Giữa đàn ông với ngôi nhà, và đàn bà với chiếc xe có nhiều sự giống nhau kì lạ. Nhân một gợi ý trên face một người bạn, ngẫm thêm và ghi lại mọi người coi có đúng ko nhé. Ai có thêm ý gì, mời bổ sung.
1. Nhà để vào nằm nghỉ. Xe để trèo lên lái.
2. Nhà thì im lặng. Xe thì ồn ào, dù là xe điện.
3. Nhà [có thể] có chuông, nhưng chủ thường ko bao giờ bấm. Xe luôn có còi, và chủ bấm ngay khi thấy có người trước mặt.
4. Nhà, thường chỉ một cổng, nhưng rộng đủ cho nhiều người cùng vào. Xe, có ít nhất hai cửa, nhưng mỗi lúc mỗi cửa chỉ một người vào.
5. Nhà, một lúc vài bà vào nấu ăn ko sao. Xe, mỗi thời điểm chỉ được một người lái; hai người lái lập tức thành bi kịch.
6. Nhà, làm một lần ở cả đời - ít ra là kì vọng thế. Xe, mua xong là muốn đổi, nếu có điều kiện.
7. Nhà dù cũ, ít mất giá, thậm chí, tăng. Xe chỉ cần ra khỏi salon, lập tức mất giá.
photo in the net
27/7/20
25/7/20
Lịch sử Tâm lí học
Nhập Môn Lịch Sử Tâm Lý Học
Tác giả: B-R-Hergenhahn
Nhà xuất bản Thống Kê
Giọng đọc: Hướng Dương
https://phatphapungdung.com/sach-noi/nhap-mon-lich-su-tam-li-hoc-b-r-hergenhahn-179605.html
13/7/20
Man with a harmonica
Hôm trước nghe bản nhạc phim The Good, The Bad and The ugly của Ennio Morricone. Hôm nay nghe thêm một bài, cũng là một bản nhạc phim cao bồi (Once Upon a Time in the West - 1968)
12/7/20
TỪ HÁN VIỆT GỐC NHẬT TRONG TIẾNG VIỆT
TIẾP NHẬN VĂN HOÁ PHƯƠNG TÂY QUA NGÔN NGỮ BẮC Á
Trần Đình Sử
1. Tiếng Việt có một vốn từ Hán Việt rất lớn. Tuy chưa có con số thống kê thật xác định, song các nhà ngôn ngữ học ước lượng số từ đó chiếm khoảng 60-80% từ vựng tiếng Việt, theo con số ngày nay thì chỉ 35, 15%. Trong số từ Hán Việt tiếp thu từ nhiều thời điểm, nhiều nguồn, có một loạt từ Hán Việt, tuy tiếp thu chủ yếu qua con đường sách báo Trung Quốc, nhưng lại có nguồn gốc Nhật Bản. Chính người Trung Quốc cũng xem chúng là từ ngoại lai gốc Nhật của Hán ngữ.
Từ Hán Việt gốc Nhật đánh dấu một bước phát triển mới của từ Hán Việt, xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX nhằm tiếp nhận các từ ngữ, thuật ngữ triết học, tư tưởng, khoa học xã hội và khoa học tự nhiên của phương Tây, những lĩnh vực mà văn hoá Đông Á vốn thiếu. Muốn tiếp nhận văn hoá phương Tây thì khâu đầu tiên là phải dịch, dịch thế nào là một khâu không đơn giản. Nó đòi hỏi một ý thức khoa học và tinh thần sáng tạo. Người Nhật tiếp nhận đầu tiên, sau đến người Hoa rồi đến người Việt. Người đi sau thừa hưởng thành quả người đi trước, và thế là chúng ta có từ Hán Việt gốc Nhật. Đó là những từ nào, số lượng bao nhiêu, có đặc điểm gì, đến nay vẫn chưa có tài liệu đề cập đầy đủ. Trong bài viết này, chúng tôi sơ bộ cung cấp vốn từ đó và nêu lên một vài nhận xét bước đầu.
2. Người Trung Quốc trong quá trình tiếp xúc với phương Tây đã có những cuốn từ điển do các cha cố đạo Kitô soạn để dịch các từ ngữ phương Tây ra tiếng Hán, ví như tự điển Anh Hoa năm 1815, tuy nhiên, phải đến thời kì cận đại do nhu cầu học tập văn minh phương Tây thì hoạt động dịch thuật mới gia tăng khác thường. Trong lĩnh vực này người Nhật là một bậc tiên phong. Theo tài liệu của Kế Thu Phong và Chu Khánh Bảo trong sách Lịch sử cận đại Trung Quốc, quyển 1 cho biết thì lưu học sinh Trung Quốc ở Nhật đến năm 1906 đã có 13.000 người. Sách và bài báo dịch từ Nhật sang tiếng Trung trong khoảng 1902 – 1904 có 573 đơn vị chiếm 62, 2% trong tổng số tài liệu dịch nước ngoài thời gian ấy, dịch từ Anh chỉ 10, 7%, dịch từ Mĩ chỉ 6, 1%. Một ví dụ đó cũng có thể suy ra ảnh hưởng của Nhật đối với Trung Quốc cận đại to lớn biết chừng nào. Tình hình đó làm cho từ ngữ hiện đại trong tiếng Nhật được tiếp thu hàng loạt. Theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho biết, các từ ngữ, thuật ngữ khoa học xã hội và nhân văn Trung Quốc hiện đại có tới 70% nhập từ tiếng Nhật (Xem Vương Bân Bân: Mối quan hệ giữa từ vựng Trung Quốc cận đại với Nhật Bản). Tác giả Vương Bân Bân nói: “Ngày nay hàng loạt khái niệm mà người Trung Quốc dùng để cao đàm khoát luận, bàn đông nói tây, phần lớn là từ ngữ do người Nhật làm ra cả.” Lúc đầu người Trung Quốc, qua Nghiêm Phục, thường dịch theo lối phiên âm theo kiểu Lư Thoa, Mạnh đức tư cưu, Nã Phá Luân. Ví dụ, rhetorique thì dịch là “lôi thoả loại khắc”, romantism thì dịch là “la mạn thế khắc”, inspiration dịch là “yên sĩ phi lí thuần”, telephone dịch là “đức luật phong”, club dịch là “câu lạc bộ”, cholera dịch là “hổ liệt la”… Một cách dịch khác là dịch nghĩa, ví dụ, individual dịch là “cá nhân độc nhất giả”, “các thù chi nhân thân”, “tư nhân”, “độc nhất nhân”, sau mới dịch là “cá nhân”; indidualism sau mới dịch là “chủ nghĩa cá nhân”; social dịch là “quần”, sociologie dịch là “quần học”, economie dịch là “lí tài”, evolution dịch là “thiên diễn”, capital dịch là “mẫu tài”, philosophie dịch là “học lí”, metaphysique dịch là “huyền học”…Vương Bân Bân nhận xét, “Cùng một từ mà người Trung Quốc dịch phần lớn đều thất bại, còn người Nhật dịch thì thành công.” Sau năm 1917 người Nhật Tá Tá Chính Nhất dịch inspiration là “linh cảm”, thế là người Trung Quốc dùng theo. Cũng vậy Trung Quốc vốn không có từ thần thoại. Người Nhật dịch myth thành “thần thoại”, năm 1903 người Trung Quốc là Tưởng Quan Vân mang về, thế là Trung Quốc có từ thần thoại từ năm ấy. Đặc biệt, đuôi “ism” người Nhật dịch thành “chủ nghĩa”, tức là lấy một “nghĩa” nào đấy làm chủ, thế là tạo thuận lợi lớn cho chúng ta ngày nay dịch các từ tương tự. Cái khó ở đây là không phải phiên âm, không phải giải thích, mà là chuyển từ từ tiếng Tây sang một từ mới trong tiếng Nhật. Người Nhật có sáng kiến dùng yếu tố Hán để cấu tạo từ mới. Do dùng yếu tố Hán cho nên người Hán dùng được mà người Việt cũng dùng được. Đồng thời họ cũng thể hiện những nguyên tắc để người ta có thể dựa theo đó mà cấu tạo nhưng từ mới khác.
Dựa vào Từ điển từ ngoại lai tiếng Hán do các tác giả Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn từ năm 1958, hoàn thành năm 1978, xuất bản năm 1984 tại Nxb. Từ Thư, Thượng Hải, chúng tôi xác định có trên 350 từ gốc Nhật ngày nay vẫn được sử dụng trong tiếng Việt. Chúng tôi sơ bộ phân loại theo các lĩnh vực đời sống để thấy vị trí của chúng. Các từ sẽ được sắp xếp theo thứ tự A, B, C…
a. Các từ xã hội, chính trị, quân sự:
biên chế, biểu quyết, bình giá, bối cảnh, bồi thẩm viên, cách mạng, cán bộ, cán sự, cảnh sát, cao trào, cao xạ pháo, câu lạc bộ, chi bộ, chỉ đạo, chỉ thị, chiến tuyến, chính đảng, chính sách, chính phủ, chủ nghĩa, công dân, công nhận, công tố, cộng hòa, cộng sản chủ nghĩa, cơ quan, cơ đốc, cơ đốc giáo, cương lĩnh, dân chủ, đại bản doanh, đại biểu, đại cục, đàm phán, đảng, đặc quyền, đặc vụ, đăng kí, đề kháng, độc chiếm, độc tài, đồng tình, động cơ, động viên, đơn vị, giai cấp, giải phóng, giải quyết, giám định, giao thông, hàng không mẫu hạm, hiến binh, hiến pháp, hiệp định, hiệp hội, hiệu quả, hội đàm, kế hoạch, kháng nghị, kỉ luật, kĩ sư, kiên trì, kinh tế, lãnh thổ, lao động, lập hiến, lập trường, lý tưởng, mục đích, mục tiêu, nguyên soái, nguyên tắc, nghị quyết, nghị viện, nghĩa vụ, nhân quyền, nhân văn chủ nghĩa, nội các, phán quyết, phản bội, phản động, pháp luật, phần tử, phong kiến, phục vụ, phương châm, quan điểm, quan hệ, quân nhu, quy phạm, quốc giáo, quốc lập, quốc tế, quốc thể, quyền hạn, quyền uy, sĩ quan, tập đoàn, tập kết, tập trung, tổ chức, thành viên, thẩm phán, thẩm vấn, thế kỉ, thi công, thi hành, thị trưởng, thiếu tướng, thiếu úy, thống kê, thời sự, thủ tiêu, thủ tục, thừa nhận, thực nghiệp, thực quyền, tiền tuyến, tiến triển, tình báo, tổ chức, tôn giáo, tổng động viên, tổng lãnh sự, tư bản, tư sản, chủ nghĩa, trọng điểm, trọng tài, trung tướng, tùy viên, tư bản, tự do, tuyên chiến, tuyên truyền, tuyển cử, tư pháp, xã giao, xã hội, xã hội chủ nghĩa, xâm lược, xâm phạm, xuất phát điểm, vô sản
b. Các từ thương nghiệp, kinh tế:
bảo hiểm, bất động sản, cố định, công nghiệp, công trái, dự toán, đầu cơ, đầu tư, điện báo, điện thoại, điện tử, động sản, kim ngạch, kinh doanh, ngân hàng, nhập khẩu, nhập siêu, phân phối, quảng cáo, quốc khố, tài vụ, tài phiệt, thanh toán, thị trường, thủ công nghiệp, thương nghiệp, tiêu phí, tín dụng, tối huệ quốc, xuất khẩu, xuất siêu
c. Các từ triết học
tâm lý học, ám thị, ấn tượng, bản chất, bi quan, biện chứng pháp, biểu tượng, cảm tính, chất lượng, chủ động, chủ quan, chủ thể, cơ chất, cụ thể, dị vật, diễn dịch, đạo đức, định nghĩa, đơn thuần, giả định, gián tiếp, giản đơn, giao tế, hiện thực, hiện tượng, hình nhi thượng, hoàn cảnh, hư vô chủ nghĩa, khách quan, khách thể, khái niệm, khái quát, khẳng định, khí chất, không gian, kí hiệu, kinh nghiệm, lí luận, lí tính, lí trí, luận chiến, mệnh đề, năng động, năng lực, nội dung, nội tại, ngẫu nhiên, ngoại tại, nguyên động lực, nguyên lý, nguyên tắc, nguyên tố, phạm trù, pháp tắc, phân giải, phân tích, phủ định, phủ nhận, phương thức, quá độ, quan niệm, quy nạp, tự nhiên, tất nhiên, tất yếu, thẩm mĩ, thế giới quan, thoái hóa, thời gian, tích cực, tiền đề, tiến hóa, tiến hóa luận, tiêu cực, tín hiệu, tinh thần, tính năng, tổng hợp, tuyệt đối, tư tưởng, tự hào, tương đối, tưởng tượng, triết học, trực giác, trực quan, trực tiếp, trừu tượng, vật chất, xí nghiệp, ý thức, yếu tố
d. Các từ khoa học, giáo dục:
âm cực, bác sĩ, bạch kim, bán kính, bão hòa, bức xạ, chân không, chỉ số, cơ giới, di truyền, diễn tập, dinh dưỡng, dương cực, địa chất, địa chất học, điện khí, động lực học, động mạch, đức dục, giả định, giải phẫu, giáo dục học, giáo khoa thư, hệ thống, hóa học, hóa thạch, học hội, học vị, huyết sắc tố, khoa học, khoa mục, khóa trình, khuếch tán, kích thích, kim cương, kiến tập, lí luận, loại hình, luân lý học, luận lý học, lũy tiến, lực học, lượng tử, mẫn cảm, nghiệp vụ, nguyên tử, ngữ nguyên học, nhân cách, ôn độ, phản ứng, phản xạ, phát minh, phê bình, phóng xạ, phương án, phương trình, quan trắc, quang tuyến, sinh lý học, số học, tâm lý học, tế bào, thám hiểm, thành phần, hăng hoa, thần kinh, thần kinh giao cảm, thể dục, thể thao, thôi miên, thường thức, tỉ trọng, tiêu bản, tiêu hóa, tĩnh mạch, tổ hợp, tốc độ, truyền nhiễm, trường hợp, vận động, vật lí, vệ sinh, xã hội, xã hội học, y học, ý nghĩa.
e. Các từ về văn hóa nghệ thuật:
bi kịch, ca kịch, cải biên, chế bản, chủ bút, diễn tấu, diễn thuyết, diễn xuất, đạo cụ, đăng tải, đồ án, giao hưởng, hội thoại, kí giả, kí lục, kị sĩ, kịch trường, kiến trúc, mạn đàm, mĩ cảm, mĩ hóa, mĩ thuật, mĩ học, nghệ thuật, nguyên tác, quảng trường, sáng tác, tác giả, tác phẩm, tạp chí, tân văn, tu từ học, tham quan, thần thoại, tọa đàm, tốc kí, triển lãm, tư liệu, văn hóa, văn học, văn học khái luận, văn học sử, văn minh, vũ đài, xuất bản.
Các từ ngữ trên đã cho chúng ta tiếp xúc với hệ thống tri thức nhiều mặt của thế giới phương Tây. Nếu thiếu chúng thì không thể tưởng tượng làm thế nào để chúng ta chiếm lĩnh được các tri thức ấy và làm thế nào để hội nhập với thế giới hiện đại.
Qua, các bảng trên đây có thể thấy rõ các từ ngữ về xã hội, chính trị, khoa học, triết học, giáo dục chiếm một số lượng rất lớn, đánh dấu sự trưởng thành của ý thức xã hội về các mặt ấy. Để thấy sự tiếp nhận này chúng ta có thể so sánh với Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của thì sẽ thấy nhiều từ trên đây không có mặt, hoặc nếu có thì dùng theo nghĩa cổ xưa. Ví dụ không có các từ như mĩ thuật, mĩ học, nghệ thuật, triết học, văn hoá, văn minh, kinh tế. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh đã có nhiều từ vựng hơn, song về nghĩa cũng còn rất nhiều chữ giải thích theo nghĩa cũ. Tuy nhiên chúng tôi xin phép chưa đi sâu vào phương diện này.
3. Số từ Hán Việt gốc Nhật trên đây được tiếp nhận từ từ Hán gốc Nhật trong một thời gian dài. Có những từ tiếp nhận từ đầu thế kỷ như cách mạng, thực nghiệp, tự do, tiến hóa… Các từ giai cấp, lập trường, vô sản… tiếp nhận từ những năm hai mươi, các từ khoa học, giáo dục thì muộn hơn. Có từ như chế bản, kí hiệu học thì chắc là du nhập gần đây.
4. Không phải mọi từ Hán gốc Nhật đều được người Việt vay mượn để chuyển thành từ Hán Việt gốc Nhật. Ví dụ, từ Hán gốc Nhật nhân lực xa, do tiếng Việt có từ xe tay, xe kéo cho nên không vay mượn nữa. Từ Hán gốc Nhật có bi kịch, hỉ kịch, lãnh thổ, lãnh không, lãnh hải… nhưng tiếng Việt chỉ vay mượn bộ phận và sáng tạo thêm theo cách của mình. Ví dụ, người Việt chỉ mượn từ bi kịch, còn hỉ kịch thì gọi là hài kịch, thích hợp hơn là hỉ kịch, vì hài kịch không đơn giản là kịch vui. Người Việt chỉ dùng từ lãnh thổ, còn lãnh hải, lãnh không thì trước đây gọi là hải phận, không phận, nay gọi là vùng biển, vùng trời. Số lượng từ Hán gốc Nhật không được sử dụng còn khá nhiều. Ví dụ tiếng Việt nói thất tình (không dùng thất luyến), sản xuất (không dùng sinh sản; sinh sản mang nghĩa khác), nhân viên (không nói sự vụ viên, thư viện (không dùng đồ thư quán), v.v. chứng tỏ tiếng Việt có cách lựa chọn riêng.
5. Các từ Hán Việt gốc Nhật có hai loại chủ yếu sau:
a. Một loại gồm các từ do người Nhật sử dụng yếu tố Hán để tạo ra từ của mình nhằm phiên dịch, diễn đạt các khái niệm mới về khoa học, giáo dục, chính trị, xã hội như các từ chính đảng, giai cấp, tuyên truyền, công dân, dân chủ, xã hội chủ nghĩa, hư vô chủ nghĩa, tế bào, chân không… Loại này đều mang một hàm nghĩa hiện đại xác định, không gây nhầm lẫn, hiểu lầm nào.
b. Loại thứ hai gồm các từ người Nhật vay mượn từ của Trung Quốc từ nguồn thư tịch cổ rồi phú cho nó một ý nghĩa mới như văn minh, văn hóa, cách mạng, văn học, tưởng tượng, tinh thần, pháp luật, phân tích, phân phối, phép tắc… Những từ này đối với người Trung Quốc, cũng như đối với người Việt Nam, chúng vừa quen lại vừa lạ, và do đó nhiều khi không nhận ra cái nghĩa ngoại nhập mới mẻ của nó.
Ví dụ hai chữ cách mạng, trong Kinh Dịch có câu: “Thiên địa cách nhi tứ thời thành, Thang Vũ cách mạng, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân – Trời đất đổi thay mà thành bốn mùa, Thang Vũ đổi thay mệnh thuận theo trời mà ứng theo người”. Nhưng cách mạng trong ý nghĩa hiện đại hoàn toàn khác: đó là một cuộc đổi thay lớn, trọng đại trong công cuộc cải tạo xã hội và thiên nhiên, một cuộc nhảy vọt từ chất cũ sang chất mới, chứ không phải đổi thay thông thường, như mùa này thay mùa kia. Đây là từ người Nhật dùng để dịch ý từ tiếng Anh revolution.
Lại ví dụ từ văn hóa trong tiếng Hán cổ chỉ “văn tự, giáo hóa”. Người Nhật dùng từ này để dịch ý từ tiếng Anh culture tức là chỉ toàn bộ các giá trị tinh thần và vật chất mà con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của mình. Ông Đặng Thai Mai đã nói về cảm nhận quen mà lạ đối với từ này như sau: “Danh từ “văn hóa” chúng ta đã mượn ở tiếng Tàu – người Tàu lấy hai chữ này ở sách cổ – bộ Kinh Dịch để phô diễn một khái niệm mới của khoa học hiện đại… Vậy muốn có ý niệm xác đáng, ta phải công nhận cho chữ “văn hóa” hiện thời một nghĩa mới, nguồn gốc tự Tây phương”(1). Ông không nghĩ rằng đây là một từ dịch từ tiếng Tây.
Từ văn học lại càng thú vị. Đây là từ người Nhật dùng để dịch từ tiếng Anh literature, với hàm nghĩa là chỉ các tác phẩm dùng ngôn ngữ, văn tự làm công cụ để biểu hiện một cách hình tượng đời sống con người, bao gồm thơ ca, tiểu thuyết, tản văn, kịch, kí. Trong Luận ngữ có câu: “Văn học, Tử Du Tử Hạ” thì văn học được dùng với nghĩa là học vấn uyên bác, biết nhiều về văn hiến, không dính dáng gì với ý nghĩa hiện đại. Theo một số tài liệu khảo chứng cho biết, năm Minh Trị thứ 16, tức năm 1883 Trung Giang Triệu Dân dịch cuốn Duy thị mĩ học, lần đầu tiên đem từ esthetique dịch thành mĩ học, năm 1884, dịch từ rhetorique thành tu từ học, năm 1886 lại dịch từ literature thành văn học. Lương Khải Siêu từng ở Nhật, hấp thu từ văn học của Nhật, cho nên trong trước tác của ông hai chữ văn học khi thì chỉ học vấn, khi thì chỉ văn học bao gồm tiểu thuyết và kịch, một ý nghĩa mà người Trung Quốc xưa không bao giờ nghĩ đến. Nhà nghiên cứu Nhật Tá Đằng Nhất Lang cho rằng đó là do ảnh hưởng của Nhật (2).
Ở Việt Nam có lẽ ông Võ Liêm Sơn là người sớm nhất nhận ra cái nghĩa mới của từ đó. Năm 1927, ông viết: “Danh từ văn học bây giờ người Tàu, người Nhật chỉ dùng theo nghĩa mới, nghĩa hẹp, cũng như hai chữ mỹ văn (belles lettres), nhưng là thứ văn có tình cảm, mĩ cảm, thuộc về phạm vi nghệ thuật chứ không gồm cả bao nhiêu văn tự kĩ thuật khác, nó thuộc về phạm vi khoa học” (3) và các tác giả đương thời sử dụng hai chữ này theo nghĩa mới một cách tự nhiên. Ví dụ Phạm Quỳnh viết Văn học nước Pháp (1921). Phan Khôi viết Tục ngữ, phong dao và địa vị của nó trong văn học (1939). Nguyễn Thị Kiêm viết Nữ lưu với văn học (1932). Các tập văn học sử của các tác giả đương thời như Nguyễn Đổng Chi, Dương Quảng Hàm… đều dùng hai từ văn học. Ông Đặng Thai Mai cũng viết: “Dưới ảnh hưởng của tư triều Âu, Mĩ, hai chữ văn học ngày nay đã bao hàm một ý nghĩa khác hẳn nghĩa đen ngày xưa của nó”(4).
Loại từ thứ hai này chỉ là một lối vay mượn từ có sẵn từ xưa để dịch nghĩa một từ mới của các nước, đó là một ước lệ, thiết nghĩ nên hiểu theo nghĩa mới đó trong dòng chảy của từ vựng.
Từ Hán Việt gốc Nhật là một phạm vi từ rất đặc biệt. Nó phản ánh các mối quan hệ văn hóa đặc thù của các nước châu Á trong tư triều Âu Mĩ hiện đại. Nhật chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và đã tác động trở lại tiếng Hán. Người Việt qua sách vở Trung Quốc mà tiếp thu từ mới của Nhật và qua đó mà tiếp thu văn hóa phương Tây.
Việc xác lập các từ có nguồn gốc Nhật sẽ góp phần để xác lập các từ Hán Việt gốc Việt, do người Việt sáng tạo ra. Nhưng đó sẽ là một vấn đề khác.
CHÚ THÍCH
(1). Đặng Thai Mai, Nguyễn Hữu Đang: Định nghĩa hai chữ văn hóa / Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam (1900-1945), T.5, H. Văn học, 1997, tr.327.
(2). Tá Đằng Nhất Lang: Trung Quốc văn chương luận, Thượng Hải cổ tịch, 1996, tr.250.
(3). Võ Liêm Sơn, Văn học và xã hội/ Thơ văn Võ Liêm Sơn, Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh, Vinh, 1993, tr.135.
(4). Văn học khái luận, 1944/ Tuyển tập phê bình nghiên cứu văn học 1900-1945, T.5, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1997, tr.288.
5. Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn, Hán ngữ ngoại lai từ từ điển, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 1984, 423 tr.
(Đã đăng Tạp chí Hán Nôm, số 2 năm 1999.)
Trần Đình Sử
1. Tiếng Việt có một vốn từ Hán Việt rất lớn. Tuy chưa có con số thống kê thật xác định, song các nhà ngôn ngữ học ước lượng số từ đó chiếm khoảng 60-80% từ vựng tiếng Việt, theo con số ngày nay thì chỉ 35, 15%. Trong số từ Hán Việt tiếp thu từ nhiều thời điểm, nhiều nguồn, có một loạt từ Hán Việt, tuy tiếp thu chủ yếu qua con đường sách báo Trung Quốc, nhưng lại có nguồn gốc Nhật Bản. Chính người Trung Quốc cũng xem chúng là từ ngoại lai gốc Nhật của Hán ngữ.
Từ Hán Việt gốc Nhật đánh dấu một bước phát triển mới của từ Hán Việt, xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX nhằm tiếp nhận các từ ngữ, thuật ngữ triết học, tư tưởng, khoa học xã hội và khoa học tự nhiên của phương Tây, những lĩnh vực mà văn hoá Đông Á vốn thiếu. Muốn tiếp nhận văn hoá phương Tây thì khâu đầu tiên là phải dịch, dịch thế nào là một khâu không đơn giản. Nó đòi hỏi một ý thức khoa học và tinh thần sáng tạo. Người Nhật tiếp nhận đầu tiên, sau đến người Hoa rồi đến người Việt. Người đi sau thừa hưởng thành quả người đi trước, và thế là chúng ta có từ Hán Việt gốc Nhật. Đó là những từ nào, số lượng bao nhiêu, có đặc điểm gì, đến nay vẫn chưa có tài liệu đề cập đầy đủ. Trong bài viết này, chúng tôi sơ bộ cung cấp vốn từ đó và nêu lên một vài nhận xét bước đầu.
2. Người Trung Quốc trong quá trình tiếp xúc với phương Tây đã có những cuốn từ điển do các cha cố đạo Kitô soạn để dịch các từ ngữ phương Tây ra tiếng Hán, ví như tự điển Anh Hoa năm 1815, tuy nhiên, phải đến thời kì cận đại do nhu cầu học tập văn minh phương Tây thì hoạt động dịch thuật mới gia tăng khác thường. Trong lĩnh vực này người Nhật là một bậc tiên phong. Theo tài liệu của Kế Thu Phong và Chu Khánh Bảo trong sách Lịch sử cận đại Trung Quốc, quyển 1 cho biết thì lưu học sinh Trung Quốc ở Nhật đến năm 1906 đã có 13.000 người. Sách và bài báo dịch từ Nhật sang tiếng Trung trong khoảng 1902 – 1904 có 573 đơn vị chiếm 62, 2% trong tổng số tài liệu dịch nước ngoài thời gian ấy, dịch từ Anh chỉ 10, 7%, dịch từ Mĩ chỉ 6, 1%. Một ví dụ đó cũng có thể suy ra ảnh hưởng của Nhật đối với Trung Quốc cận đại to lớn biết chừng nào. Tình hình đó làm cho từ ngữ hiện đại trong tiếng Nhật được tiếp thu hàng loạt. Theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho biết, các từ ngữ, thuật ngữ khoa học xã hội và nhân văn Trung Quốc hiện đại có tới 70% nhập từ tiếng Nhật (Xem Vương Bân Bân: Mối quan hệ giữa từ vựng Trung Quốc cận đại với Nhật Bản). Tác giả Vương Bân Bân nói: “Ngày nay hàng loạt khái niệm mà người Trung Quốc dùng để cao đàm khoát luận, bàn đông nói tây, phần lớn là từ ngữ do người Nhật làm ra cả.” Lúc đầu người Trung Quốc, qua Nghiêm Phục, thường dịch theo lối phiên âm theo kiểu Lư Thoa, Mạnh đức tư cưu, Nã Phá Luân. Ví dụ, rhetorique thì dịch là “lôi thoả loại khắc”, romantism thì dịch là “la mạn thế khắc”, inspiration dịch là “yên sĩ phi lí thuần”, telephone dịch là “đức luật phong”, club dịch là “câu lạc bộ”, cholera dịch là “hổ liệt la”… Một cách dịch khác là dịch nghĩa, ví dụ, individual dịch là “cá nhân độc nhất giả”, “các thù chi nhân thân”, “tư nhân”, “độc nhất nhân”, sau mới dịch là “cá nhân”; indidualism sau mới dịch là “chủ nghĩa cá nhân”; social dịch là “quần”, sociologie dịch là “quần học”, economie dịch là “lí tài”, evolution dịch là “thiên diễn”, capital dịch là “mẫu tài”, philosophie dịch là “học lí”, metaphysique dịch là “huyền học”…Vương Bân Bân nhận xét, “Cùng một từ mà người Trung Quốc dịch phần lớn đều thất bại, còn người Nhật dịch thì thành công.” Sau năm 1917 người Nhật Tá Tá Chính Nhất dịch inspiration là “linh cảm”, thế là người Trung Quốc dùng theo. Cũng vậy Trung Quốc vốn không có từ thần thoại. Người Nhật dịch myth thành “thần thoại”, năm 1903 người Trung Quốc là Tưởng Quan Vân mang về, thế là Trung Quốc có từ thần thoại từ năm ấy. Đặc biệt, đuôi “ism” người Nhật dịch thành “chủ nghĩa”, tức là lấy một “nghĩa” nào đấy làm chủ, thế là tạo thuận lợi lớn cho chúng ta ngày nay dịch các từ tương tự. Cái khó ở đây là không phải phiên âm, không phải giải thích, mà là chuyển từ từ tiếng Tây sang một từ mới trong tiếng Nhật. Người Nhật có sáng kiến dùng yếu tố Hán để cấu tạo từ mới. Do dùng yếu tố Hán cho nên người Hán dùng được mà người Việt cũng dùng được. Đồng thời họ cũng thể hiện những nguyên tắc để người ta có thể dựa theo đó mà cấu tạo nhưng từ mới khác.
Dựa vào Từ điển từ ngoại lai tiếng Hán do các tác giả Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn từ năm 1958, hoàn thành năm 1978, xuất bản năm 1984 tại Nxb. Từ Thư, Thượng Hải, chúng tôi xác định có trên 350 từ gốc Nhật ngày nay vẫn được sử dụng trong tiếng Việt. Chúng tôi sơ bộ phân loại theo các lĩnh vực đời sống để thấy vị trí của chúng. Các từ sẽ được sắp xếp theo thứ tự A, B, C…
a. Các từ xã hội, chính trị, quân sự:
biên chế, biểu quyết, bình giá, bối cảnh, bồi thẩm viên, cách mạng, cán bộ, cán sự, cảnh sát, cao trào, cao xạ pháo, câu lạc bộ, chi bộ, chỉ đạo, chỉ thị, chiến tuyến, chính đảng, chính sách, chính phủ, chủ nghĩa, công dân, công nhận, công tố, cộng hòa, cộng sản chủ nghĩa, cơ quan, cơ đốc, cơ đốc giáo, cương lĩnh, dân chủ, đại bản doanh, đại biểu, đại cục, đàm phán, đảng, đặc quyền, đặc vụ, đăng kí, đề kháng, độc chiếm, độc tài, đồng tình, động cơ, động viên, đơn vị, giai cấp, giải phóng, giải quyết, giám định, giao thông, hàng không mẫu hạm, hiến binh, hiến pháp, hiệp định, hiệp hội, hiệu quả, hội đàm, kế hoạch, kháng nghị, kỉ luật, kĩ sư, kiên trì, kinh tế, lãnh thổ, lao động, lập hiến, lập trường, lý tưởng, mục đích, mục tiêu, nguyên soái, nguyên tắc, nghị quyết, nghị viện, nghĩa vụ, nhân quyền, nhân văn chủ nghĩa, nội các, phán quyết, phản bội, phản động, pháp luật, phần tử, phong kiến, phục vụ, phương châm, quan điểm, quan hệ, quân nhu, quy phạm, quốc giáo, quốc lập, quốc tế, quốc thể, quyền hạn, quyền uy, sĩ quan, tập đoàn, tập kết, tập trung, tổ chức, thành viên, thẩm phán, thẩm vấn, thế kỉ, thi công, thi hành, thị trưởng, thiếu tướng, thiếu úy, thống kê, thời sự, thủ tiêu, thủ tục, thừa nhận, thực nghiệp, thực quyền, tiền tuyến, tiến triển, tình báo, tổ chức, tôn giáo, tổng động viên, tổng lãnh sự, tư bản, tư sản, chủ nghĩa, trọng điểm, trọng tài, trung tướng, tùy viên, tư bản, tự do, tuyên chiến, tuyên truyền, tuyển cử, tư pháp, xã giao, xã hội, xã hội chủ nghĩa, xâm lược, xâm phạm, xuất phát điểm, vô sản
b. Các từ thương nghiệp, kinh tế:
bảo hiểm, bất động sản, cố định, công nghiệp, công trái, dự toán, đầu cơ, đầu tư, điện báo, điện thoại, điện tử, động sản, kim ngạch, kinh doanh, ngân hàng, nhập khẩu, nhập siêu, phân phối, quảng cáo, quốc khố, tài vụ, tài phiệt, thanh toán, thị trường, thủ công nghiệp, thương nghiệp, tiêu phí, tín dụng, tối huệ quốc, xuất khẩu, xuất siêu
c. Các từ triết học
tâm lý học, ám thị, ấn tượng, bản chất, bi quan, biện chứng pháp, biểu tượng, cảm tính, chất lượng, chủ động, chủ quan, chủ thể, cơ chất, cụ thể, dị vật, diễn dịch, đạo đức, định nghĩa, đơn thuần, giả định, gián tiếp, giản đơn, giao tế, hiện thực, hiện tượng, hình nhi thượng, hoàn cảnh, hư vô chủ nghĩa, khách quan, khách thể, khái niệm, khái quát, khẳng định, khí chất, không gian, kí hiệu, kinh nghiệm, lí luận, lí tính, lí trí, luận chiến, mệnh đề, năng động, năng lực, nội dung, nội tại, ngẫu nhiên, ngoại tại, nguyên động lực, nguyên lý, nguyên tắc, nguyên tố, phạm trù, pháp tắc, phân giải, phân tích, phủ định, phủ nhận, phương thức, quá độ, quan niệm, quy nạp, tự nhiên, tất nhiên, tất yếu, thẩm mĩ, thế giới quan, thoái hóa, thời gian, tích cực, tiền đề, tiến hóa, tiến hóa luận, tiêu cực, tín hiệu, tinh thần, tính năng, tổng hợp, tuyệt đối, tư tưởng, tự hào, tương đối, tưởng tượng, triết học, trực giác, trực quan, trực tiếp, trừu tượng, vật chất, xí nghiệp, ý thức, yếu tố
d. Các từ khoa học, giáo dục:
âm cực, bác sĩ, bạch kim, bán kính, bão hòa, bức xạ, chân không, chỉ số, cơ giới, di truyền, diễn tập, dinh dưỡng, dương cực, địa chất, địa chất học, điện khí, động lực học, động mạch, đức dục, giả định, giải phẫu, giáo dục học, giáo khoa thư, hệ thống, hóa học, hóa thạch, học hội, học vị, huyết sắc tố, khoa học, khoa mục, khóa trình, khuếch tán, kích thích, kim cương, kiến tập, lí luận, loại hình, luân lý học, luận lý học, lũy tiến, lực học, lượng tử, mẫn cảm, nghiệp vụ, nguyên tử, ngữ nguyên học, nhân cách, ôn độ, phản ứng, phản xạ, phát minh, phê bình, phóng xạ, phương án, phương trình, quan trắc, quang tuyến, sinh lý học, số học, tâm lý học, tế bào, thám hiểm, thành phần, hăng hoa, thần kinh, thần kinh giao cảm, thể dục, thể thao, thôi miên, thường thức, tỉ trọng, tiêu bản, tiêu hóa, tĩnh mạch, tổ hợp, tốc độ, truyền nhiễm, trường hợp, vận động, vật lí, vệ sinh, xã hội, xã hội học, y học, ý nghĩa.
e. Các từ về văn hóa nghệ thuật:
bi kịch, ca kịch, cải biên, chế bản, chủ bút, diễn tấu, diễn thuyết, diễn xuất, đạo cụ, đăng tải, đồ án, giao hưởng, hội thoại, kí giả, kí lục, kị sĩ, kịch trường, kiến trúc, mạn đàm, mĩ cảm, mĩ hóa, mĩ thuật, mĩ học, nghệ thuật, nguyên tác, quảng trường, sáng tác, tác giả, tác phẩm, tạp chí, tân văn, tu từ học, tham quan, thần thoại, tọa đàm, tốc kí, triển lãm, tư liệu, văn hóa, văn học, văn học khái luận, văn học sử, văn minh, vũ đài, xuất bản.
Các từ ngữ trên đã cho chúng ta tiếp xúc với hệ thống tri thức nhiều mặt của thế giới phương Tây. Nếu thiếu chúng thì không thể tưởng tượng làm thế nào để chúng ta chiếm lĩnh được các tri thức ấy và làm thế nào để hội nhập với thế giới hiện đại.
Qua, các bảng trên đây có thể thấy rõ các từ ngữ về xã hội, chính trị, khoa học, triết học, giáo dục chiếm một số lượng rất lớn, đánh dấu sự trưởng thành của ý thức xã hội về các mặt ấy. Để thấy sự tiếp nhận này chúng ta có thể so sánh với Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của thì sẽ thấy nhiều từ trên đây không có mặt, hoặc nếu có thì dùng theo nghĩa cổ xưa. Ví dụ không có các từ như mĩ thuật, mĩ học, nghệ thuật, triết học, văn hoá, văn minh, kinh tế. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh đã có nhiều từ vựng hơn, song về nghĩa cũng còn rất nhiều chữ giải thích theo nghĩa cũ. Tuy nhiên chúng tôi xin phép chưa đi sâu vào phương diện này.
3. Số từ Hán Việt gốc Nhật trên đây được tiếp nhận từ từ Hán gốc Nhật trong một thời gian dài. Có những từ tiếp nhận từ đầu thế kỷ như cách mạng, thực nghiệp, tự do, tiến hóa… Các từ giai cấp, lập trường, vô sản… tiếp nhận từ những năm hai mươi, các từ khoa học, giáo dục thì muộn hơn. Có từ như chế bản, kí hiệu học thì chắc là du nhập gần đây.
4. Không phải mọi từ Hán gốc Nhật đều được người Việt vay mượn để chuyển thành từ Hán Việt gốc Nhật. Ví dụ, từ Hán gốc Nhật nhân lực xa, do tiếng Việt có từ xe tay, xe kéo cho nên không vay mượn nữa. Từ Hán gốc Nhật có bi kịch, hỉ kịch, lãnh thổ, lãnh không, lãnh hải… nhưng tiếng Việt chỉ vay mượn bộ phận và sáng tạo thêm theo cách của mình. Ví dụ, người Việt chỉ mượn từ bi kịch, còn hỉ kịch thì gọi là hài kịch, thích hợp hơn là hỉ kịch, vì hài kịch không đơn giản là kịch vui. Người Việt chỉ dùng từ lãnh thổ, còn lãnh hải, lãnh không thì trước đây gọi là hải phận, không phận, nay gọi là vùng biển, vùng trời. Số lượng từ Hán gốc Nhật không được sử dụng còn khá nhiều. Ví dụ tiếng Việt nói thất tình (không dùng thất luyến), sản xuất (không dùng sinh sản; sinh sản mang nghĩa khác), nhân viên (không nói sự vụ viên, thư viện (không dùng đồ thư quán), v.v. chứng tỏ tiếng Việt có cách lựa chọn riêng.
5. Các từ Hán Việt gốc Nhật có hai loại chủ yếu sau:
a. Một loại gồm các từ do người Nhật sử dụng yếu tố Hán để tạo ra từ của mình nhằm phiên dịch, diễn đạt các khái niệm mới về khoa học, giáo dục, chính trị, xã hội như các từ chính đảng, giai cấp, tuyên truyền, công dân, dân chủ, xã hội chủ nghĩa, hư vô chủ nghĩa, tế bào, chân không… Loại này đều mang một hàm nghĩa hiện đại xác định, không gây nhầm lẫn, hiểu lầm nào.
b. Loại thứ hai gồm các từ người Nhật vay mượn từ của Trung Quốc từ nguồn thư tịch cổ rồi phú cho nó một ý nghĩa mới như văn minh, văn hóa, cách mạng, văn học, tưởng tượng, tinh thần, pháp luật, phân tích, phân phối, phép tắc… Những từ này đối với người Trung Quốc, cũng như đối với người Việt Nam, chúng vừa quen lại vừa lạ, và do đó nhiều khi không nhận ra cái nghĩa ngoại nhập mới mẻ của nó.
Ví dụ hai chữ cách mạng, trong Kinh Dịch có câu: “Thiên địa cách nhi tứ thời thành, Thang Vũ cách mạng, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân – Trời đất đổi thay mà thành bốn mùa, Thang Vũ đổi thay mệnh thuận theo trời mà ứng theo người”. Nhưng cách mạng trong ý nghĩa hiện đại hoàn toàn khác: đó là một cuộc đổi thay lớn, trọng đại trong công cuộc cải tạo xã hội và thiên nhiên, một cuộc nhảy vọt từ chất cũ sang chất mới, chứ không phải đổi thay thông thường, như mùa này thay mùa kia. Đây là từ người Nhật dùng để dịch ý từ tiếng Anh revolution.
Lại ví dụ từ văn hóa trong tiếng Hán cổ chỉ “văn tự, giáo hóa”. Người Nhật dùng từ này để dịch ý từ tiếng Anh culture tức là chỉ toàn bộ các giá trị tinh thần và vật chất mà con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của mình. Ông Đặng Thai Mai đã nói về cảm nhận quen mà lạ đối với từ này như sau: “Danh từ “văn hóa” chúng ta đã mượn ở tiếng Tàu – người Tàu lấy hai chữ này ở sách cổ – bộ Kinh Dịch để phô diễn một khái niệm mới của khoa học hiện đại… Vậy muốn có ý niệm xác đáng, ta phải công nhận cho chữ “văn hóa” hiện thời một nghĩa mới, nguồn gốc tự Tây phương”(1). Ông không nghĩ rằng đây là một từ dịch từ tiếng Tây.
Từ văn học lại càng thú vị. Đây là từ người Nhật dùng để dịch từ tiếng Anh literature, với hàm nghĩa là chỉ các tác phẩm dùng ngôn ngữ, văn tự làm công cụ để biểu hiện một cách hình tượng đời sống con người, bao gồm thơ ca, tiểu thuyết, tản văn, kịch, kí. Trong Luận ngữ có câu: “Văn học, Tử Du Tử Hạ” thì văn học được dùng với nghĩa là học vấn uyên bác, biết nhiều về văn hiến, không dính dáng gì với ý nghĩa hiện đại. Theo một số tài liệu khảo chứng cho biết, năm Minh Trị thứ 16, tức năm 1883 Trung Giang Triệu Dân dịch cuốn Duy thị mĩ học, lần đầu tiên đem từ esthetique dịch thành mĩ học, năm 1884, dịch từ rhetorique thành tu từ học, năm 1886 lại dịch từ literature thành văn học. Lương Khải Siêu từng ở Nhật, hấp thu từ văn học của Nhật, cho nên trong trước tác của ông hai chữ văn học khi thì chỉ học vấn, khi thì chỉ văn học bao gồm tiểu thuyết và kịch, một ý nghĩa mà người Trung Quốc xưa không bao giờ nghĩ đến. Nhà nghiên cứu Nhật Tá Đằng Nhất Lang cho rằng đó là do ảnh hưởng của Nhật (2).
Ở Việt Nam có lẽ ông Võ Liêm Sơn là người sớm nhất nhận ra cái nghĩa mới của từ đó. Năm 1927, ông viết: “Danh từ văn học bây giờ người Tàu, người Nhật chỉ dùng theo nghĩa mới, nghĩa hẹp, cũng như hai chữ mỹ văn (belles lettres), nhưng là thứ văn có tình cảm, mĩ cảm, thuộc về phạm vi nghệ thuật chứ không gồm cả bao nhiêu văn tự kĩ thuật khác, nó thuộc về phạm vi khoa học” (3) và các tác giả đương thời sử dụng hai chữ này theo nghĩa mới một cách tự nhiên. Ví dụ Phạm Quỳnh viết Văn học nước Pháp (1921). Phan Khôi viết Tục ngữ, phong dao và địa vị của nó trong văn học (1939). Nguyễn Thị Kiêm viết Nữ lưu với văn học (1932). Các tập văn học sử của các tác giả đương thời như Nguyễn Đổng Chi, Dương Quảng Hàm… đều dùng hai từ văn học. Ông Đặng Thai Mai cũng viết: “Dưới ảnh hưởng của tư triều Âu, Mĩ, hai chữ văn học ngày nay đã bao hàm một ý nghĩa khác hẳn nghĩa đen ngày xưa của nó”(4).
Loại từ thứ hai này chỉ là một lối vay mượn từ có sẵn từ xưa để dịch nghĩa một từ mới của các nước, đó là một ước lệ, thiết nghĩ nên hiểu theo nghĩa mới đó trong dòng chảy của từ vựng.
Từ Hán Việt gốc Nhật là một phạm vi từ rất đặc biệt. Nó phản ánh các mối quan hệ văn hóa đặc thù của các nước châu Á trong tư triều Âu Mĩ hiện đại. Nhật chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và đã tác động trở lại tiếng Hán. Người Việt qua sách vở Trung Quốc mà tiếp thu từ mới của Nhật và qua đó mà tiếp thu văn hóa phương Tây.
Việc xác lập các từ có nguồn gốc Nhật sẽ góp phần để xác lập các từ Hán Việt gốc Việt, do người Việt sáng tạo ra. Nhưng đó sẽ là một vấn đề khác.
CHÚ THÍCH
(1). Đặng Thai Mai, Nguyễn Hữu Đang: Định nghĩa hai chữ văn hóa / Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam (1900-1945), T.5, H. Văn học, 1997, tr.327.
(2). Tá Đằng Nhất Lang: Trung Quốc văn chương luận, Thượng Hải cổ tịch, 1996, tr.250.
(3). Võ Liêm Sơn, Văn học và xã hội/ Thơ văn Võ Liêm Sơn, Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh, Vinh, 1993, tr.135.
(4). Văn học khái luận, 1944/ Tuyển tập phê bình nghiên cứu văn học 1900-1945, T.5, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1997, tr.288.
5. Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn, Hán ngữ ngoại lai từ từ điển, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 1984, 423 tr.
(Đã đăng Tạp chí Hán Nôm, số 2 năm 1999.)
7/7/20
NHỮNG YẾU TỐ HOA TRONG PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
CAO TỰ THANH
Chính thức xuất hiện trên bản đồ văn hóa Việt Nam từ 1698, Nam Bộ là một vùng lịch sử văn hóa có điều kiện và kiểu thức phát triển mang những đặc điểm khác với nhiều địa phương. Sự tích tụ lâu dài và đồng hóa liên tục các yếu tố ngoại sinh khiến tiến trình văn hóa Việt Nam ở vùng này mang nhiều sắc thái riêng, trong đó phải kể tới các yếu tố Trung Hoa bắt đầu theo chân các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam du nhập vào một cách tương đối có hệ thống từ thế kỷ XVIII. Trong lĩnh vực ngôn ngữ, quá trình song ngữ văn hóa Việt Hoa ở đây đã dẫn tới một kết quả là sự hiện diện rất đáng lưu ý của các yếu tố Hoa trong phương ngữ Nam Bộ. Trên cả ba bình diện ngữ âm, từ vựng và phong cách, các yếu tố này đã đóng một vai trò không nhỏ trong việc làm hình thành diện mạo của tiếng Việt ở địa phương hiện nay.
Năm 1627, khi chúa Nguyễn Phước Nguyên dàn quân chống Trịnh trên sông Nhật Lệ thì Việt Nam chưa có Nam Bộ, mà mãi đến 1698 thiết chế văn hóa - xã hội của người Việt mới bắt đầu chính thức hình thành ở đây. Có thể nói trong thời kỳ trước 1802, tiếng Việt ở Nam Bộ phát triển chủ yếu trên cơ sở tiếng Việt ở Đàng Trong, mặc dù tiếng Việt ở Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII khác với tiếng Việt ở Đàng Ngoài thế nào thì hiện còn nhiều vấn đề chưa được nhìn nhận thống nhất. Nhưng nếu ở Bình Trị Thiên tiếng Việt chỉ có bốn thanh điệu thì từ Quảng Nam trở vào nó lại có tới năm thanh điệu, và rõ ràng phương ngữ Nam Bộ đã phát triển trong những điều kiện ngữ âm khác hơn: từ thế kỷ XVII ở Hội An đã hình thành một loại ngôn ngữ lai pha trộn cả tiếng Việt lẫn các phương ngữ Hoa Nam(1). Sử sách cũng ghi nhận rằng từ 1679 các nhóm người Hoa theo Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch đã tới cư trú ở Biên Hòa và Mỹ Tho - miền Đông và Trung Nam Bộ. Những đợt di cư của người Hoa qua Nam Bộ trong các thế kỷ sau tuy không mang tính chất chính trị nữa nhưng nhìn chung vẫn khá liên tục, ngay cả khi Nam Kỳ rồi Việt Nam đã bị rơi vào ách đô hộ của thực dân phương Tây. Các chứng cứ lịch sử ấy cho thấy ngay từ khi hình thành, phương ngữ Nam Bộ đã tiếp xúc với tiếng Hoa một cách trực tiếp, thường xuyên và toàn diện, nên việc nó tiếp nhận nhiều yếu tố Hoa cũng là điều tất yếu và tự nhiên.
Quan sát tiếng Việt ở Nam Bộ, dễ nhận thấy nó có nhiều khác biệt về ngữ âm so với cả nước, chẳng hạn hai phụ âm đầu [d,gi] bị chập làm một và biến thành bán nguyên âm [j]. Hoặc như trong phần vần thì kết cấu tiếp hợp chặt (nguyên âm chính ngắn hơn phụ âm cuối) đã hoàn toàn bị thay thế bởi tiếp hợp lỏng (nguyên âm chính dài hơn phụ âm cuối) dẫn tới sự triệt tiêu các cặp phụ âm cuối [-n,-t] và [-ch,-nh]. Tìm hiểu cặn kẽ và lý giải chi tiết quá trình này là một công việc khó khăn và phức tạp, nhưng kết quả chắc chắn có thể đoán biết chúng có liên hệ với các biến động ngữ âm ở Trung Hoa mà chủ yếu là Hoa Nam những thế kỷ trước. Người Quảng Đông ở Nam Bộ hiện nay nói dách, dì (nhất, nhị - một, hai) với phụ âm đầu [d] biến thành bán nguyên âm [j] không khác gì người Nam Bộ, và tiếng Hoa ở Nam Bộ hiện cũng ít có lối tiếp hợp chặt trong đó phụ âm cuối dài hơn nguyên âm chính. Đặc biệt, phải nói tới sự du nhập cách đọc chữ Hán theo Minh âm, Thanh âm mà kết quả là tạo ra hàng loạt biến thể trong cách đọc các từ Việt Hán như: Chính - Chánh, Đỉnh - Đảnh, Kính - Cảnh, Tính - Tánh, Vũ- Võ, Phù - Phò, Thụ - Thọ, Uy - Oai, Súy - Soái, Thụy - Thoại, Phúc - Phước, Trúc - Trước, Trọc - Trược, Trọng - Trượng... trên địa bàn từ Quảng Nam trở vào Nam mà nhiều người vẫn lầm tưởng là vì lệ kiêng húy thời phong kiến(2). Và mặc dù đại bộ phận các phụ âm đầu trong các từ Việt Hán vẫn không thay đổi, cách đọc Trung Hoa ấy vẫn để lại dấu vết của việc chuyển đổi phụ âm đầu [d] thành [m] ở Trung Quốc, chẳng hạn như trường hợp tên hiệu Mính (Đường âm đọc là Dánh, Hán tự viết với thảo đầu+danh) Viên (Vườn trà) của Huỳnh Thúc Kháng hay tên tờ báo Nông cổ mín(h) đàm.
Về mặt từ vựng, phương ngữ Nam Bộ có nhiều khác biệt so với tiếng Việt ở Trung Bắc, và các yếu tố Hoa đóng một vai trò khá quan trọng trong việc dẫn tới sự khác biệt này. Trong Gia Định thành thông chí hoàn thành năm 1821, Trịnh Hoài Đức đã ghi nhận người Nam Bộ trò chuyện hàng ngày thường dùng chen từ Hoa và từ Khmer (Kỳ nhân thổ đàm thường tạp dụng Đường ngữ Cao Man ngữ) đồng thời ghi lại một số từ Hoa như xá (vái lạy), mỳ xọa (miến)...(3). Và nếu lập một bảng thống kê chi tiết thì số từ vựng gốc Hoa du nhập theo con đường khẩu ngữ trong phương ngữ Nam Bộ có thể lên tới hàng ngàn đơn vị. Người Nam Bộ hiện không lạ gì với những từ như Bò bía (pò pía biến âm, tức Bạc bính - một món ăn làm bằng bánh tráng mỏng), Cắc (Giác - đơn vị tiền tệ, một phần mười của đồng), Ghe (Kha - một loại thuyền vận tải lớn ở vùng Giang Nam), Hên xui (Hạnh tai - may rủi), Tía (gia - cha), Tiệm (Điếm - quán bán hàng), Ké (Ký - nhờ vả), Lẩu (lô - cái lò, món canh), Xào (Sao - rang thức ăn có dầu mỡ), Sủi cảo (Thủy giảo - thịt vo viên ăn với nước), Há cảo (Hà giảo - thịt tôm vo viên), Xập xám (Thập tam - một lối chơi bài mười ba lá), Xịn (Tân - mới, tốt như mới), Xíu (Xỉu bị biến âm tứ Tiểu - nhỏ), Xỉu (Hưu - tình trạng ngất đi như đã chết), Xỉn (Trình - tình trạng bị bệnh vì rượu, say cả ngày mới tỉnh)... Nhưng trong thực tiễn sử dụng mảng từ này vẫn tuân thủ nguyên tắc ngữ pháp tiếng Việt: người Việt nói áo xịn, Ăn ké, Tiệm trà chứ không nói là Xịn áo, Ké ăn, Trà tiệm... ở đây những từ đơn như Ké, Xịn, Tiệm mang các giá trị khác với Ký, Tân Điếm trong mảng từ Việt Hán: dưới áp lực sinh ngữ Hoa Hán, chúng đã được tháo rời khỏi các tổ hợp cố định kiểu Tâm thư, Ký sinh, Tửu điếm và được sử dụng tự do như mới, nhờ, quán hàng trong tiếng Việt. Chính trên đường hướng này mà chúng đã hoàn toàn trở thành tiếng Việt, cũng được sử dụng vào việc tạo từ. Chẳng hạn trong phương ngữ Nam Bộ thì Nhỏ xíu khác hẳn với Nhỏ nhỏ, hay người Việt ở Nam Bộ nói Sao thuốc, Sao trà và Xào rau, Xào thịt với sự khác biệt ý nghĩa rất rõ ràng giữa Sao và Xào... Trong một số trường hợp đặc biệt, nhiều từ Hoa còn sống một đời sống khác hẳn với ý nghĩa và phong cách ban đầu trong khung cảnh tiếng Việt, chẳng hạn từ Mánh (Văn - đồng tiền, tiền) trong Chạy mánh do đồng âm với Mánh (lới) trong tiếng Việt nên đã mang một nội dung ít lương thiện, hay từ Nhẩm chẩu (ẩm tửu - uống rượu) có lẽ vì được nói lè nhè với giọng say rượu nên đã bị chập và biến âm thành Nhậu, đưa lại cho hành vi sinh hoạt này của người Nam Bộ một dáng cách và ý vị riêng... Sự Việt hóa một cách sáng tạo và sử dụng một cách chủ động mảng từ vựng Hoa như vậy còn đem lại cho phương ngữ Nam Bộ một nguồn lực phát triển quan trọng, tác động một cách đáng kể tới ngôn ngữ và phong cách trong tác phẩm văn hóa viết sáng tác bằng tiếng Việt từ quốc ngữ Nôm tới quốc ngữ La Tinh ở địa phương. Trong bài Văn đĩ tế chệt mỉa mai những người Hoa tham gia cuộc binh biến Lê Văn Khôi ở thành Phiên An nửa đầu thế kỷ XIX, một tác giả người Gia Định đã viết “Quan binh rung trống trận ba hồi, nghe dớn dác khự tố lô (khứ tẩu liễu - chạy đi thôi) lập cập; Quan binh tống thiên oai một phát, nghe ầm ì xí ngầu lác (tử ngã liễu - chết tôi rồi) ngổn ngang”(4). Còn mở đầu bài Ngồi trăng chế nhạo bọn hương chức hống hách với nhân dân nửa sau thế kỷ XIX, Nguyễn Văn Lạc cũng viết “Hóa (ngã - tôi) An Nam, lứ (nhĩ - anh) khách trú”(5). Nhiều nhà văn nhà báo Lục tỉnh đầu thế kỷ XX cũng sử dụng một cách rất tự nhiên những từ như Hên xui, Tàu hủ, Hủ tíu, Tiệm nước, Té xỉu, Nhỏ xíu... trong các tác phẩm văn chương báo chí của mình.
Trên phương diện phong cách, phương ngữ Nam Bộ là một loại tiếng Việt gắn liền với cuộc sống dân dã nên có lối diễn đạt bình dị mộc mạc, khỏe khoắn và hóm hỉnh của nhân dân lao động. Chính với đặc điểm lịch sử - văn hóa ấy mà nó đã dung nạp khá mau lẹ và dễ dàng một số yếu tố phong cách đặc sắc của ngôn ngữ và văn hóa Hoa. Cho nên câu Lưu Bị khen Triệu Vân “Toàn thân đô thị đảm” (Toàn thân đều là mật) đã được người Nam Bộ Việt hóa thành “Gan cùng mình”; thành ngữ “Cấm nhược hàn suyền” (Sợ sệt như con ve mùa lạnh) đã được họ dịch thành “Sợ xếp (cánh) ve”. Trong lối ví von dân dã của người Nam Bộ như gan dạ thì nói là "Cóc cắn trời gầm không nhả", con cháu bất hiếu thì nói là "Đồ đâm cha chém chú"; bị mất việc làm và nguồn thu nhập không ổn định thì nói là "Bị bể chén cơm"; chạy vạy khắp nơi thì nói là "Chạy Tần chạy Sở"... cũng bàng bạc phong cách diễn đạt hình tượng, ngoa dụ và hài hước phổ biến trong tiếng Hoa. Còn phải điều tra, thống kê và đối chiếu chi tiết số thành ngữ gốc Hoa trong phương ngữ Nam Bộ mới có thể đi tới một kết luận chính xác, nhưng nói một cách tổng quát thì phong cách trong phương ngữ Nam Bộ cũng chứa đựng nhiều quá trình song ngữ và song văn hóa Việt Hoa.
*
**
Sự hiện diện của những yếu tố Hoa trong phương ngữ Nam Bộ ba thế kỷ nay mang một ý nghĩa hai mặt: đối với người Việt, nó là một trong những kết quả của sự tiếp nhận lại một lần nữa các yếu tố văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam sau thời Bắc thuộc, còn đối với người Hoa ở Nam Bộ, nó là một trong những bằng chứng về quá trình Việt hóa của họ. Vì khác với thời Bắc thuộc, người Việt ở Nam Bộ từ thế kỷ XVIII đến nay đã tiếp nhận các yếu tố Hoa trong tư thế chính trị khác và nhất là với trình độ phát triển văn hóa - xã hội khác. Chính vì vậy mà khi quá trình Việt hóa về mặt chính trị của các nhóm di dân người Hoa ở Nam Bộ đã ít nhiều bị khựng lại từ 1862 đến 1945 vì sự có mặt của thực dân Pháp rồi phát xít Nhật, thì quá trình Việt hóa về mặt văn hóa của họ vẫn được kế tục trong bối cảnh lịch sử mới. Trên tấm bia Trùng kiến Tây Cống Quảng Triệu Hội quán nhận quyên phương danh kỷ niệm đề “Ngày tốt tháng 11 năm Nhâm Tuất, Trung Hoa Dân Quốc thứ 11 (1922)” ở Quảng Triệu Hội quán số 122 đường Bến Chương Dương, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có hai địa danh tiếng Việt viết với mã chữ Nôm khá đặc biệt mà đọc theo âm Việt Hán là Thổ Long Mộc và Ná Điều. Nhưng nếu đọc theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông thì gần như Thủ Lùng Mộc (Thủ Dầu Một) và Lá Thiều (Lái Thiêu): đây rõ ràng là một loại “chữ Nôm của người Hoa” dùng để ghi âm các địa danh tiếng Việt, mặc dù họ hoàn toàn có thể Hán hóa thành Đơn Du thủ (Trạm thuế có một cây dầu lẻ) và Thiêu thương (nhà buôn Thiêu). Có thể coi đây là một loại biến thể song ngữ và song văn hóa Việt Hoa ở Nam Bộ thời Pháp thuộc, ở đó đại bộ phận nhân dân lao động người Hoa phải tìm những cách thức phản ảnh và thể hiện quyền lợi của mình nơi thiết chế văn hóa - xã hội Việt Nam.
Sau hết, trên các phương diện ngôn ngữ học, văn học, từ điển học, sự quan tâm một cách thích đáng tới những yếu tố Hoa trong phương ngữ Nam Bộ có thể sẽ giúp những người nghiên cứu học hỏi được thêm nhiều điều bổ ích đồng thời tránh được nhiều sai lầm không đáng có. Học giả Huỳnh Tịnh Paulus Của trong quyển từ điển song ngữ Đại Nam quốc âm tự vị cuối thế kỷ XIX cũng có những sai sót về mặt này, chẳng hạn đã ghi chữ Hên (Hạnh - may) bằng mã chữ Nôm là Hưng (hưng thịnh), có lẽ đọc theo âm Nôm là Hơng gần âm với Hên, trong khi đúng ra phải viết bằng mã chữ Hạnh và giải thích là đọc theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông. Phải nói thêm rằng sai lầm này đã di căn vào một công trình nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ, trong đó tác giả thấy chữ Hên được viết bằng mã chữ Nôm Hưng bèn tưởng đó là mã chữ Hán rồi suy diễn Hên xui là Hưng suy! Rõ ràng nếu không biết chữ Hán Nôm, Trung văn và các phương ngữ Hoa Nam thì rất khó nếu không nói là không thể tìm hiểu phương ngữ Nam Bộ, điều này đặt ra những yêu cầu nghiêm túc trong việc tìm hiểu tiếng Việt ở Nam Bộ nói riêng và từ Quảng Nam trở vào Nam nói chung.
CHÚ THÍCH:
(1) Xem thêm Hoàng Thị Châu, bài trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr.161-166.
(2) Xem thêm Cao Tự Thanh, Hoàng - Huỳnh, Phúc - Phước, Vũ - Võ... với vấn đề "kiêng húy", Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 12, 1994.
(3) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xb, Sài Gòn, 1972, phần chữ Hán in kèm, Phong tục chí, tờ 10b.
(4) Theo Trương Vĩnh Ký di chỉ, tài liệu chép tay hiện được lưu giữ ở Thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội Hà Nội, ký hiệu VĐ.35/4, tr.84-85. Vì chỉ có bản phiên âm ra quốc ngữ La Tinh nên rất khó kiểm chứng, nhưng theo chúng tôi thì mấy chữ Nôm được Trương Vĩnh Ký phiên âm là Xí ngầu lác nói trên phải được đọc là Xẩy ngộ lớ tức "Tử ngã liễu" đọc theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông.
(5) Theo Nguyễn Văn Kinh, Nam âm, Recueil de morceaux choisis de Poésie annamite à l’usage de la Jeunesse avec explications des mots, notices biographiques et commentaires, Nhà in Xưa Nay, Sài Gòn, 1925, tr.78. Vì hiện chúng tôi chưa được thấy văn bản chữ Nôm nào của bài thơ này nên không rõ chữ Hóa ở đây được viết với mã chữ Nôm nào, song tuy nhiều văn bản quốc ngữ La Tinh phiên là Hóa nhưng trong thực tế chữ này được phát âm gần như Oá, Quá, có lẽ Hán tự cũng viết là Ngã (Wo), là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, số ít đọc theo âm Hoa Hán giọng Triều Châu. Trong phương ngữ Nam Bộ chữ này bị biến âm thành Qua.
(bài trên số 2/2000 tạp chí Hán Nôm)
http://www.hannom.org.vn/web/tchn/data/
6/7/20
Ennio Morricone
Ennio Morricone vừa mất hôm nay, 6/7/2020 tại Ý, hưởng thọ 91 tuổi. (1928 - 2020)
Bắt đầu sáng tác từ cuối 195x, ông đã để lại một sự nghiệp đồ sộ với hơn 500 bản nhạc cho các bộ phim cũng như chương trình truyền hình, trong đó có những bản bất hủ: The Good, the Bad and the Ugly, Once Upon a Time in the West, Cinema Paradiso .. .
Ông từng được 2 Oscar, 3 Grammy, 2 Quả cầu vàng; và rất nhiều giải thưởng dang giá khác.
Nghe lại bản nhạc ông viết cho bộ phim cao bồi nổi tiếng The Good, the Bad and the Ugly.
3/7/20
Bình hụ & thẩu
Đi chơi, ghé quán tạp hóa bên đường, tình cờ nghe bà chủ quán bảo khách
Thẩu rượu thuốc côi tủ, chú tự múc một li, tui đang mắc tay ..
Giọng Quảng Trị đặc sệt. Thẩu, dễ đến mấy chục năm mới nghe lại. Thẩu mứt, thẩu bánh, thẩu đường, thẩu muối, thẩu ruốc, thẩu rượu thuốc .. Con cháu sinh ra trong này, nghe dám không hiểu. Chúng chỉ quen với lọ mứt, hụ đường, bình rượu thuốc ...
Bình gốc Hán thì dễ thấy rồi: 瓶
Thẩu, ở quê có người kêu phẫu, hẳn là chữ 缶 này, âm Hán Việt quen gọi là phẫu, nhưng thiết âm của nó là 俯九切 phủ cữu thiết, tức đáng ra phải đọc là phữu.
Từ điển Khai Trí Tiến Đức ghi nhận cả hai tiếng thẩu và phẫu. Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn Ngữ chỉ có: thẩu d. (ph.) Lọ thủy tinh miệng rộng, cổ ngắn.
Còn hụ? Tò mò, tra chữ 缶 ở trang này http://humanum.arts.cuhk.edu.hk/Lexis/lexi-mf/dialect.php thì thấy phương ngôn Sán Đầu đọc nó nghe rất giống hũ.
Tức phẫu, hũ là đồng nguyên?
Còn lọ, và cả vò nữa thì gốc là đâu nhỉ?
Thẩu rượu thuốc côi tủ, chú tự múc một li, tui đang mắc tay ..
Giọng Quảng Trị đặc sệt. Thẩu, dễ đến mấy chục năm mới nghe lại. Thẩu mứt, thẩu bánh, thẩu đường, thẩu muối, thẩu ruốc, thẩu rượu thuốc .. Con cháu sinh ra trong này, nghe dám không hiểu. Chúng chỉ quen với lọ mứt, hụ đường, bình rượu thuốc ...
Bình gốc Hán thì dễ thấy rồi: 瓶
Thẩu, ở quê có người kêu phẫu, hẳn là chữ 缶 này, âm Hán Việt quen gọi là phẫu, nhưng thiết âm của nó là 俯九切 phủ cữu thiết, tức đáng ra phải đọc là phữu.
Từ điển Khai Trí Tiến Đức ghi nhận cả hai tiếng thẩu và phẫu. Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn Ngữ chỉ có: thẩu d. (ph.) Lọ thủy tinh miệng rộng, cổ ngắn.
Còn hụ? Tò mò, tra chữ 缶 ở trang này http://humanum.arts.cuhk.edu.hk/Lexis/lexi-mf/dialect.php thì thấy phương ngôn Sán Đầu đọc nó nghe rất giống hũ.
Tức phẫu, hũ là đồng nguyên?
Còn lọ, và cả vò nữa thì gốc là đâu nhỉ?
2/7/20
Chờ nhau
Ngày xưa có hai người yêu nhau, nhưng ko đến với nhau được. Chỉ biết chờ đêm chờ ngày ..
chờ em chờ ngẩn chờ ngơ
chờ qua mùa mận mùa mơ mùa đào ..
chờ riết, đến khi gặp lại thì thấy em đang cho con bú
photo Pham Duc
Sông sâu cá lội biệt tăm
Ba năm anh cũng đợi, mười năm anh cũng chờ
Chờ em chờ ngẩn chờ ngơ
Chờ qua mùa mận mùa mơ mùa đào ..
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)