3/1/25

Hành chánh thời VNCH

 TỔ CHỨC CẤP BỘ THỜI VIỆT NAM CỘNG HÒA

(Bài này được đăng trên Facebook cách nay đúng 8 năm [3.1.2017]. Gần đây, một số bạn, có lẽ vì chưa có dịp đọc nó, đã qua messenger, điện thoại và những cách tiếp cận khác, đặt ra với tác giả những câu hỏi có liên quan đến chủ đề này. 8 năm cũng là một khoảng thời gian khá dài, nay xin đăng lại với một số điều chỉnh, bổ sung, để một mặt gián tiếp trả lời các bạn trên, một mặt xin mời những ai chưa đọc thì đọc, những ai đã đọc rồi, đọc lại cũng ... chẳng sao)
Trong một bình luận ở bài viết về Học viện QGHC trước 30.4.1975, tôi có ghi mấy chữ, đại ý “ Tổng thư ký, chức vụ cao nhất về mặt hành chánh ở một bộ”. Sau đó có một bạn trẻ “chất vấn” tôi vì sao chức này là cao nhất, còn Bộ trưởng, Thứ trưởng ở đâu?
Bạn ấy còn bày tỏ sự thắc mắc ở thêm hai vấn đề:
- Đổng lý văn phòng là chức gì, làm gì, thứ bậc ra sao so với các chức khác?
- Thời VNCH, công chức hành chánh hưởng lương và phụ cấp ra sao?
Thiển nghĩ bộ máy chính quyền VNCH đã thuộc về quá khứ, song những người có tuổi từng sống ở miền Nam (dưới vĩ tuyến 17) trước 1975 và các bạn trẻ, khi đọc hồi ký, sách viết về chế độ này, không ít người từng nghe hay từng đọc thấy những chức danh như thế, nay cũng xin nhớ đến đâu kể đến đó, một cách sơ lược về tổ chức cấp Bộ thời VNCH và một vài sự kiện có liên quan để các bạn không bỡ ngỡ trước một số từ nay không còn thấy nữa.
TỔ CHỨC CẤP BỘ THỜI VNCH
Người bạn chất vấn tôi đã không lưu ý đến 2 từ “hành chánh” trong câu bình luận, và không hề có ý niệm gì về hai bộ phận riêng biệt ở cấp Bộ thời VNCH, đó là bộ phận về hành chánh, kỹ thuật (corps technique), và bộ phận về chính trị (corps politique). Hai bộ phận này tách biệt nhau và chức năng hoàn toàn khác nhau.
*Thứ nhất là bộ phận hành chánh, kỹ thuật, thường rất ổn định, lâu dài để đảm bảo tính liên tục của hoạt động công vụ, bất kể sự thay đổi, có khi rất thường xuyên, của người đứng đầu một bộ là Tổng trưởng (hay Bộ trưởng, tùy thời điểm).
*Thứ hai là bộ phận chính trị, gồm những viên chức thân cận của mỗi vị Tổng trưởng khi vị này đến nhậm chức tại một bộ.
Trong khi bộ phận hành chánh gồm những công chức làm việc thuần túy chuyên môn thì bộ phận chính trị gồm những cố vấn, tham mưu riêng cho vị Tổng trưởng về mặt chính sách, đường lối của một bộ.
Tại cấp bộ, bộ phận hành chánh, chuyên môn, từ cao xuống thấp gồm có:
- Tổng thư ký Bộ
-Tổng Giám đốc các Tổng Nha
- Giám đốc Nha (có nhiều Sở và ít Sở)
- Chánh sự vụ Sở
- Chủ sự Phòng
- Trưởng Ban
- Nhân viên thường
Bộ phận chính trị gồm có:
- Thứ trưởng
- Đổng lý văn phòng (hưởng phụ cấp chức vụ Tổng Giám đốc)
- Chánh văn phòng (hưởng pccv của Giám đốc Nha có nhiều sở)
- Công cán ủy viên (hưởng pccv của Chánh sự vụ Sở)
- Tham chánh văn phòng (hưởng pccv của Chủ sự Phòng)
Sự khác biệt lớn giữa hai bộ phận hành chánh và chính trị thể hiện ở chỗ bộ phận hành chánh có đời sống rất dài, không phụ thuộc vào sự tồn tại của Tổng (Bộ) trưởng, còn bộ phận chính trị thường là đến và đi khỏi bộ đồng thời với vị Tổng trưởng, nhường chỗ cho ban bệ riêng của vị tân Tổng trưởng.
Trong lịch sử nền hành chánh VNCH, hầu như chỉ có một biệt lệ về trường hợp này. Đó là những năm 1965-1966, Bộ Xây dựng nông thôn đặt dưới quyền một nhân vật chính trị là ông Nguyễn Tất Ứng, ông này qua đời đột ngột ngay trong lúc tại nhiệm. Người đến thay ông Ứng là Thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng (người đứng đầu trong 4 vị tướng “sạch” nhất thời đó), ngoài chức Chánh văn phòng là người phụ giúp trực tiếp, ông giữ lại các Công cán ủy viên và Tham chánh văn phòng của ông Ứng, cho tiếp tục làm việc tại Bộ. Đây là cách ứng xử nhân văn của vị tướng này: các ông công cán ủy viên, tham chánh văn phòng của một Tổng trưởng đi theo vị này rời khỏi bộ để đến một nơi khác, giữ một chức vụ khác, còn khi ông Ứng đã mất rồi, những ông kia trở thành rắn không đầu, tướng Thắng giữ lại như một hành vi nhân đạo, giúp họ tiếp tục có việc làm, trong một thời gian nhất định.
* Một sự kiện tế nhị khác trong tổ chức một bộ, đó là đôi khi bộ có một vài Phụ tá Tổng trưởng, nhưng lại được xếp vào hai vị thứ khác nhau: có ông là “Phụ tá Tổng trưởng xếp ngang Thứ trưởng”, có ông là “Phụ tá Tổng trưởng xếp ngang Tổng Giám đốc” (thấp hơn ông trước). Có người đặt ra câu hỏi: với ông Phụ tá Tổng trưởng xếp ngang Thứ trưởng, sao không bổ nhiệm quách làm Thứ trưởng cho rồi?
Xin thưa giữa Thứ trưởng và Phụ tá Tổng trưởng xếp ngang Thứ trưởng có những khác biệt lớn như sau:
-Thứ trưởng là viên chức chính trị, nhân viên chính phủ, có quyền họp Hội đồng nội các, còn Phụ tá Tổng trưởng xếp ngang Thứ trưởng là viên chức chuyên môn, không có quyền họp Hội đồng nội các.
- Khi bộ có sự thay đổi Tổng trưởng, Thứ trưởng xách va li đi theo Tổng trưởng cũ, còn Phụ tá Tổng trưởng xếp ngang Thứ trưởng vẫn tiếp tục công việc tại bộ.
- Tuy trong một bộ, các chức Đổng lý văn phòng, Tổng thư ký và Tổng Giám đốc cùng được hưởng phụ cấp chức vụ ngang nhau, song về mặt hệ cấp, trong các buổi lễ chính thức, Đổng lý Văn phòng được xướng danh trước tiên, rồi mới đến Tổng thư ký Bộ, cuối cùng là Tổng Giám đốc. Điều này cũng dễ hiểu: trong 3 người này Đổng lý văn phòng thân cận nhất đối với Tổng trưởng.
- Thời chính quyền Ngô Đình Diệm, tại Phủ Tổng thống có đến 2 chức Đổng lý văn phòng do hai vị đảm nhận là ông Quách Tòng Đức và ông Đoàn Thêm. Nhiều người không phân biệt được sự khác nhau giữa 2 chức danh này.
Sự thật là ông Quách Tòng Đức giữ chức “Đổng lý văn phòng tại Phủ Tổng thống”, lúc đó người giữ chức “Bộ trưởng tại Phủ Tổng thống” là ông Nguyễn Đình Thuần. Như vậy là ông Quách Tòng Đức làm việc dưới quyền ông Thuần.
Về phần Đoàn Thêm, ông là “Đổng lý văn phòng Tổng thống”, không làm việc dưới quyền ông Bộ trưởng nào, mà dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng thống.
CÁC PHỤ CẤP HÀNH CHÁNH
Thời quân chủ, quan lại có tiền dưỡng liêm để sống đầy đủ, nuôi dưỡng sự liêm chính, thì thời VNCH, có các loại phụ cấp dành cho các chức vụ chỉ huy kể trên, để họ có thể sống tương xứng với chức vụ đảm đương. Song có một điều cần nhấn mạnh là trong chế độ VNCH, phần căn bản là lương bổng của công chức rất đồng đều nhau, không có chuyện cách biệt nhau một trời một vực giữa ông giám đốc ở bộ này với ông giám đốc ở bộ kia. Một công chức tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh (ngạch Đốc sự), trường Đại học Sư phạm (ngạch Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp) hay trường Cao đẳng kỹ thuật Phú Thọ (Kỹ sư công chánh, kỹ sư điện..) … có cùng một chỉ số lương khởi điểm như nhau là 470.
Trong quá trình làm việc, nếu được cử những chức vụ chỉ huy như kể trên (từ trưởng ban trở lên), họ được hưởng thêm phụ cấp chức vụ và các phụ cấp khác (gia nhân, điện nước, nhà ở…), còn phần lương vẫn lãnh theo chỉ số căn bản, dù nơi họ làm việc là ở đâu. Điều này rất khác biệt với chế độ hiện hành tại Việt Nam (sau tháng 4.1975), lương bổng tùy thuộc vào chế độ của từng cơ quan một, sự sai biệt nhiều khi rất lớn.
Trước thập niên 1970, phụ cấp (hàng tháng) của các viên chức chỉ huy trong bộ máy hành chánh VNCH đại khái như sau (viết theo trí nhớ nên sự sai biệt có thể ở mức trăm đồng, không đến mức ngàn đồng):
- Tổng Giám đốc: 9.400 đ, gồm phụ cấp chức vụ, phụ cấp điện nước, phụ cấp gia nhân, phụ cấp nhà ở (trong trường hợp không ở nhà công)
- Giám đốc Nha có nhiều sở (thường là trên 3 sở): 4.700 đ
- Giám đốc Nha ít sở 2.700 đ (không có phụ cấp gia nhân 2.000 đ như Giám đốc Nha có nhiều Sở)
- Chánh sự vụ Sở hưởng phụ cấp 2.200 đ, gồm phụ cấp chức vụ 1.500đ phụ cấp nhà ở và điện nước 700 đ
- Chủ sự phòng cấp Bộ (cấp trung ương): phụ cấp chức vụ 800 đồng, không có các phụ cấp khác
- Trưởng ban (trong tổ chức Phòng): phụ cấp chức vụ 500 đ
Ở cấp tỉnh, phụ cấp chức vụ của Trưởng ty và Phó Quận trưởng 900 đ, của chủ sự phòng là 600 đ (thấp hơn chủ sự phòng cấp trung ương). Chủ sự phòng cấp tỉnh là chức vụ chỉ huy hành chánh thấp nhất, không có Trưởng ban như ở trung ương
Với mọi công chức (và quân nhân) thời VNCH, họ được hưởng phụ cấp gia đình gồm:
* phụ cấp vợ: 800 đ
* phụ cấp mỗi đứa con chưa thành niên: 500 đ, không giới hạn số con.
Với khoản phụ cấp gia đình này, mỗi người đã đủ sống, vì trong thời chính quyền Ngô Đình Diệm và sau đó ít lâu, một sinh viên, học sinh hay công chức ở trọ, ăn cơm tháng chỉ với giá 400 đến 600 đ/tháng, một tô phở giá từ 5 đến 7 đồng.
Từ đầu thập niên 1970, do điều kiện kinh tế khó khăn, sinh hoạt trở nên đắt đỏ, tất cả những loại phụ cấp trên đều được đồng loạt tăng gấp đôi, phụ cấp vợ 1.600 đ/tháng, mỗi đứa con 1.000 đ/tháng
Loại phụ cấp gia đình này cũng là điểm khác biệt hoàn toàn với chế độ công chức hiện hành tại Việt Nam.
Ngoài những phụ cấp phổ biến trên, còn có những phụ cấp đặc biệt như:
- Phụ cấp kinh lý phí và giao tế phí dành cho những viên chức phải thường xuyên đi kinh lý hay tiếp khách, chủ yếu là Tỉnh trưởng và Phó Tỉnh trưởng tại địa phương.
- Phụ cấp nước độc- Dành cho những viên chức làm việc ở các tỉnh miền ngược, dễ nhiễm các bệnh mà vùng khác không có, tiêu biểu là bệnh sốt rét. Những viên chức ở vùng nước độc ngoài phụ cấp này, còn có ít nhất 2 quyền lợi khác:
. Được xét thâm niên công vụ để thăng trật tăng gấp rưởi so với những viên chức vùng an toàn. Họ làm việc 2 năm ở những vùng này thì được tính thâm niên là 3 năm (trung bình 2 năm được xét thăng trật một lần)
. Được ưu tiên khi xin về vùng an toàn sau khi đã ở vùng nước độc khoảng 2 năm.
Các viên chức ngành ngoại giao làm việc ở các cơ sở ngoại giao ngoài nước (Tòa đại sứ, Tòa lãnh sự) được hưởng thêm phụ cấp ly hương, được đưa cả vợ con đi theo ra nước ngoài.
Vài hàng sơ lược, hi vọng giúp ích được ít nhiều cho các bạn muốn tìm hiểu đôi điều về bộ máy công quyền của một chế độ tuy không còn nữa, song vẫn còn in đậm bóng dáng trên những trang tư liệu còn đầy rẫy trong các tủ sách gia đình, các thư viện và văn khố quốc gia.
Thân chúc mọi người một năm mới An bình, Vui khỏe và nhiều May mắn
Lê Nguyễn
3.1.2025

link: https://www.facebook.com/lenguyenpd/posts/pfbid02MysNf9HQM7LoPobChgLK9Xfpomrpfaf37u6bVPH3FkD4fSoEQW9nQiKX8eaCt3JFl?

29/12/24

Hành trình khai sinh quốc hiệu Việt Nam


TRẦN ĐỨC ANH SƠN  17/03/2024 08:30

Tên gọi Việt Nam lần đầu tiên chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta vào năm 1804. Định danh này được xác lập bởi một văn bản pháp lý quan trọng, là chiếu của nhà Nguyễn, niên hiệu Gia Long thứ 3, cách đây tròn 220 năm.

quoc-hieu-02.jpg
Bia Thủy Môn đình [gốc] trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn. Ảnh: Hồng Vân

Từ quan ngại của nhà Thanh

Sau khi đánh bại vương triều Tây Sơn (1788 - 1802), năm 1802, Nguyễn Ánh, hậu duệ của các chúa Nguyễn từng cai trị đất Đàng Trong lên ngôi vua, lập nên triều Nguyễn. Nhà vua chọn Huế làm kinh đô, lấy niên hiệu là Gia Long.

Tháng Một năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long sai Lê Quang Định cầm tờ biểu theo đường Nam Quan sang nhà Thanh xin phong vương. “Quốc sử quán triều Nguyễn”, “Đại Nam thực lục” ghi lại, nhà vua ra lệnh mang quốc thư và phẩm vật sang thỉnh phong, xin đổi quốc hiệu làm Nam Việt.

Trước đó, sau khi thu phục Phú Xuân và tiến quân ra Bắc truy đuổi tàn quân Tây Sơn của Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản, vua Gia Long đã gửi thư sang Trung Hoa để tìm cách giao thiệp với Thanh triều và xin được công nhận là quốc vương của triều đại mới. Trong thư gửi Thanh triều, ông tự xưng là Nam Việt quốc vương.

Kế đến, trong biểu cầu phong do Lê Quang Định cầm sang trình lên Thanh đế, khi thấy vua Nguyễn dùng niên hiệu Gia Long (嘉隆), nhà Thanh đặt câu hỏi: phải chăng niên hiệu của quốc trưởng ở phương Nam tỏ ý bao trùm niên hiệu của hai hoàng đế nhà Thanh là Càn Long (乾隆) và Gia Khánh (嘉慶)?

Sứ thần nước ta đã vội vàng cải chính rằng: đó chỉ là gộp hai tên Gia Định (嘉定) và Thăng Long (昇隆), để thể hiện đất nước đã được thống nhất, trải từ Gia Định đến Thăng Long. Mặc dù cái tên Thăng Long, là kinh đô của Đại Việt từ thế kỷ 10 đến lúc đó, là 昇龍, được viết với chữ Long (龍) nghĩa là “rồng”, không phải Long (隆), nghĩa là “hưng thịnh”, như chữ Long (隆) trong niên hiệu Càn Long.
Sự kiện trên cùng với việc vua Gia Long tự xưng là Nam Việt quốc vương (trong trần tình biểu gửi Thanh triều), đã khiến Thanh đình dấy lên những quan ngại.

Tên chính đại, chữ tốt lành

Tờ dụ của hoàng đế Gia Khánh, ngày 20 tháng Chạp năm Gia Khánh thứ 7 (1802), cho rằng, cái tên Nam Việt bao trùm rất rộng. Khảo sử trước đây, hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây cũng nằm trong đó.

anh-bai-ngan.jpg
Con dấu Việt Nam quốc vương chi ấn (nhà Thanh ban cho vua Gia Long). Nguồn: Pierre Daudin

Tiếp sau đó, trong tờ dụ các quân cơ đại thần ngày 6 tháng Tư năm Gia Khánh thứ 8 (1803), hoàng đế Gia Khánh dụ rằng: “Việc (vua Gia Long) xin đặt tên nước là Nam Việt, thì nước này trước đây có đất cũ Việt Thường, sau lại được toàn lãnh thổ An Nam; vậy Thiên triều phong quốc hiệu cho dùng hai chữ Việt Nam (越南); lấy chữ Việt (越) để đằng trước tượng trưng cương vực thời xưa; dùng chữ Nam (南) để đằng sau, biểu tượng đất mới được phong; lại còn có nghĩa là phía nam của Bách Việt; không lẫn lộn với tên nước cũ Nam Việt. Một khi tên nước đã chính, nghĩa của chữ cũng tốt lành; vĩnh viễn thừa hưởng ân trạch của Thiên triều”.

Việc hoàng đế Gia Khánh của nhà Thanh chấp thuận phong vương cho vua Gia Long và đồng ý cho nước ta đổi quốc hiệu, được “Đại Nam thực lục” chép như sau: “(...)

Trước đây vốn đã có đất Việt Thường nên tự xưng là Nam Việt. Nay lại có toàn cõi An Nam, tên cần phải theo thực nên cần phải đem cả cương thổ trước sau gộp lại, lúc mở đầu ban cho cái tên đó để tỏ sự tốt lành.

Vì thế nên định là chữ Việt để lên trước, biểu thị nước ta kế thừa đất xưa mà hưởng tiếng tốt cũ, còn chữ Nam để xuống sau, biểu tượng việc nước ta mở rộng xuống cõi nam mà được tích mệnh mới. Tên như thế chính đại, chữ lại tốt lành, so với tên cũ đất Lưỡng Việt của nội địa có chỗ phân biệt”.

Vậy là, quốc hiệu Việt Nam ra đời trong một bối cảnh lịch sử rất đặc biệt. Đến tháng 2 năm Giáp Tý (tháng 3/1804), Việt Nam chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta.

Về sự kiện này, “Đại Nam thực lục” chép: “Tháng Hai (năm Giáp Tý 1804), ngày Mậu Thìn, (vua Gia Long) xa giá đến kinh sư. Ngày Quý Dậu, vua yết ở Thái Miếu… đặt quốc hiệu là Việt Nam. Ngày Đinh Sửu đem việc cáo Thái Miếu. Lễ xong vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo ở trong ngoài”.

Tờ chiếu tuyên đặt quốc hiệu Việt Nam do vua Gia Long ban hành, có đoạn viết: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước.

Hơn 200 năm nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng, chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam đều vào bản tịch.

Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới nên định lấy ngày 17 tháng Hai năm nay (1804) kính cáo Thái Miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa.

Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”.

Như vậy, năm 2024 này, quốc hiệu Việt Nam đã tròn 220 năm.

https://baoquangnam.vn/hanh-trinh-khai -sinh-quoc-hieu-viet-nam-3131355.html


https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/309

28/12/24

Vertigo

 VERTIGO

phim của Hitchcock
.
Những người trên dưới 70 sống ở Nam chắc ít ai không nghe đến Hitchcock. Hôm nay ngồi xem lại Vertigo ko còn thấy sớn gai như xưa, chỉ thấy bồi hồi như gặp lại người bạn thân đã xa cách rất lâu. Đây là bộ phim xếp hạng #9 trong danh sách 100 phim hay nhất của AFI năm 2007. Ở Anh, có năm phim Vertigo đã được xếp hạng #1 trong danh sách 100 phim hay của Viện Phim Anh (BFI), qua mặt Citizen.
---
Lại nhờ Chat GPT
Giới thiệu phim “Vertigo” (1958)
“Vertigo”, tạm dịch là “Chóng mặt”, là một tác phẩm kinh điển của đạo diễn lừng danh Alfred Hitchcock. Ra mắt năm 1958, bộ phim thuộc thể loại tâm lý, ly kỳ (psychological thriller) và được đánh giá là một trong những kiệt tác vĩ đại nhất trong lịch sử điện ảnh.
Nội dung chính:
Bộ phim kể về Scottie Ferguson (do James Stewart thủ vai), một cựu thám tử bị buộc phải nghỉ hưu sau khi mắc chứng sợ độ cao và chứng chóng mặt. Scottie được một người bạn cũ thuê để theo dõi vợ mình, Madeleine Elster (Kim Novak), vì nghi ngờ cô đang bị ám ảnh bởi một linh hồn quá khứ.
Trong quá trình theo dõi, Scottie bị cuốn vào tình yêu với Madeleine, nhưng câu chuyện nhanh chóng chuyển hướng khi bi kịch xảy ra. Tuy nhiên, mọi thứ không phải như vẻ ngoài. “Vertigo” đưa khán giả vào một hành trình tâm lý phức tạp, nơi sự ám ảnh, tình yêu, và tội lỗi hòa quyện, dẫn đến một cái kết bất ngờ và đau đớn.
Điểm nhấn nghệ thuật:
1. Đạo diễn thiên tài: Alfred Hitchcock khai thác tâm lý nhân vật một cách sâu sắc, đưa người xem chìm đắm trong cảm giác bất an và hồi hộp.
2. Kỹ thuật quay phim độc đáo: “Vertigo” nổi tiếng với hiệu ứng “dolly zoom” – kỹ thuật thị giác tạo cảm giác chóng mặt khi Scottie đối diện với nỗi sợ độ cao.
3. Âm nhạc: Nhạc phim do Bernard Herrmann soạn thảo, với giai điệu huyền bí, đầy cảm xúc, đã góp phần tạo nên không khí căng thẳng, lãng mạn và ám ảnh.
4. Hình ảnh biểu tượng: Phim sử dụng màu sắc, ánh sáng và khung hình một cách tinh tế, tạo nên những cảnh quay đẹp như tranh vẽ nhưng đầy ẩn ý.
Di sản và thành tựu:
• “Vertigo” ban đầu nhận được ý kiến trái chiều khi ra mắt nhưng dần được công nhận là kiệt tác.
• Năm 2012, bộ phim được tạp chí Sight & Sound xếp hạng số 1 trong danh sách 100 phim hay nhất mọi thời đại, vượt qua cả “Citizen Kane.”
• Được lưu trữ tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vì giá trị văn hóa, lịch sử và thẩm mỹ.
Tại sao “Vertigo” là kiệt tác?
“Vertigo” không chỉ là câu chuyện về một vụ án hay một mối tình đầy bi kịch, mà còn là sự khám phá sâu sắc về bản chất của tình yêu, ám ảnh, và nỗi sợ hãi trong tâm hồn con người. Đây là bộ phim không chỉ khiến người xem choáng ngợp bởi sự hồi hộp mà còn khiến họ phải suy ngẫm mãi về những ý nghĩa ẩn sâu bên trong.
Nếu bạn yêu thích những bộ phim khai thác tâm lý con người, “Vertigo” chắc chắn là một tác phẩm không thể bỏ qua!
*

27/12/24

SCHINDLER'S LIST

 SCHINDLER'S LIST

Đây là bộ phim xếp hạng #8 trong 100 phim hay nhất của AFI.
Nhờ Chat GPT viết bài giới thiệu phim
---
Giới thiệu bộ phim “Schindler’s List”

“Schindler’s List” là một tác phẩm điện ảnh xuất sắc của đạo diễn Steven Spielberg, ra mắt năm 1993, dựa trên cuốn tiểu thuyết “Schindler’s Ark” của Thomas Keneally. Bộ phim kể về câu chuyện có thật của Oskar Schindler, một doanh nhân người Đức, người đã cứu sống hơn 1.100 người Do Thái trong thời kỳ Holocaust bằng cách tuyển họ làm công nhân trong các nhà máy của mình.

1. Nội dung
Bộ phim lấy bối cảnh Thế chiến thứ hai tại Ba Lan, khi chế độ phát xít Đức đang thực hiện cuộc diệt chủng tàn bạo đối với người Do Thái. Ban đầu, Oskar Schindler (do Liam Neeson thủ vai) chỉ là một doanh nhân cơ hội, lợi dụng chiến tranh để làm giàu. Tuy nhiên, sau khi chứng kiến sự tàn bạo của phát xít Đức, ông đã thay đổi. Schindler dùng tài sản của mình để bảo vệ hàng trăm người Do Thái bằng cách thuê họ vào làm việc trong các nhà máy của mình, qua đó tránh được nguy cơ bị đưa đến trại tập trung.

2. Điểm nhấn nghệ thuật
Bộ phim được quay chủ yếu bằng màu đen trắng, tạo nên không khí bi thương và chân thực. Chỉ một vài chi tiết được tô màu, nổi bật là hình ảnh chiếc áo đỏ của một bé gái, như một biểu tượng đau thương và bất lực trước sự tàn ác của chiến tranh. Âm nhạc của nhà soạn nhạc John Williams cũng góp phần tạo nên sức lay động mạnh mẽ cho bộ phim.

3. Giá trị nhân văn
“Schindler’s List” không chỉ là một câu chuyện về sự cứu rỗi mà còn là một bài học sâu sắc về lòng nhân ái và sức mạnh của một cá nhân trong việc đối mặt với những tội ác lớn lao. Bộ phim tôn vinh những hành động quả cảm và nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của việc đấu tranh chống lại bất công.

4. Thành tựu
Bộ phim giành được 7 giải Oscar, bao gồm Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất, cùng nhiều giải thưởng danh giá khác. “Schindler’s List” không chỉ là một kiệt tác điện ảnh mà còn là một di sản văn hóa quan trọng, giúp thế giới không quên những bài học đau thương của lịch sử.

Kết luận
“Schindler’s List” là một bộ phim không chỉ dành cho những người yêu thích điện ảnh mà còn cho tất cả những ai muốn hiểu rõ hơn về sức mạnh của lòng trắc ẩn trong những thời khắc tăm tối nhất của nhân loại. Đây là một tác phẩm kinh điển mà bất kỳ ai cũng nên xem ít nhất một lần trong đời.

--
Coi phim: https://www.phimconggiao.com/ban-danh-sach-cua-schindle/xem-phim/9545?

Thu nhật ngẫu thành

秋日偶成
千村木葉盡黃落,
獨立西風拂鬢絲。

歲月堂堂留不得,
昨非今是只心知。
阮子成

Âm

Thiên thôn mộc diệp tận hoàng lạc,
Độc lập tây phong phất mấn ti.
Tuế nguyệt đường đường lưu bất đắc,
Tạc phi kim thị chỉ tâm tri

Nghĩa

Khắp các thôn xóm lá cây đều vàng và rụng hết,
Đứng một mình, ngọn gió tây thổi bay mấy sợi tóc mai.
Năm tháng lừng lững qua không giữ được,
Trước sai nay đúng chỉ lòng mình biết.

Tạm dịch

Khắp xóm lá vàng rơi lả tả,
Một mình gió thoảng tóc bay bay.
Tháng năm lừng lững đi không đợi,
Phải quấy chuyện đời lòng tự hay.

Giản thể

千村木叶尽黄落,独立西风拂鬓丝。
岁月堂堂留不得,昨非今是只心知

Chú.

-          秋日偶成 Thu Nhật Ngẫu Thành Bài thơ ngẫu nhiên viết vào ngày thu. 偶成 ngẫu thành: Tình cờ mà làm xong. Cụm từ thường dùng nơi nhan đề nhiều bài thơ xưa, ý chỉ bài thơ làm trong lúc bất chợt có cảm xúc.

-          千村 thiên thôn: Nghìn làng. 木葉 mộc diệp: Lá cây. 盡黃落 tận hoàng lạc: Vàng và rụng hết. : Hết, toàn bộ.

-          獨立 độc lập: Đứng một mình. 西風 tây phong: Gió Tây. 拂鬢絲 phất mấn ti: thổi nhẹ tóc mai. : Vuốt, phẩy. 鬢絲 mấn ti: Tóc mai. Mấn: tóc mai, ti: tơ. Hình dung tóc mai như những sợi tơ, nên gọi tóc mai là mấn ti.

-          歲月 tuế nguyệt: Thời gian. 堂堂 đường đường: Chỉ khí thế mạnh mẽ; lừng lững. 留不得 lưu bất đắc: Không thể giữ lại.

-          昨非今是 tạc phi kim trị: Hôm qua sai, hôm nay lại đúng. Chỉ chuyện thị phi khôn lường. 只心知 chỉ tâm tri: Chỉ có lòng biết.

阮子成 sống vào đời Trần. Quê quán, năm sinh, năm mất cùng sự nghiệp của ông dều chưa rõ, chỉ còn 11 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.

26/12/24

NHL. Người cải chính nhiều sự hiểu lầm về Trung quốc

NGUYỄN HIẾN LÊ,
NGƯỜI CẢI CHÍNH
NHIỀU SỰ HIỂU NHẦM VỀ TRUNG QUỐC.
==
Dưới đây là một bài viết tôi đưa trên mạng từ 26.12. 2018, tức là 6 năm trước. Nhờ mục KỶ NIỆM mà tìm lại được xin chân thành cám ơn. Do thấy bài viết vẫn phù hợp với tinh thần hiện nay, nên xin đưa lại.
----
Đóng góp của Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984) trong khoa Trung quốc học là ở chỗ tận dụng ưu thế thời đại mang lại cho nó một cái nhìn khác các bậc tiền bối. Xuất thân từ Tây học, song ông lại có thời gian về học với người bác là một bậc thâm nho, nhờ đó bồi đắp cho mình cái vốn Hán học chắc chắn. Trong suốt cuộc đời ông luôn luôn có cái nhìn phối hợp Đông Tây khi cần xem xét các vấn đề cơ bản mà người trí thức phải đối mặt.
Hai cuốn sách quan trọng của Nguyễn Hiến Lê làm theo hướng này là bộ Sử Trung Quốc, và bộ đôi Khổng Tử - Luận Ngữ.
Cái nhìn của ông là từ bên ngoài và không phụ thuộc vào cách giải thích của chính người Trung Quốc.
Nhưng ông vẫn biết tìm ra những khía cạnh tốt đẹp mà cả Đông và Tây, cổ điển và hiện đại đều phải công nhận.
Ông cải chính nhiều sự hiểu nhầm về Trung quốc.
Chúng tôi sẽ lược lại một số ý trong cuốn Sử Trung Quốc bàn về chính trị mà chúng tôi thấy tâm đắc nhất, và những lời bàn chung quanh khái niệm dân ở Nho học, là những điều hiện mang tính thời sự.
TRỊ QUỐC CHI ĐẠO (I)
Một lần ở một hiệu sách thuộc ga Bắc kinh, tôi thấy một cuốn sách dày cộp mang tên như trên. Chợt nhận ra việc quản lý quốc gia ở nước Trung Hoa cổ được ghi chép rất đầy đủ và nâng lên tới trình độ một bộ phận quan trọng trong văn hóa.
Đọc cuốn sách Sử Trung quốc Nguyễn Hiến Lê viết cuối đời, càng thấy rõ điều đó.
-- Tần Thủy Hoàng độc tài chuyên chế. Ông giết trí thức. Nhưng đó không phải là cách cai trị lưu manh vô học. Đã tin dùng trí thức nào ( thừa tướng Lý Tư) là dùng đến triệt để. Đốt sách, kể cả Tứ thư Ngũ Kinh nhưng là đốt những bộ tạp nham, trong khi vẫn tàng trữ một bộ trong triều đình ( tr103, bản Sử TQ của Nxb Tổng hợp TP HCM,2006). Với những điều luật bắt buộc thư đồng văn xa đồng quỹ, ông ta có công đưa mọi sinh hoạt của quốc gia vào nền nếp. Các trường học dưới thời ông dạy rất kỹ môn pháp luật quốc gia.
-- Thời Tiên Tần, TQ đã có những nhân vật quản lý xã hội đầy tài năng và có tư duy hiện đại như Quản Trọng, Thương Ưởng. Trung Quốc cuối thế kỷ XX cũng đang lặp lại nhiều biện pháp của Thương Ưởng.
-- Triệu Khuông Dẫn vua nhà Tống được quân lính đặt lên ngai vàng nhưng công việc đầu tiên khi lên ngôi là đặt văn quan trên võ quan và hạn chế quyền lực của các chỉ huy quân đội.
(Nói như sách Các nền văn minh thế giới—Lịch sử & văn hóa thì ngay từ đời Đường, người Trung Hoa đã tin chắc rằng các chế độ quân sự không hợp với một quốc gia có chuẩn tắc và văn minh.)
-- Trong các biện pháp cải cách của Vương An Thạch đời Tống cũng có nhiều việc rất hiện đại, chẳng hạn khi tuyển dụng quan lại chỉ huy các việc nông điền thủy lợi không dùng người văn hay chữ tốt vừa đỗ đạt mà thiên về dùng người có chuyên môn tức có kinh nghiệm.
-- Sau các chiến thắng quân sự lẫy lừng, chế độ cai trị mà Hốt Tất Liệt áp đặt lên xã hội Trung Hoa hết sức tùy tiện “triều đình là một mớ hỗn độn vô tổ chức, hiệu lệnh ban ra địa phương không nghe; mỗi gia đình đại thần tự làm chính trị, mỗi người tự coi là quốc gia “ ( tr396-397)
-- Trong số lý do khiến Mãn Thanh về sau thành công, có lý do này -- “ triều đình ít can thiệp vào đời sống của dân “ ( tr 481), “ đất đai mênh mông mà số quan lại rất ít” (tr482). Ở trang 497 còn ghi rõ hơn 450 triệu dân chỉ có 100.000 quan lại.
TRỊ QUỐC CHI ĐẠO (II)
Các xã hội chiến tranh là những xã hội tham nhũng nặng nề. Lần đầu tiên tôi biết điều đó là từ phần viết về nhà Nguyên trong cuốn Những bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung quốc, của nhóm Cát Kiếm Hùng, bản tiếng Việt của nhà sách Văn Lang 2004.
Nhưng mới đây đọc lại hóa ra các sử gia chuyên về sử Trung quốc đã viết về tình trạng thiếu pháp luật và tham nhũng của các chính quyền quân sự từ lâu.
Như Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi đã viết trong cuốn Hàn Phi Tử -- Bản của Nxb Văn hóa 1997—tr 29:
Bắt đầu ngay từ thời Chiến quốc, thời các chư hầu đánh lộn lẫn nhau,
“quan lại đa số tham nhũng: Tư Mã Thiên trong bộ Sử ký thiên 119 chỉ chép truyện của năm vị quan tốt, mà thiên 122 chép truyện của mười tên quan xấu (chữ Hán gọi là khốc lại).
Kẻ sĩ tranh nhau ăn tới mức Phạm Tuy tể tướng Tần, tư cách chẳng cao đẹp gì mà cũng phải ví họ với bầy chó của vua Tần: “( khi bình thường) nằm thì cùng nằm, đi thì cùng đi, ngừng thì cùng ngừng, không cắn nhau; nhưng hễ ném cho chúng một khúc xương thì chúng vùng dậy, nhe nanh ra cắn nhau. Chỉ tại tranh ăn.
..Xã hội từ trên xuống dưới đầy trộm cướp “.
QUAN LẠI XUẤT THÂN TỪ DÂN NGHÈO
CÀNG DỄ THAM NHŨNG
Trong việc làm bộ sử Trung quốc, Nguyễn Hiến Lê dựa nhiều vào các nhà sử học phương Tây, nhưng bao giờ cũng dẫn họ ra rất đầy đủ sau đó có ý kiến riêng của mình.
Ví như quanh chuyện quan lại và tham nhũng ở Trung quốc. Lối tuyển người làm quan ở đây là qua khoa cử, nó có cái mạnh là tránh đi vào cha truyền con nối của quý tộc châu Âu, và đấy là điều khiến cho Voltaire cũng từng khâm phục.
Nhưng một nhà nghiên cứu là Eberhard lưu ý ta một điểm khác.
Ông này khi nghiên cứu về các đời Đường Tống đã nói rằng nguồn gốc của tệ tham nhũng là do quan lại được trả lương quá thấp.
Khi nghiên cứu sang thời Minh, Eberhard lại lưu ý càng đám quan lại xuất thân từ các tầng lớp dân nghèo, do đỗ đạt mà thành quan càng dễ tham nhũng. Tại sao? Muốn đỗ thì phải hối lộ quan trường, đỗ rồi muốn được bổ dụng thì phải đút lót nhà quyền quý... Đến lúc ra làm quan thì phải tham nhũng để thu hồi vốn và trả nợ.
Chép lại nhận xét này của Eberhard ( tr. 441), Nguyễn Hiến Lê tỏ ý không tin.
Nhưng tôi thì lại thấy rất tin vì nó giúp tôi giải thích tình hình quan chức thời nay.
CHUNG QUANH KHÁI NIỆM DÂN TRONG NHO HỌC
Đây là một điểm mà theo tôi Nguyến Hiến Lê có cách hiểu khác hẳn với đa số chúng ta hiện nay và ông đã giữ quan niệm này cho tới cùng.
Nguyễn Hiến Lê - Cuộc đời và tác phẩm là tên một cuốn sách của Châu Hải Kỳ. Có lẽ ở Việt Nam ít ai được hạnh phúc như Nguyễn Hiến Lê. Từ trước 1975, ông được người bạn ở xa là Châu Hải Ký theo dõi từng bước đi.
Những năm cuối cùng trong cuộc đời Nguyễn Hiến Lê lại được ông Châu tiếp tục quan tâm và nhất là đoạn miêu tả về cái chết của Nguyễn Hiến Lê rất cảm động.
Riêng tôi, đặc biệt chú ý tới trang 431, của cuốn sách tiểu sử này, ở đó Châu Hải Kỳ viết "kết thúc chương chót này, tôi xin cầu xin ông cho phép tôi trưng ra một đoạn thư trích" có liên quan tới việc dạy học của Khổng tử. Chữ họ sau đây là chỉ các học giả Hà Nội
“...Họ không đọc gì hết mà phê bình thì mình bắt bẻ làm quái gì, phí công. Chẳng hạn trong Nhà giáo họ Khổng, tôi nói rõ rằng trước Khổng chỉ có những trường của triều đình cho con quý tộc học, Khổng là người đầu tiên mở trường tư dạy bất kỳ hạng người nào, từ kẻ nghèo, chỉ mang lại một gói nem; và ông dạy như vậy chú ý để đào tạo hạng bình dân có học thay bọn quý tộc vô học trong việc trị nước. Công ông lớn lao như vậy mà họ chê là phong kiến, thì nhắc tới họ làm gì cho phí giấy. Thôi đi anh ơi (…)”
Sở dĩ Châu Hải Kỳ phải đưa đoạn này ở cuối sách và Nguyễn Hiến Lê tự nhiên có giọng bi phẫn, là vì ở đây chạm tới một đề tài hình như quan trọng nhất của Nguyễn Hiến Lê là Khổng giáo.
Theo cách trình bày của các học giả Hà Nội, thì Khổng tử đáng muôn lần căm giận, vì đã khinh bỉ nhân dân, đề cao sự thống trị của bọn ngụy quân tử. Nói chung là người ta không chú ý tới khái niệm dân mà Khổng tử đã đề cập. Khi nói tới Nho giáo thì người ta chỉ nói đến chữ Lễ, Trung, đầy tính ràng buộc, và bằng cách đó thì bảo đảm uy quyền của giai cấp thống trị.
Nhưng trong các tài liệu viết về đạo Khổng mà Nguyễn Hiến Lê gặp lại ở phương tây thì ông lại thấy một điều ngược lại, và ông đã trình bày trong nhiều tập sách, cuối cùng là tập trung ở cuốn Khổng tử mà ông soạn trong thời gian từ sau 1975.
Như đoạn trên đã viết, chính ra Khổng tử là người đã rất gần gũi với người dân bình thường.
Ông biết rằng việc cai trị cần đến kiến thức nên đã dân chủ hóa kiến thức, và sẵn sàng mang lại những kiến thức quyền lực truyền đạt đến người dân thường.
Với Nguyễn Hiến Lê, đó là mặt tích cực, mặt trội nhất của Khổng tử và không thể chịu được cách hiểu cách hiểu sai của nhiều học giả Hà Nội. Ông giận họ cũng là phải.
nguồn: fb https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid026cbooarZh2WYjwZCYeML7pmh2JYLmXc6y6LrJPjCb6aQ5qMg3tQwSVMUGidykZLwl&id=100007958417043

24/12/24

Vọng Đông Sơn Liễu Nhiên am

 望東山了然庵

古木扶疏暫繫舟,
禪房岑寂枕清流。
明年此夕知誰健?
且喜登臨訪舊遊。

陳藝宗

Âm

Cổ mộc phù sơ tạm hệ chu,
Thiền phòng sầm tịch chẩm thanh lưu.
Minh niên thử tịch tri thùy kiện?
Thả hỉ đăng lâm phỏng cựu du.

Nghĩa

Buộc tạm con thuyền nơi gốc cây cổ thụ sum suê,
Thiền phòng vắng lặng nằm bên dòng nước trong.
Chiều này năm sau biết có còn ai khỏe mạnh,
Lại vui vẻ lên thăm lại nơi cũ từng ghé chơi.

Tạm dịch.

Tạm buộc thuyền vào dưới gốc thông,
Phòng thiền dựa suối nước xanh trong.
Chiều này năm tới ai còn khỏe,
Lại trở về đây ngắm cảnh không.

Chú

-          古木 cổ mộc: Cây cổ thụ. 扶疏 phù sơ: Cành lá xum xuê, tỏa rộng. 暫繫舟 tạm hệ chu: Tạm buộc thuyền.

-          禪房 thiền phòng: Phòng thiền, chỉ ngôi chùa. 岑寂 sầm tịch: Cao va yên lặng, tĩnh lặng. 枕清流 chẩm thanh lưu: Gối đầu lên dòng nước trong.

-          明年此夕minh niên thử tịch: Chiều này năm sau. 知誰健 tri thùy kiện: Biết có ai còn khỏe mạnh?

-          且喜 thả hỷ: lại vui mừng.  thả, liên từ; lại. 登臨 đăng lâm: Đi lên. 訪舊遊 phỏng cựu du: Thăm lại nơi từng ghé qua.

陳藝宗 Trần Nghệ Tông (1321-1395) tên thật là Trần Phủ 陳甫, là con thứ ba của Trần Minh Tông, lên ngôi năm 1370, hai năm sau, 1372, thì nhường ngôi cho em là Trần Duệ Tông, còn mình thì làm Thượng hoàng.

Giản thể

古木扶疏暂系舟,禅房岑寂枕清流。
明年此夕知谁健?且喜登临访旧游