu "đầu cánh" là đầu & cánh. Với người thèm thịt kinh niên thì đầu, cánh hay đống xươg có giá trị lớn hơn thịt, vì gặm được lâu, đã thèm.

      số 1 cho cái gì béo ngậy thì tại sao ko nói đến tóp mỡ, chân giò mà lại là phao câu gà?
      Vì đang ăn gà.

      Hì ko dè các cô lại thích phao câu nhỉ. Anh cứ nghĩ thời này ngươi ta sợ phao câu như gì.
      Nhưng nói thật, nếu thực sự ốm yếu (như Ớt :d) thì ăn phao câu chắc ko có vấn đề gì, còn nếu có thân hể hơi kha khá rồi thì các em tránh cái phao câu với da gà đi nhé.
      Riêng cánh gà thì bỏ da, còn gặm thoải mái. Nhưng chú ý giúp mấy cái chân gà nướng vĩa hè nhé. Nhìn rất ngon

      http://img.tintuc.vietgiaitri.com/2012/12/17/lai-rai-chan-ga-nuong-phan-xich-long-ngon-dung-hoi-358215.jpg

      Muốn học cách làm thì xem đây: "Đặc sản" chân gà

      Xóa
    15. Neu Khung hiu dau canh la dau va canh thi em ko binh loan gi them nhe!
      @Vì đang ăn gà: Dang an ga va em suc lien tuong den heo, bo, cho ... Tai sao khi an thit cac con vat i cac cu ta ko "đánh giá số 1 cho cái gì béo ngậy, số 2 cho cái gì có thể gặm được lâu cho đã cơn thèm .."?

      Xóa
    16. Em hông măm phao câu , hông măm đầu đâu ... huhuhu hic hic , chỉ măm cánh và chưn gà thôi , cảm ơn món chưn gà nướng nha Đại ca .

      Xóa
    17. Khùng này, cái câu “Nhất bì, nhì cốt” nghe có vẻ mâu thuẫn với câu “Hết nạc vạc đến xương” nhỉ?

      Xóa
    18. @Ne:
      em suc lien tuong den heo, bo, cho ... Tai sao khi an thit cac con vat i cac cu ta ko "đánh giá số 1 cho cái gì béo ngậy, số 2 cho cái gì có thể gặm được lâu cho đã cơn thèm .."

      heo, bò, chó đủ lớn rùi em, nên có thể ăn thịt ko cần tính toán thế .. Nhưng em chú ý mấy điều về thói quen ăn uống của các cụ xưa nhé, và còn truyền lại một bộ phận ko nhỏ dân ta hiện nay:

      i) chặt to kho mặn.
      Thịt heo chặt thành miếng to dày ăn cho mau ngán. Còn kho mặn thì anh có kỉ niệm nhớ đời. Hồi 198x anh có lần về thôn 18, 19 gì đấy ở Dầu Tiếng, được đãi một bữa nhậu với "đặc sản". Nhưng gắp đưa miệng cắn miếng, đứa này nhìn đứa kia, đoán là thịt nhưng chả biết thịt gì - mặn chát í. Hóa ra là gà rừng. Một con gà rừng chắc tầm 1000 grs cho chiếu nhậu hơn 10 người, hết can rượu 20 lit, dĩa thịt ko vơi hihi

      ii) thích ăn lòng, kể cả ruột già. Đây là những bộ phận chứa nhiều chất béo.

      cái câu “Nhất bì, nhì cốt” nghe có vẻ mâu thuẫn với câu “Hết nạc vạc đến xương” nhỉ?
      Ko mâu thuẫn.
      Một con gà cho cả chục người ăn thì chọn nhất bì nhì cốt để gắp.
      Còn một con gà cho một vài người ăn thì cứ nhẩn nha "hết nạc mới vạc đến xương" :d

      @Mít: nhớ ngâm tẩm kỹ theo hd :d

      Xóa
    19. @ Đại ca: Theo em thì con nào cũng có phần ngon của nó, như gà thì có "phao câu, đầu cánh" (not "đầu" & "cánh"), bò thì có "thăn chuột", heo thì có "thăn nội, đầu rồng", ngỗng thì có "gan" .... Chẳng cứ phải tại ngày xưa nghèo nên mới tôn "phao câu & đầu cánh" lên hàng đầu đâu anh.
      @ Nez: Chị vote mạnh cho em lun !

      Xóa
    20. Anh mà chỉ để dành phao câu gà cho LG & Nez thôi là anh biết em đó nha !

      Xóa
    21. @ Chuon: Em cũng vote cực mạnh cho chị lun vì câu này "Chẳng cứ phải tại ngày xưa nghèo nên mới tôn "phao câu & đầu cánh" lên hàng đầu đâu anh."

      Xóa
    22. @Ớt: Anh có nói là trong con vật gì cũng như nhau đâu ? Bò thì fillet, heo có cot-let, dê có .. thôi ko nói nữa, đại khái thế. :D

      Anh chỉ muốn nói khi ăn gà, nhỏ quá nên phải tính toán mục tiêu khi tung đũa ra B-).
      Còn ăn đến bò heo rồi thì ko đến nỗi .. Xưa, mong có miếng thịt heo, càng mỡ càng tốt, đâu cầu kỳ đòi phải cot-let hay bò phải bò Úc, bò Việt còn chê dai như bây giờ ..

      Kể chuyện chọn mục tiêu nhé: thủa bé ở trung, có lần bà già đi chợ mua trái xoài về cho 3 anh em. Trái xoài cắt làm ba: hai má hai bên và cái hạt giữa, có dính ít xoài hai phía. Đứa nào cũng giành cái hạt, dù tính về nạc xoài nó ít hơn hẳn hai má hai bên. Lý do là hai đứa kia ăn hết xoài rồi, đứa giữa vẫn còn có cái gặm, hai tên kia thèm nhỏ dãi :d

      Xóa
    23. Nếu ăn xoài (chín) thì em cũng không phần ai cái hạt đâu anh ! :D
      À ! Anh đã bao giờ ăn xôi xoài chưa ? :)

      Xóa
    24. Xôi xoài ? ngay cả tên cũng mới nghe lần đầu :d

      Xóa
    25. Mấy cô đồng nghiệp cũ của ba em kể hồi năm 198x đi Hà Tiên công tác, được ăn sáng bằng món xôi xoài, ngon lắm ! Em chưa được măm qua ! :D
      Tìm trên net thấy có món đó nhưng lại là xôi xoài Thailand. :D chắc hổng phải !

      Xóa
    26. anh chỉ ăn xoi vò xoi gấc xoi đậu xôi khoai mì xôi gà. Hình như chỉ thế :d

      Xóa
    27. Quên cái còm: em ko hỉu "chặt to kho mặn" như Khùng hỉu đâu, thành ngữ này ám chỉ những người vụng về trong nấu nướng. Em còn nhớ hồi bé, mẹ em hay tự nhận mình là người chặt to kho mặn mỗi lần 8 chiện nấu nướng mí hàng xóm. Khùng thử check lại xem nhé! Mong!

      Xóa
    28. Đúng rùi, thành ngữ Chặt to kho mặn nghĩa bóng là nấu ăn vụng về. Nghĩa bóng này xuất phát từ nghĩa đen, chỉ biết chặt to, kho mặn, tức chỉ làm những cái đơn giản, thiếu sự tinh tế

      Xóa

Chú ý: chỉ cần dán link vào, không cần gõ thẻ khi post
Hình (file có đuôi jpg, jpeg, png, bmp, gif ),
Nhạc (file có đuôi mp3 hoặc từ trang web nhaccuatui),
Video (từ Youtube)

Đổi cỡ, màu chữ:
[color="red"][size="20"] chữ cỡ 20 màu đỏ [/size][/color]
(màu dùng mã hexa hoặc tiếng Anh: red, blue, green, violet, gold ..)
Giới thiệu link: <a href="link"> tên link </a>
Chữ đậm <b> chữ đậm</b>
Chữ nghiêng: <i> chữ nghiêng </i>

Chèn Yahoo smiley (click Chèn emoticons để xem phím tắt)
Đã thêm mấy smiley nhưng chưa rảnh thêm vào bảng chèn. Phím tắt:

:-/ bối rối ;) nháy mắt ;;) đá lông nheo
:"> thẹn :X yêu thế =(( tan nát cõi lòng

Chú ý Nếu nút Trả lời ko hoạt động, xin chịu khó lên thanh địa chỉ, gõ thêm vào cuối (ngay sau html) ?m=1 rồi nhấn Enter, nút Trả lời sẽ ok. (29/11/18)