Nhân dịp khai mạc Festival Đờn ca tài tử Quốc gia lần I tại Bạc Liêu (25/4/2014), cóp bài báo của Vũ Đức Sao Biển kể lại quá trình phục hiện bản Dạ Cổ Hoài Lang, bản nhạc có vị trí rất đặc biệt trong Đờn ca tài tử Nam bộ
(TNOL) Tôi sinh ra tại Quảng Nam. Thời thơ ấu, tôi có nghe cha nói về đất Bạc Liêu - một vùng đất trù phú, ruộng đồng phì nhiêu của Nam Bộ. Tôi không nghĩ cuộc đời của mình mươi năm sau đó lại có duyên gắn liền với vùng đất này.
Tháng 10.1970, tôi đến Bạc Liêu, dạy môn triết học cho học sinh các lớp đệ nhất (lớp 12) tại tỉnh này. Thuở ấy, mỗi tỉnh chỉ có một người dạy môn triết cho lớp đệ nhất đi thi tú tài.
Làm quen với âm nhạc tài tử
Đất Bạc Liêu là nơi hội tụ của ba nguồn văn hóa Việt, Hoa và Khmer. Tự căn cơ, Bạc Liêu có một nền văn hóa thâm hậu. Tính tôi lại ham chơi, thích tìm hiểu nên lúc nào rảnh việc lại đi xem những ngôi nhà cổ do Pháp để lại, những đền chùa và những đêm biểu diễn nghệ thuật của người Hoa và Khmer.
Thuở ấy, người ta chỉ có thể nghe nhạc qua radio. Tối thứ sáu và tối chủ nhật hằng tuần, học trò của tôi cũng nghe nhạc của hai ban
Tiếng nhạc tâm tình và
Tiếng tơ đồng trên Đài phát thanh Sài Gòn. Nghe nhiều, các em hiểu ra
Thu, hát cho người và
Chiều mơ do Anh Ngọc, Hà Thanh, Ngọc Long, Mai Hương, Quỳnh Dao, Vân Quỳnh, Vân Hà, Lệ Thu... hát chính là sáng tác của thầy mình.
Các em có ý định rủ tôi cùng đi nghe và xem những ban đàn ca tài tử địa phương biểu diễn. Tôi đã được học một chút âm nhạc Tây phương để sáng tác ca khúc, vốn chỉ quen với thanh nhạc qua những nhạc cụ định âm, nốt nào ra nốt đó như guitar, piano, mandoline, kèn saxo... Bấy giờ, được làm quen với đàn ca tài tử, tôi cảm thấy thú vị với những âm thanh chơi vơi, lơ lửng 1/4, 1/8, thậm chí 1/16 ton từ các nhạc cụ guitar phím lõm, đàn kìm, đàn cò, đàn tranh... phát ra.
|
Ông Cao Văn Lầu |
Một hôm, các em rủ tôi đi thăm nhạc sĩ Cao Văn Lầu (Sáu Lầu). Các em giới thiệu: Bác Sáu Lầu là tác giả của bài hát
Dạ cổ hoài lang - bài hát danh tiếng của đất Bạc Liêu, được phát triển thành bài ca vọng cổ ngày nay. Chúng tôi đến thăm ông trong một đêm trăng tháng 12.1970. Nhà ông nằm trong một hẻm nhỏ trên đường ra Giồng Biển, cũng không xa nhà tôi ở trọ trên đường Đống Đa là mấy.Và nghe Dạ cổ hoài lang
Buổi gặp gỡ thật cảm động. Nhạc sĩ Cao Văn Lầu đeo kiếng trắng, bận một bộ bà ba trắng, phong cách rất ung dung, điềm đạm. Ông bắt tay tôi, gọi tôi là “cháu”. Ông nói: “
Bác chỉ quen sáng tác và sinh hoạt đờn ca bên cổ nhạc. Bây giờ, bác lớn tuổi quá rồi, hơi hám chẳng còn bao nhiêu, chỉ dám nghe đờn ca chớ ít khi dám ca. Các cháu đến thăm chơi muốn nghe bài Dạ cổ hoài lang, bác cũng ca cho các cháu nghe vậy”.
Cây đàn kìm của bác thật cũ kỹ, mặt đàn đã tróc hết sơn, căng hai sợi dây cước. Có lẽ cây đàn đó đã gắn bó máu thịt với cuộc đời nghệ sĩ của bác từ rất lâu. Bác vặn khóa, so dây; ngồi theo tư thế chân trái co lại hình chữ V sát mặt ván, chân phải cũng co lên hình chữ V tỳ gối vào nâng thùng đàn. Và ông ca bài Dạ cổ hoài lang:
Từ, (là) từ phu tướng.
Báu kiếm sắc phán lên đàng.
Vào ra luống trông thơ nhạn.
Năm canh mơ màng.
(Trông ngóng) trông tin chàng.
Gan vàng càng lại thêm đau.
Lòng dầu say ong bướm.
Xin cũng đừng phụ nghĩa
tào khang.
Đêm luống trông tin bạn.
Ngày mỏi mòn như đá
vọng phu.
Vọng phu vọng luống trông
tin chàng.
Xin đó chớ phụ phàng.
Chàng (là) chàng có hay.
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây.
Bao thuở đó đây sum vầy.
Duyên sắc cầm tình thương
với nhau.
Nguyện cho chàng.
Đặng chữ bình an.
Trở lại gia đàng.
Cho én nhạn hiệp đôi với
đó đây.
Tôi hiểu một tác phẩm âm nhạc có giá trị nghệ thuật tiêu biểu cho dòng nhạc phương Nam, thể hiện sâu sắc tính nhân văn thì mới được người đi sau phát triển thành bài ca vọng cổ “phủ sóng” khắp cả nước
|
Tôi ngồi nghe người nhạc sĩ lão thành ca sáng tác đầu đời thành công nhất của ông mà lòng xúc động. Tiếng ca của bác như từ trái tim vọng ra, hồn tính lãng mạn của âm nhạc phương Nam bay bổng tuyệt vời, ca từ trang nhã, giai điệu tươi đẹp. Trong cảm nhận chuyên môn, tôi thấy bài ca chuyển từ chủ âm qua tam trình, tứ trình, ngũ trình át âm (quãng 3, quãng 4 và quãng 5) của giai điệu rất phóng khoáng và tài hoa. Một bản nhạc cổ xây dựng trên nền tảng dân ca Nam Bộ mà cách chuyển âm giai rất phong phú, hoàn toàn không mang tính đơn điệu (vốn thường gặp) của dân ca chút nào.
Tôi hiểu khi bác sáng tác bài ca này, chắc chắn bác đã đọc
Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn (Đoàn Thị Điểm dịch Nôm) nhiều lần. Một số khái niệm cổ được bác viết trong ca từ mang đậm dấu ấn của tác phẩm văn học này: phu tướng, báu kiếm (bảo kiếm), thơ nhạn (nhạn tín), nghĩa tào khang, đá vọng phu, sầu tây…Bài ca chỉ bao gồm 20 câu, trong đó câu 4 và câu 12 rơi vào nhịp ngoại - phách yếu (temps faible), các câu còn lại đều rơi vào phách mạnh (temps fort). Ở những chỗ rơi vào nhịp ngoại, nhạc sĩ Cao Văn Lầu viết chữ (của ca từ) trước, sau đó mới đánh dấu bằng (=). Ở những câu bình thường rơi vào phách mạnh, nhạc sĩ Cao Văn Lầu viết chữ cuối (của ca từ) rồi đánh dấu bằng (=) dưới chữ ấy. Tôi mường tượng ở những chỗ có dấu bằng, song loan (mõ nhỏ dùng để điểm nhịp trong các đàn nhạc tài tử) phải gõ đúng vào đó, nhắc cho người ca biết đó là phách mạnh để ca khỏi trật nhịp.
Về chủ âm của bài ca, tôi đồ chừng Dạ cổ hoài lang viết cho giọng đào (chuyên ca bài vọng cổ) ca. Nếu đối chiếu qua thanh nhạc Tây phương thì chủ âm của bài ca này ở vào khoảng Ré thứ (Ré mineur), cao nhất thì cũng chỉ Mi thứ (Mi mineur) là cùng. Âm vực của Dạ cổ hoài lang khá rộng - bao gồm 13 nốt. Đặc biệt nốt nhạc ở quãng 6 luôn luôn được thăng lên một bán âm, rõ ra phong cách âm nhạc dân ca Nam Bộ.
Năm 1975, tôi xa xứ Bạc Liêu. Năm 1999, tôi và nhạc sĩ Nguyễn Đức Trung được mời về Bạc Liêu biểu diễn. Trước khi đêm nhạc chủ đề của tôi và nhạc sĩ Nguyễn Đức Trung diễn ra tại rạp Cao Văn Lầu, Tỉnh ủy và UBND tỉnh có một buổi gặp mặt với các nhạc sĩ, ca sĩ. Trong buổi gặp mặt, ông Nguyễn Văn Út - Bí thư Tỉnh ủy, nói với tôi: “Tỉnh mình có Dạ cổ hoài lang là cái vốn quý của âm nhạc dân tộc. Ông nghiên cứu giúp làm sao phục dựng và phát triển giá trị của Dạ cổ hoài lang”. Tôi đồng ý với ông bí thư tỉnh ủy.
|
Tôi chỉ gặp bác Cao Văn Lầu một lần, được nghe ông ca một lần. Tuy vậy, lần gặp gỡ duy nhất ấy để lại nhiều ấn tượng đẹp trong tôi. Tôi hiểu một tác phẩm âm nhạc có giá trị nghệ thuật tiêu biểu cho dòng nhạc phương Nam, thể hiện sâu sắc tính nhân văn thì mới được người đi sau phát triển thành bài ca vọng cổ “phủ sóng” khắp cả nước.
Về bản chất, Dạ cổ hoài lang là một bài ca, một ca khúc (chanson). Mà hễ là một ca khúc thì nó phải có phần thanh nhạc làm giai điệu (mélodie) và phần ca từ (parole) diễn đạt nội dung. Làm thế nào để có một Dạ cổ hoài lang đúng nghĩa là ca khúc?
Để ký âm lại bài Dạ cổ hoài lang, năm 1999, tôi đề nghị thạc sĩ Vưu Long Vỹ - Phó giám đốc Trung tâm văn hóa tỉnh Bạc Liêu - ca cho tôi ghi âm vào băng cassette bài này. Ông Vưu Long Vỹ đã ca mộc (không dùng tới dàn nhạc) nhưng vẫn bảo đảm tiết tấu. Sau đó, tôi thu thêm tiếng ca mộc của năm nghệ nhân ở Bạc Liêu.
Tính dị bản quá lớn
Tôi qua bảo tàng tỉnh xin được xem bài ca chép tay của bác Cao Văn Lầu. Tôi thấy bác ghi như thế này:
Từ, từ phu tướng.
Hò là hò xang cống.
|
Múa Dạ Cổ Hoài Lang tại lễ hội 90 năm Dạ Cổ Hoài Lang
(Bạc Liêu, 2009) Ảnh Huy Thái |
Từ, từ phu tướng có bốn tên nốt - gọi là chữ đờn, đi theo phía dưới, tưởng không có chi phải bàn cãi nữa. Thế nhưng trong cách ca, người ca bắt buộc phải luyến giọng từ chữ phu sang chữ tướng. Nói theo thanh nhạc Tây phương thì phải luyến từ quãng 4 sang quãng 6. Cái nốt luyến được “hiểu ngầm” ấy phải là quãng 5. Nghĩa là người đờn cổ nhạc phải có thêm một chữ đờn khác lót vào giữa thì người ca mới luyến được.
Điểm thứ hai là ngay trong bốn chữ đờn, bác Sáu Lầu lại dùng một từ (Là) thay cho chữ đờn. Như vậy muốn diễn tả từ Là đó thì cả thầy đờn và người ca phải ca thêm một chữ đờn nữa. Vậy chữ ấy tương ứng với cao độ của nốt nào? Tôi thật sự hơi lo khi thấy trong những văn bản chép tay của bác Sáu Lầu có những chữ bị xóa, ca từ của bản này có một vài từ khác so với bản kia.
Ngay trong nội dung ca của ông Vưu Long Vỹ và năm nghệ nhân ở Bạc Liêu thì ca từ của sáu người cũng khác nhau. Về thanh nhạc, sự khác biệt lại càng cao hơn. Như đã trình bày, nếu ký âm Dạ cổ hoài lang ra thanh nhạc Tây phương cung Mi mineur, thì ông Vưu Long Vỹ ca câu đầu tiên:
Từ là từ phu (luyến) tướng.
Mi Si Mi La-Si Do#.
Năm nghệ nhân còn lại ca:
Mi Mi Mi La-Si Do#.
Cao độ nốt thứ nhì Si (quãng 4) của ông Vỹ ca và cao độ nốt thứ nhì Mi (chủ âm, quãng 1) của năm giọng ca còn lại cách nhau một trời một vực, trong đó thanh nhạc của câu ông Vỹ ca đẹp hơn.
Tôi hiểu Dạ cổ hoài lang nguyên gốc là một bài ca chính quy; sau khi ra đời, đã được các nghệ sĩ cổ nhạc và đàn ca tài tử rất ưa chuộng. Người học trò học thì chân phương - ngay ngắn như quy tắc của thầy dạy nhưng biểu diễn thì hoa lá - có sự thêm thắt, sự sáng tạo riêng tùy theo cảm hứng. Chính vì vậy, Dạ cổ hoài lang từ tác phẩm âm nhạc chính quy đã nhanh chóng trở thành tác phẩm âm nhạc dân gian, mang theo tính dị bản rộng rãi.Sau khi nghe sáu bản ca, đối chiếu với những bản ca khác của các nghệ sĩ cải lương đã được thu thanh, tôi ký âm lại Dạ cổ hoài lang theo solfège của thanh nhạc Tây phương. Tôi chọn chủ âm là cung Mi mineur, tương đương với cao độ giọng đào hát bài vọng cổ, nhịp của bản nhạc là 2/4. Tôi thăng quãng 6 lên một bán âm, tất cả nốt Do đều thăng lên thành Do dièse (Do#). Đầu bản nhạc, tôi đề: “
Dạ cổ hoài lang. Sáng tác: Cao Văn Lầu. Ký âm lại: Vũ Đức Sao Biển”.
Bản nhạc ký âm xong, tôi đưa cho ca sĩ Hương Lan hát với hòa âm của nhạc sĩ Đức Trí; ca sĩ Hạnh Nguyên hát với hòa âm của nhạc sĩ Quốc Dũng. Hai nhạc sĩ hòa âm rất hay, sử dụng nhạc cụ định âm của Tây phương nhưng nhạc nền nghe ra vẫn rất... cổ nhạc Nam Bộ. Cả hai ca sĩ hát đều tốt, thu thanh cũng tốt mà ra biểu diễn ở Hà Nội cũng được người yêu nhạc khen ngợi.
Những tranh biện về "Dạ cổ hoài lang"
Năm 2009, ngành văn hóa tỉnh Bạc Liêu tổ chức hội thảo về bài Dạ cổ hoài lang tại trường Nghệ thuật sân khấu TP.HCM. Trong hội thảo này, giáo sư Trần Văn Khê phát biểu nên “chuẩn hóa” lại ngôn ngữ trong ca từ bài Dạ cổ hoài lang giúp người xưa. Ông ví dụ khái niệm “báu kiếm” mà người ta hay ca. Ông lý luận cách dùng từ ngữ như vậy là nửa Hán nửa Nôm, không đúng với quy chuẩn ngôn ngữ Việt Nam. Nếu thuần Việt thì nó là “kiếm báu”; nếu Hán Việt thì nó là “bảo kiếm”. Hoặc ta ca theo thuần Việt “Kiếm báu sắc...”; hoặc ta ca theo từ Hán Việt “Bảo kiếm sắc...”...
Trong phần tham luận của tôi, tôi mong phục hiện Dạ cổ hoài lang về cả ca từ và thanh nhạc. Bởi lẽ một khi đã nói đến bài ca, bản nhạc (chanson) thì phải có nhạc chuẩn; yêu cầu người ca, người biểu diễn phải ca (hát) đúng cao độ, trường độ, cường độ. Người ca hát có “hoa lá” đến đâu thì cũng chỉ được phép hoa lá trong quy ước của âm nhạc. Tôi đưa thí dụ một nữ ca sĩ tân nhạc hát bài do tôi ký âm lại thu đĩa. Trong câu “
Em luống trông tin chàng”, tôi ký âm chữ chàng với nốt Si. Nhạc sĩ hòa âm nhạc nền cũng chuyển qua ngũ trình át âm cung Si bicarre thứ. Ấy vậy mà chị vẫn hát chữ chàng với nốt Là - tứ trình át âm, nghe chẳng ra làm sao cả.
Mong ngành văn hóa Bạc Liêu chính thức có được một bài ca Dạ cổ hoài lang, công bố nó như một giá trị văn hóa phi vật thể quý giá của tỉnh mà chỉ Bạc Liêu mới có được
|
Năm 2010, một buổi hội thảo về Dạ cổ hoài lang diễn ra tại Văn phòng 2 Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch. Bên nhạc sĩ tân nhạc cũng chỉ có mình tôi. Tôi vẫn bảo lưu ý kiến phải chuẩn hóa Dạ cổ hoài lang về thanh nhạc lẫn ca từ. Tôi nghĩ xa hơn, mong ngành văn hóa Bạc Liêu chính thức có được một bài ca Dạ cổ hoài lang, công bố nó như một giá trị văn hóa phi vật thể quý giá của tỉnh mà chỉ Bạc Liêu mới có được. Có ý kiến phản biện của một soạn giả viết bài vọng cổ, cho rằng việc ký âm Dạ cổ hoài lang của tôi qua solfège Tây phương sợ làm mất tính dân tộc của bài ca. Tôi đã trình bày với hội thảo rằng các nhạc sĩ tân nhạc đã ký âm cả ngàn bài dân ca, bài ca cổ cho các nghệ sĩ, ca sĩ biểu diễn. Chẳng bài nào mất tính dân tộc cả. Trong tình hình sân khấu cải lương và bài ca vọng cổ ít được bạn trẻ quan tâm thưởng thức thì việc cố gắng gìn giữ, bảo tồn và phát triển Dạ cổ hoài lang là cần thiết.