TỔ CHỨC CẤP BỘ THỜI VIỆT NAM CỘNG HÒA
khung
3/1/25
Hành chánh thời VNCH
29/12/24
Hành trình khai sinh quốc hiệu Việt Nam
Tên gọi Việt Nam lần đầu tiên chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta vào năm 1804. Định danh này được xác lập bởi một văn bản pháp lý quan trọng, là chiếu của nhà Nguyễn, niên hiệu Gia Long thứ 3, cách đây tròn 220 năm.
Từ quan ngại của nhà Thanh
Sau khi đánh bại vương triều Tây Sơn (1788 - 1802), năm 1802, Nguyễn Ánh, hậu duệ của các chúa Nguyễn từng cai trị đất Đàng Trong lên ngôi vua, lập nên triều Nguyễn. Nhà vua chọn Huế làm kinh đô, lấy niên hiệu là Gia Long.
Tháng Một năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long sai Lê Quang Định cầm tờ biểu theo đường Nam Quan sang nhà Thanh xin phong vương. “Quốc sử quán triều Nguyễn”, “Đại Nam thực lục” ghi lại, nhà vua ra lệnh mang quốc thư và phẩm vật sang thỉnh phong, xin đổi quốc hiệu làm Nam Việt.
Trước đó, sau khi thu phục Phú Xuân và tiến quân ra Bắc truy đuổi tàn quân Tây Sơn của Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản, vua Gia Long đã gửi thư sang Trung Hoa để tìm cách giao thiệp với Thanh triều và xin được công nhận là quốc vương của triều đại mới. Trong thư gửi Thanh triều, ông tự xưng là Nam Việt quốc vương.
Kế đến, trong biểu cầu phong do Lê Quang Định cầm sang trình lên Thanh đế, khi thấy vua Nguyễn dùng niên hiệu Gia Long (嘉隆), nhà Thanh đặt câu hỏi: phải chăng niên hiệu của quốc trưởng ở phương Nam tỏ ý bao trùm niên hiệu của hai hoàng đế nhà Thanh là Càn Long (乾隆) và Gia Khánh (嘉慶)?
Sứ thần nước ta đã vội vàng cải chính rằng: đó chỉ là gộp hai tên Gia Định (嘉定) và Thăng Long (昇隆), để thể hiện đất nước đã được thống nhất, trải từ Gia Định đến Thăng Long. Mặc dù cái tên Thăng Long, là kinh đô của Đại Việt từ thế kỷ 10 đến lúc đó, là 昇龍, được viết với chữ Long (龍) nghĩa là “rồng”, không phải Long (隆), nghĩa là “hưng thịnh”, như chữ Long (隆) trong niên hiệu Càn Long.
Sự kiện trên cùng với việc vua Gia Long tự xưng là Nam Việt quốc vương (trong trần tình biểu gửi Thanh triều), đã khiến Thanh đình dấy lên những quan ngại.
Tên chính đại, chữ tốt lành
Tờ dụ của hoàng đế Gia Khánh, ngày 20 tháng Chạp năm Gia Khánh thứ 7 (1802), cho rằng, cái tên Nam Việt bao trùm rất rộng. Khảo sử trước đây, hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây cũng nằm trong đó.
Tiếp sau đó, trong tờ dụ các quân cơ đại thần ngày 6 tháng Tư năm Gia Khánh thứ 8 (1803), hoàng đế Gia Khánh dụ rằng: “Việc (vua Gia Long) xin đặt tên nước là Nam Việt, thì nước này trước đây có đất cũ Việt Thường, sau lại được toàn lãnh thổ An Nam; vậy Thiên triều phong quốc hiệu cho dùng hai chữ Việt Nam (越南); lấy chữ Việt (越) để đằng trước tượng trưng cương vực thời xưa; dùng chữ Nam (南) để đằng sau, biểu tượng đất mới được phong; lại còn có nghĩa là phía nam của Bách Việt; không lẫn lộn với tên nước cũ Nam Việt. Một khi tên nước đã chính, nghĩa của chữ cũng tốt lành; vĩnh viễn thừa hưởng ân trạch của Thiên triều”.
Việc hoàng đế Gia Khánh của nhà Thanh chấp thuận phong vương cho vua Gia Long và đồng ý cho nước ta đổi quốc hiệu, được “Đại Nam thực lục” chép như sau: “(...)
Trước đây vốn đã có đất Việt Thường nên tự xưng là Nam Việt. Nay lại có toàn cõi An Nam, tên cần phải theo thực nên cần phải đem cả cương thổ trước sau gộp lại, lúc mở đầu ban cho cái tên đó để tỏ sự tốt lành.
Vì thế nên định là chữ Việt để lên trước, biểu thị nước ta kế thừa đất xưa mà hưởng tiếng tốt cũ, còn chữ Nam để xuống sau, biểu tượng việc nước ta mở rộng xuống cõi nam mà được tích mệnh mới. Tên như thế chính đại, chữ lại tốt lành, so với tên cũ đất Lưỡng Việt của nội địa có chỗ phân biệt”.
Vậy là, quốc hiệu Việt Nam ra đời trong một bối cảnh lịch sử rất đặc biệt. Đến tháng 2 năm Giáp Tý (tháng 3/1804), Việt Nam chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta.
Về sự kiện này, “Đại Nam thực lục” chép: “Tháng Hai (năm Giáp Tý 1804), ngày Mậu Thìn, (vua Gia Long) xa giá đến kinh sư. Ngày Quý Dậu, vua yết ở Thái Miếu… đặt quốc hiệu là Việt Nam. Ngày Đinh Sửu đem việc cáo Thái Miếu. Lễ xong vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo ở trong ngoài”.
Tờ chiếu tuyên đặt quốc hiệu Việt Nam do vua Gia Long ban hành, có đoạn viết: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước.
Hơn 200 năm nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng, chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam đều vào bản tịch.
Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới nên định lấy ngày 17 tháng Hai năm nay (1804) kính cáo Thái Miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa.
Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”.
Như vậy, năm 2024 này, quốc hiệu Việt Nam đã tròn 220 năm.
https://baoquangnam.vn/hanh-trinh-khai -sinh-quoc-hieu-viet-nam-3131355.html
28/12/24
Vertigo
VERTIGO
27/12/24
SCHINDLER'S LIST
SCHINDLER'S LIST
Đây là bộ phim xếp hạng #8 trong 100 phim hay nhất của AFI.Nhờ Chat GPT viết bài giới thiệu phim
---
Giới thiệu bộ phim “Schindler’s List”
“Schindler’s List” là một tác phẩm điện ảnh xuất sắc của đạo diễn Steven Spielberg, ra mắt năm 1993, dựa trên cuốn tiểu thuyết “Schindler’s Ark” của Thomas Keneally. Bộ phim kể về câu chuyện có thật của Oskar Schindler, một doanh nhân người Đức, người đã cứu sống hơn 1.100 người Do Thái trong thời kỳ Holocaust bằng cách tuyển họ làm công nhân trong các nhà máy của mình.
1. Nội dung
Bộ phim lấy bối cảnh Thế chiến thứ hai tại Ba Lan, khi chế độ phát xít Đức đang thực hiện cuộc diệt chủng tàn bạo đối với người Do Thái. Ban đầu, Oskar Schindler (do Liam Neeson thủ vai) chỉ là một doanh nhân cơ hội, lợi dụng chiến tranh để làm giàu. Tuy nhiên, sau khi chứng kiến sự tàn bạo của phát xít Đức, ông đã thay đổi. Schindler dùng tài sản của mình để bảo vệ hàng trăm người Do Thái bằng cách thuê họ vào làm việc trong các nhà máy của mình, qua đó tránh được nguy cơ bị đưa đến trại tập trung.
2. Điểm nhấn nghệ thuật
Bộ phim được quay chủ yếu bằng màu đen trắng, tạo nên không khí bi thương và chân thực. Chỉ một vài chi tiết được tô màu, nổi bật là hình ảnh chiếc áo đỏ của một bé gái, như một biểu tượng đau thương và bất lực trước sự tàn ác của chiến tranh. Âm nhạc của nhà soạn nhạc John Williams cũng góp phần tạo nên sức lay động mạnh mẽ cho bộ phim.
3. Giá trị nhân văn
“Schindler’s List” không chỉ là một câu chuyện về sự cứu rỗi mà còn là một bài học sâu sắc về lòng nhân ái và sức mạnh của một cá nhân trong việc đối mặt với những tội ác lớn lao. Bộ phim tôn vinh những hành động quả cảm và nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của việc đấu tranh chống lại bất công.
4. Thành tựu
Bộ phim giành được 7 giải Oscar, bao gồm Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất, cùng nhiều giải thưởng danh giá khác. “Schindler’s List” không chỉ là một kiệt tác điện ảnh mà còn là một di sản văn hóa quan trọng, giúp thế giới không quên những bài học đau thương của lịch sử.
Kết luận
“Schindler’s List” là một bộ phim không chỉ dành cho những người yêu thích điện ảnh mà còn cho tất cả những ai muốn hiểu rõ hơn về sức mạnh của lòng trắc ẩn trong những thời khắc tăm tối nhất của nhân loại. Đây là một tác phẩm kinh điển mà bất kỳ ai cũng nên xem ít nhất một lần trong đời.
--
Coi phim: https://www.phimconggiao.com/ban-danh-sach-cua-schindle/xem-phim/9545?
Thu nhật ngẫu thành
秋日偶成
千村木葉盡黃落,
獨立西風拂鬢絲。
歲月堂堂留不得,
昨非今是只心知。
阮子成
Âm
Thiên thôn mộc diệp
tận hoàng lạc,
Độc lập tây phong phất mấn ti.
Tuế nguyệt đường đường lưu bất đắc,
Tạc phi kim thị chỉ tâm tri
Nghĩa
Khắp các thôn xóm lá cây đều vàng và rụng hết,
Đứng một mình, ngọn gió tây thổi bay mấy sợi tóc mai.
Năm tháng lừng lững qua không giữ được,
Trước sai nay đúng chỉ lòng mình biết.
Tạm dịch
Khắp xóm lá vàng rơi lả tả,
Một mình gió thoảng tóc bay bay.
Tháng năm lừng lững đi không đợi,
Phải quấy chuyện đời lòng tự hay.
Giản thể
千村木叶尽黄落,独立西风拂鬓丝。
岁月堂堂留不得,昨非今是只心知。
Chú.
- 秋日偶成 Thu Nhật Ngẫu Thành Bài thơ ngẫu nhiên viết vào ngày thu. 偶成 ngẫu thành: Tình cờ mà làm xong. Cụm từ thường dùng nơi nhan đề nhiều bài thơ xưa, ý chỉ bài thơ làm trong lúc bất chợt có cảm xúc.
- 千村 thiên thôn: Nghìn làng. 木葉 mộc diệp: Lá cây. 盡黃落 tận hoàng lạc: Vàng và rụng hết. 盡: Hết, toàn bộ.
- 獨立 độc lập: Đứng một mình. 西風 tây phong: Gió Tây. 拂鬢絲 phất mấn ti: thổi nhẹ tóc mai. 拂: Vuốt, phẩy. 鬢絲 mấn ti: Tóc mai. Mấn: tóc mai, ti: tơ. Hình dung tóc mai như những sợi tơ, nên gọi tóc mai là mấn ti.
- 歲月 tuế nguyệt: Thời gian. 堂堂 đường đường: Chỉ khí thế mạnh mẽ; lừng lững. 留不得 lưu bất đắc: Không thể giữ lại.
- 昨非今是 tạc phi kim trị: Hôm qua sai, hôm nay lại đúng. Chỉ chuyện thị phi khôn lường. 只心知 chỉ tâm tri: Chỉ có lòng biết.
阮子成 sống vào đời Trần. Quê quán, năm sinh, năm mất cùng sự nghiệp của ông dều chưa rõ, chỉ còn 11 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.
26/12/24
NHL. Người cải chính nhiều sự hiểu lầm về Trung quốc
24/12/24
Vọng Đông Sơn Liễu Nhiên am
望東山了然庵
古木扶疏暫繫舟,
禪房岑寂枕清流。
明年此夕知誰健?
且喜登臨訪舊遊。
陳藝宗
Âm
Cổ mộc phù sơ tạm hệ chu,
Thiền phòng sầm tịch chẩm thanh lưu.
Minh niên thử tịch tri thùy kiện?
Thả hỉ đăng lâm phỏng cựu du.
Nghĩa
Buộc tạm con thuyền nơi gốc cây cổ thụ sum suê,
Thiền phòng vắng lặng nằm
bên dòng nước trong.
Chiều này năm sau biết có còn ai khỏe mạnh,
Lại vui vẻ lên
thăm lại nơi cũ từng ghé chơi.
Tạm dịch.
Tạm buộc thuyền vào dưới gốc thông,
Phòng thiền dựa suối nước xanh trong.
Chiều này năm tới ai còn khỏe,
Lại trở về đây ngắm cảnh không.
Chú
- 古木 cổ mộc: Cây cổ thụ. 扶疏 phù sơ: Cành lá xum xuê, tỏa rộng. 暫繫舟 tạm hệ chu: Tạm buộc thuyền.
- 禪房 thiền phòng: Phòng thiền, chỉ ngôi chùa. 岑寂 sầm tịch: Cao va yên lặng, tĩnh lặng. 枕清流 chẩm thanh lưu: Gối đầu lên dòng nước trong.
- 明年此夕minh niên thử tịch: Chiều này năm sau. 知誰健 tri thùy kiện: Biết có ai còn khỏe mạnh?
- 且喜 thả hỷ: lại vui mừng. 且 thả, liên từ; lại. 登臨 đăng lâm: Đi lên. 訪舊遊 phỏng cựu du: Thăm lại nơi từng ghé qua.
陳藝宗 Trần Nghệ Tông (1321-1395) tên thật là Trần Phủ 陳甫, là con thứ ba của Trần Minh Tông, lên ngôi năm 1370, hai năm sau, 1372, thì nhường ngôi cho em là Trần Duệ Tông, còn mình thì làm Thượng hoàng.
Giản thể
古木扶疏暂系舟,禅房岑寂枕清流。
明年此夕知谁健?且喜登临访旧游。