5/1/16

CHÚNG TÔI HỌC NGOẠI NGỮ NHƯ THẾ ĐẤY!

Vương Trí Nhàn

Từ chiến tranh trở về, những người viết văn thuộc lớp chống Mỹ chúng tôi lòng đầy háo hức.Trong số những việc liên quan tới việc lập nghiệp, có việc học ngoại ngữ. Ồ, cái đó cần lắm chứ, phải lo học, phải đi quốc tế, phải trở thành những trí thức thật đàng hoàng – nhiều người gặp nhau ở ý nghĩ ấy.
Nhưng chẳng bao lâu, không ai bảo ai mà đều ngấm ngầm nhận ra một sự thực: Học khó quá. Tắc. Hình như kiến thức nó cố trốn chạy khỏi mình.
Như trong chuyện ngoại ngữ, dù có kiên trì đến mấy, học cũng không vào. Nhà văn nọ, có lần, sau khi tuyên bố hùng hồn là mình học tiến bộ lắm, xoè ra cho mọi người thấy một quyển sách tiếng Anh mới mua được ở một hiệu sách cũ. Bạn bè chung quanh nhìn kỹ, thì ra đó là một cuốn sách tiếng Pháp.
Dĩ nhiên về sau, cái sự gọi là quyết tâm kia có giảm. Có thương nhau thì bảo nhau lo viết ngay đi; chứ còn việc học, mà nhất là việc đọc sách và xì xồ với nhau mấy câu bằng các thứ tiếng xa lạ -- một hai năm sau, mọi người nói nhỏ với nhau -- sao thấy nó phù phiếm quá (!).


THỜI CỦA NHỮNG CẤM ĐOÁN

Những kỷ niệm trên lập tức trở lại trong tâm trí tôi, khi nghe những lời than phiền gần đây về tình trạng dân mình đội sổ trong việc ngoại ngữ và nhất là cái cách người ta giải thích về tình trạng bê bết đó.
Lấy ngành giáo dục làm ví dụ. Tuy trong thực tế việc học và dạy được tổ chức rất kém song trên các tuyên bố chính thức, việc chinh phục ngoại ngữ có lúc được đề lên như một thứ quốc sách. So với những năm chiến tranh, phải thấy điều kiện học của các bạn trẻ bây giờ đã khá hơn trước rất nhiều. Lại càng không nên nghĩ đến chuyện ký tính, sức nhớ, khả năng thông minh của học sinh sinh viên nước mình …
Vậy thì tại sao mọi việc thê thảm làm vậy?
Không dám coi như một môn bắt buộc trong các kỳ thi phổ thông.
Để mặc cho hiện tượng bằng giả tràn lan kể cả bằng thật nhưng kiến thức giả phổ biến trong giới giáo sư tiến sĩ.
Chấp nhận tình trạng quê mùa của cả xã hội mà không có cách nào kháng cự.
Phải chăng cái sự kém cỏi kia hiển nhiên và kéo dài từ thế hệ nọ sang thế hệ kia đến mức người ta bắt đầu tuyệt vọng.
Chính ở đây, tôi thấy phải nói tới những nguyên nhân tâm lý:
Nhìn vào lớp nhà văn chống Mỹ vừa nói ở trên, trước tiên tôi nhớ tới hoàn cảnh mà bọn tôi lớn lên, trong đó có những chuyện mà ngày nay không ai tưởng tượng ra nổi.
Hồi ấy, người Hà Nội xác định với nhau là “ta chỉ nói chuyện với chính ta“. Nghĩ tới người nước ngoài là nghĩ chuyện phải cảnh giác. Đi đường, thấy tây đầm hỏi đường, không được chỉ. Sổ ra vài câu tiếng tây với họ là bị công an gọi về đồn liền.
Xưa nay nghề dịch vốn đã èo uột, vậy mà hồi đó báo chí, kể cả báo chí văn nghệ còn gần như cai hẳn tức là bỏ luôn cái mục được coi là rắc rối này.
Vả chăng, muốn làm cũng chẳng có gì mà làm. Sách Anh Pháp không nhập, ngay sách Trung văn cũng không có, bên Bắc Kinh đang cách mạng văn hoá. Một số cuốn sách xô - viết loại như "Chuyện núi đồi và thảo nguyên" in xong -- cũng như phim "Đàn sếu bay qua" phim "Người thứ 41" mang chiếu -- liền bị phê phán và thu hồi, ai cố tình tìm còn bị quy kết chính trị và đánh cho đến mức lên bờ xuống ruộng khốn khổ khốn nạn .
Cái tình cảnh sống như tách mình ra khỏi thế giới ấy lâu dần lại được người ta lý tưởng hóa và biến thành một niềm tự hào "tự ta là đủ rồi", "ta không cần đến ai hết".
Đến thời hậu chiến, khi những rào cản cụ thể hôm qua có vẻ không còn, thì những rào cản trong tâm lý con người không phải bỗng chốc mà dỡ bỏ được ngay. Nó đã ăn vào tư duy, chi phối tình cảm và ý chí của nhiều thế hệ. Vì thế mới có tình trạng sống giữa sách vở ê hề, tài liệu chồng chất và "gần như" không chịu một hạn chế nào như hiện nay, người ta chỉ có học đòi làm dáng, chứ vẫn không thể có một sự giao lưu và tiếp nhận tốt như đáng lẽ phải có.

LỐI MÒN TRUYỀN THỐNG

Năm 2004, một nhà văn Mỹ là S. Sontag qua đời. Tôi nhớ những năm chiến tranh, bà này có qua Hà Nội, và nghe nói nhận xét về người mình hay lắm, mà bọn tôi không được giới thiệu.
Thì may quá, có hôm đọc sách của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc thấy ông kể S. Sontag từng nhận xét người Việt Nam ít có thói quen tư duy trên một phạm vi địa lý rộng.
Đó cũng là cái ý mà một người Nhật gần đây có sống mấy năm liền ở Hà Nội nhận xét: Người Việt ít khi đặt mình vào địa vị của người khác để suy xét.
Tôi cho rằng chính những đặc tính trên đây cản trở việc học ngoại ngữ của ta hiện nay.
Đọc lịch sử cận đại, thời các cụ đua nhau Đông du, lại được biết: Hồi Phan Chu Trinh mới qua Nhật, ông có được gặp cả thủ tướng Nhật Bản lúc ấy mà phiên âm qua tiếng Hán Việt gọi là Đại Ôi. Câu đầu tiên mà Đại Ôi nói với Phan Chu Trinh đại ý tôi nghe nói người Việt Nam đã lâu, mà nay mới gặp, hoá ra người các ông ít đi nước ngoài thật.
Tiếp đó, khi biết rằng người đối thoại với mình lúc ấy chưa biết tiếng Pháp, Đại Ôi tỏ vẻ ngạc nhiên, sao lại thế, muốn đánh đuổi gì người ta cũng phải hiểu người ta đã, không học tiếng Pháp sao được?
Chuyện đầu thế kỷ XX mà nghe như chuyện của chính chúng tôi trong thời chống Mỹ. Và nếu ông Đị Ôi lại biết thêm rằng khi Việt Nam đã có độc lập, việc hạn chế học ngoại ngữ có lúc dù không ghi thành văn bản nhưng thực đã trở thành một thứ luật lệ, thì không rõ ông sẽ bình luận ra sao.
MẤT HẾT CẢ SỰ KHAO KHÁT
Những anh em lên Sapa về thường kể, không hiểu tại sao tuy chỉ tích luỹ theo kiểu học lỏm khách du lịch mà nhiều thanh niên dân tộc H’mong trên đó nói tiếng Anh rất giỏi, trong khi nhiều người Kinh mình gần đây học có bài bản hẳn hoi mà nói vẫn rất quê.
Từ chuyện có vẻ ngược đời đó, vẫn trên cái mạch đi tìm những ảnh hưởng của văn hoá đối với việc học ngoại ngữ, tôi muốn nêu một giả thiết :
Tuy không nói ra rành rọt, nhưng những thanh niên H’mong kia hiểu rằng ngoài cái thế giới mà họ đang sống, còn có thế giới rộng hơn, gần nhất là thế giới của người Kinh. Và muốn tồn tại họ phải hoà nhập với thế giới đó. Tức là ý thức về mình và kẻ khác của họ đã phát triển và nó ăn vào trong tâm thức họ, đời nọ truyền sang đời kia. Khi tiếp xúc với một thứ tiếng mới, họ có nhu cầu buộc mình cố bắt chước nói cho thật giống.
Còn ngược lại, nhiều người vùng xuôi khi tiếp xúc với người nước ngoài, tuy ở ngay các đô thị lớn, song thường thiếu nghiêm túc, không coi là chuyện thiết yếu liên quan đến cuộc sống của mình.
Sự xem thường đó là cả một thứ vô thức tập thể kéo dài và bền chắc, nó lưu cữu trong ta, và tha hồ tác oai tác quái.
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa chúng tôi hồi chiến tranh là thế chứ còn gì nữa!

ĐỂ NHỮNG BẼ BÀNG ĐỪNG LẶP LẠI

Gần ba chục năm, tôi công tác ở một nhà xuất bản. Thỉnh thoảng, cơ quan tôi cũng có khách nước ngoài và khi tiếp khách, ông giám đốc không quên mời một số nhân viên cùng dự.
Nhưng sau một ít lần háo hức, những ngày về sau, phải thú thực tôi rất ngại.
Phần thì tiếng tăm không biết.
Phần thì, trong những buổi gặp đó, thường chúng tôi hiện ra vô duyên thảm hại.
Đại khái muốn trò chuyện về văn chương thì phải hiểu văn chương nước người ta ra sao, muốn bàn về xuất bản phải hiểu tình hình xuất bản bên họ thế nào. Đằng này chúng tôi mù tịt.
Theo lời một nhà thơ nổi tiếng là có đầu óc rất tỉnh và cũng từng là quan chức đầu ngành của văn nghệ Hà Nội là Vũ Quần Phương -- thì nhiều cuộc gặp gỡ của các nhà văn ta với nhà văn nước ngoài bí chuyện trao đổi với thảo luận quá, rút lại chỉ còn nói tiếu lâm và bàn chuyện ăn uống, đại khái hỏi họ bên nước ông ăn thìa hay ăn đũa, rồi tán dần ra.
Vài lần chầu rìa và ngồi nói tào lao như thế qua đi, giờ đây “nhỡ “ được gọi tiếp khách là tôi xin kiếu. Một số bạn bè cùng lứa cũng có tâm trạng như trên.
Chúng tôi muốn các bạn trẻ biết cho chuyện này và đừng lặp lại. Dẫu sao, khi vào đời, một sinh viên cũng phải có được một ngoại ngữ. Đó là dấu hiệu để có thể nói rằng mình và thế hệ mình đã đi ra và muốn làm bạn với thế giới. Ngoại ngữ cũng chính là phương tiện để đạt tới cái đích tự nhiên đó.
Còn nếu như sau khi đã quyết tâm rồi mà các bạn vẫn không sao học nổi thì xin có hai đề nghị có vẻ trái ngược nhau:
Một là các bạn đừng trách mình nhiều. Nói thật, lỗi không phải ở các bạn đâu mà lỗi là ở những người đi trước, nay các bạn vẫn đang phải gánh chịu những di lụy của quá khứ.
Hai là tuy vậy, các bạn vẫn phải tìm bằng được cách vượt lên để học những điều cần học. Con người phải có ao ước vượt qua định mệnh. Nếu chúng ta tiếp tục dốt nát tức chúng ta mãi mãi là tù nhân của quá khứ.

Nguyên là bài
"Tại sao người mình kém ngoại ngữ?"
Báo Sinh viên Việt Nam
10-2006

Nguồn: facebook của Vuong Tri Nhan


Xem vài clip về học tiếng Anh

Tại cổng trường Đại học Mỏ- Địa chất Hà nội


Cô bé H'Mong


Ông lão ở Saigon





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: chỉ cần dán link vào, không cần gõ thẻ khi post
Hình (file có đuôi jpg, jpeg, png, bmp, gif ),
Nhạc (file có đuôi mp3 hoặc từ trang web nhaccuatui),
Video (từ Youtube)

Đổi cỡ, màu chữ:
[color="red"][size="20"] chữ cỡ 20 màu đỏ [/size][/color]
(màu dùng mã hexa hoặc tiếng Anh: red, blue, green, violet, gold ..)
Giới thiệu link: <a href="link"> tên link </a>
Chữ đậm <b> chữ đậm</b>
Chữ nghiêng: <i> chữ nghiêng </i>

Chèn Yahoo smiley (click Chèn emoticons để xem phím tắt)
Đã thêm mấy smiley nhưng chưa rảnh thêm vào bảng chèn. Phím tắt:

:-/ bối rối ;) nháy mắt ;;) đá lông nheo
:"> thẹn :X yêu thế =(( tan nát cõi lòng

Chú ý Nếu nút Trả lời ko hoạt động, xin chịu khó lên thanh địa chỉ, gõ thêm vào cuối (ngay sau html) ?m=1 rồi nhấn Enter, nút Trả lời sẽ ok. (29/11/18)