渡桑乾
客舍並州已十霜,
歸心日夜憶咸陽。
無端更渡桑乾水,
卻望並州是故鄉。
Âm Hán Việt
Khách xá Tịnh Châu dĩ thập sương,
Quy tâm nhật dạ ức Hàm Dương
Vô đoan cánh độ Tang Càn thủy,
Khước vọng Tịnh Châu thị cố hương
Chú giải
桑乾 Tang Càn: tên sông. Nay là thượng lưu sông Vĩnh Định. Tương truyền mỗi năm khi dâu chín thì nước sông cạn khô, nên có tên như vậy.
客 Khách xá: ở làm khách. 舍 vốn có nghĩa là quán trọ, ở đây dùng như động từ, có nghĩa là ở trọ. 客 trong cụm từ này là danh từ làm trạng ngữ chỉ cách thức cho động từ 舍
並州 (danh từ riêng): Tịnh Châu
已十霜 dĩ thập sương: đã mười sương, ở đây có nghĩa là đã 10 năm
歸心 quy tâm: lòng muốn về nhà
咸陽 Hàm Dương: quê nhà tác giả. Nay ở Thiểm Tây, xưa là kinh đô nhà Tần.
無端 vô đoan: nghĩa ban đầu là không có điểm khởi đầu hoặc không có điểm kết thúc, mở rộng ra chỉ vô cớ, không lý do gì cả.
更渡 cánh độ: lại lần nữa đi qua
桑乾水 Tang Càn thủy: sông Tang Càn. 水 ở đây có nghĩa là sông
卻望 khước vọng: quay đầu nhìn lại.
Nhan đề: Có bản ghi nhan đề là 旅次朔方 Lữ Thứ Sóc Phương: Trọ lại ở Sóc Phương
Tác giả: đa số các nhà chú giải cho rằng bài thơ này là tác phẩm của Giả Đảo, nhà thơ nổi tiếng "thôi xao" thời Trung Đường. Nhưng một số tác giả cho rằng bài thơ này là của nhà thơ Lưu Táo sống vào thời Thịnh Đường.
Giản thể
渡桑干
客舍并州已十霜,
归心日夜忆咸阳。
无端更渡桑干水,
却望并州是故乡。
Nghĩa
Làm khách trọ ở Tịnh Châu đã mười năm
Lòng quê ngày đêm nhớ về Hàm Dương
Không dưng lại qua sông Tang Càn
Quay nhìn Tịnh Châu thấy nay đã là quê hương
Tạm dịch
Đất khách mười năm nương tấm thân,
Lòng quê hôm sớm mãi tơ vương.
Không dưng một sớm thuyền rời bến,
Đất khách quay nhìn hóa cố hương.
*
Đọc bài thơ, nhớ câu thơ của Chế Lan Viên
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở.
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn