(Đặng Tiến - Vũ Trụ Thơ).
Bài thơ này đã được Nguyễn Hiền phổ nhạc, với nhan đề Mái Tóc Dạ Hương, ta sẽ nghe Lệ Thu trình bày.
Với ai muốn tìm hiểu thêm về Đinh Hùng, xin giới thiệu bài viết của Tạ Tỵ: Đinh Hùng - với cơn mê trường dạ trich trong tập Mười khuôn mặt văn nghệ của ông. Ngoài nhận định về thơ Đinh Hùng, Tạ Tỵ còn nhắc đến một số kỷ niệm với nhà thơ từ thời trước 1945, thời kháng chiến chống Pháp và thời sau 1954, khi cả hai đã vào Saigon ..
1.
Kỷ niệm thơm từ năm ngón tay
Trăng lên từng nét gợn đôi mày
Bóng hoa huyền ảo nghiêng vầng trán
Chưa ngát hương tình, hương đã bay
Một Tiếng Em - Hồng Vân, Đoàn Yên Linh ngâm
Đọc thơ: Một tiếng em
Từ giã hoàng hôn trong mắt em
Tôi đi tìm những phố không đèn
Gió mùa thu sớm bao dư vị
Của chút hương thầm khi mới quen
Cùng bóng hàng cây gập giữa đường
Âm thầm tôi ngỏ tấm tình thương
Bao nhiêu hoài bão, bao hy vọng
Nói hết cho lòng nhẹ mối vương
Rồi đây trên những lối đi này
Ta sẽ cùng ai tay nắm tay
Nhịp bước năm cung đàn ảo tưởng
Buông chìm tâm sự nửa đêm nay
Từng bước trôi cùng trăng viễn khơi
Thâu đêm chưa hiểu miệng ai cười
Nụ cười gởi tự thiên thu lại
Tiền kiếp xưa nào em hé môi?
Dĩ vãng nào xanh như mắt em
Chao ôi! màu tóc rợn từng đêm
Hàng mi khuê các chìm sương phủ
Vời vợi ngàn sao nhạt dáng xiêm
Kỷ niệm thơm từ năm ngón tay
Trăng lên từng nét gợn đôi mày
Bóng hoa huyền ảo nghiêng vầng trán
Chưa ngát hương tình, hương đã bay
Sông biển nào nghe thấu nỗi niềm?
Sóng đâu còn khóe mắt thâm nghiêm
Lòng ơi hoài vọng bao giờ nói
Thăm thẳm trùng dương một tiếng em
Nhẹ bước chiêm bao tưởng lạc đường
Rưng rưng mùi phấn bỗng ngùi hương
Sương đầm vạt áo mong manh lệ
Sao rụng bay vào tóc dạ hương
Tôi lánh trần ai đi rất xa
Bâng khuâng sao lạnh ánh trăng tà
Ngày mai hứa hẹn bừng hương cỏ
Tôi sẽ say nằm ngủ dưới hoa
2.
Mái tóc dạ hương - nhạc Nguyễn Hiền - thơ Đinh Hùng - Lệ Thu ca
3.
(Tạ Tỵ - Đinh Hùng với cơn mê trường dạ)
Bài viết sau của Tạ Tỵ trích trong Mười khuôn mặt văn nghệ, ai thích thì đọc thêm, xem Tạ Tỵ nhận định về thơ Đinh Hùng, đồng thời nghe nhắc lại một số kỉ niệm với ông
Đọc: Đinh Hùng - Với cơn mê trường dạ
Tạ Tỵ
Ta suốt đời ngư phủ
Thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh.
(Đinh Hùng)
Đinh Hùng đi vào thi ca với những ước mơ kỳ lạ và suy nghĩ về cõi vô thức giữa một thời đại lười suy nghĩ nhất. Tiếng thơ của Đinh Hùng không thuộc về thứ tình cảm chung chung, mà toát ra tự ngôn ngữ làn ánh sáng diễm ảo, ở trong đó, từng nỗi băn khoăn, từng niềm ước vọng chạy xôn xao như tiếng thời gian đuổi nhau trên rừng cây trút lá. Đinh Hùng tự mình tạo nên sắc thái đặc biệt, rất đặc biệt, để ngụp lặn trong dòng mê cảm đó với khổ đau cũng như kiêu hãnh. Từng hình ảnh mông lung, từng nỗi buồn vò xé, từng uất hận nghẹn ngào, tất cả, biến Đinh Hùng thành một nạn nhân, nạn nhân của mặc cảm. Đinh Hùng đã bị mặc cảm giày vò tái tê từ thể xác tới linh hồn. Mặc cảm đó là nỗi bơ vơ lạc loài của kiếp người trói buộc vào áo cơm trách nhiệm với ngần ấy vốn liếng riêng tư giữa cuộc sống xô bồ giả tạo. Đinh Hùng làm thơ chẳng phải để tỏ bày tâm sự mà để xác định thái độ, một thái độ bi phẫn khi nhận thấy kích thước trần gian không phải nơi mình mơ ước.
Cõi nhân gian mà Đinh Hùng vọng tưởng đã khuất lìa. Nó là tiếng nói hoang sơ của thời tiền sử. Nó là thiêng liêng cao cả của một khung trời nguyên thuỷ. Nó rộng rinh và chói lói hào quang ân sủng của thi nhân đóng vai Thượng Đế. Nó là cái nước Vô Danh với sự hiện diện của con người Mộng Ảo đi suốt một hành lang cô liêu muôn đời không gặp thực tại.
Dòng thơ của Đinh Hùng đi từ sự mê hoặc của tâm linh vượt đến cõi ý thức của thân phận qua thi phẩm Mê hồn ca rồi ném mình theo Đường vào tình sử. Khúc hát nào lênh đênh trôi nổi trên đầu non, và tâm hồn nào còn giữ nguyên màu trinh tuyết trong xác thịt chứa đầy tội lỗi bi thương? Trong cái bóng tối mênh mông dày đặc của tương lai, trong nỗi khao khát hung cuồng đắm đuối cắn chặt ở môi ngậm cứng trái sầu đau, Đinh Hùng nhắm mắt lại, mở hồn thoát du vào ảo giác.
Đinh Hùng vào đời như đi trong ác mộng. Những hình dáng con người di động giữa kích thước thành phố đã làm người thơ phẫn nộ:
“Miệng quát hỏi: có phải ngươi là bạn?
Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản
Mất tinh thần từ những thuở xa xôi
Ta về đây lạ hết các ngươi rồi
Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống”.
(“Bài ca man rợ”, Mê hồn ca)
Đi từ cõi huyền ảo của tiềm thức, Đinh Hùng dùng tâm tư mong biến cuộc đời thành trường mộng. Hình ảnh một sinh vật đơn côi trong một thiên nhiên mới hình thành, tia sáng thứ nhất của tâm linh chiếu rọi vào sự vật như một chứng tích ghi nhận có đời sống trần gian với những huyền bí còn nguyên màu huyễn hoặc. Cái Thiên Nhiên mà người thơ vùng vẫy thả bỏ mọi níu kéo làm Đinh Hùng mo ước trở về, sự trở về trong những lối hoang sơ – ở đấy – bước chân đi làm rung chuyển núi rừng, đồi suối. Đau đớn thay, sự hiện diện này làm kinh ngạc cả nhan sắc, làm cho tình thương cũng mất chìm trong cô độc.
Từ cái nhìn cô độc, Đinh Hùng không tin cõi đời hiện hữu là có thực và người con gái bằng xương bằng thịt kia với những mùi hương quyến rũ, vụt chốc trở thành xa lạ đến nghi hoặc khởi đi từ tri giác:
“Ôm nhan sắc với hai bàn tay sắt
Ta nhìn ai, ôi khóe mắt ta nhìn
Em có là ma, là quỷ, là tiên?
Em có mấy linh hồn bao nhiêu mộng?
Em còn trái tim nào đang xúc động?
Em có gì trong xác thịt như hoa?
Lạc thiên nhiên đến cả bọn đàn bà,
Với những vẻ dung nhan kiều diễm nhất”.
(“Bài ca man rợ”, Mê hồn ca)
Cái vũ trụ mà Đinh Hùng vọng tưởng đó đã mất. Trong bóng tối mênh mông dày đặc của hiện tại, người thơ không trông mong tìm thấy những gì mình chờ đợi. Đinh Hùng nhắm mắt lại để du hồn vào quá khứ, đi về những hướng sao rơi và theo lối chân cầm thú. Trong trời thơ Nguyên Thuỷ, Đinh Hùng bơ vơ, lạc loài giữa thế giới tâm linh, với tất cả tiếc thương, hờn giận. Đinh Hùng ẩn hồn trong toà lâu đài kiến tạo bằng vân thạch, gọi hồn cổ sơ về ngồi chung tâm sự. Người thơ muốn được “ăn hoa man dại” rồi “ngủ như muông thú”. Nhưng cái sống của “Gái-muôn-đời” có “bộ ngực tròn nuôi cuộc sống đương xuân” không còn nữa. Nó đã chết theo tiếng cười man rợ và mối “Tình-thái-cổ” đã “thơ thẩn với trăng suông” tự ngày trái đất có con hươu vàng diệp, cất cao đầu nhìn hoàng hôn chìm vào đêm Thơ hiền hậu.
Do đấy, cái khung trời mà Đinh Hùng dùng để viết thơ của mình lên, là một khung trời chứa chấp toàn huyền ảo giữa người và sự vật, giữa suy tưởng và thiên nhiên, giữa mơ mộng và thực tế. Vì nhìn rõ vị trí của mình trong cuộc sống có đấy, Đinh Hùng chẳng cần tra vấn hiện tại, phó mặc thời gian vận chuyển, hằng đêm, bên ánh toạ đăng, lắng nghe tiếng thơ nức nở âm vang theo từng sợi khói mong manh:
“Đi vào mộng những Sơn Thân yên ngủ
Đôi hồn người tưởng gặp bóng cô đơn
Rượu Trường Sinh: ta uống mắt em buồn
Sầu mấy kiếp, giấc ngủ say bừng đỏ?
Quên đi em, hãy sống đời cây cỏ
Từng linh hồn dan díu với hương hoa
Ta nhớ xưa: đêm thu rụng tiếng gà
Trăng vĩnh viễn khóc thời gian tình tự…”
(“Trời ảo diệu”, Mê hồn ca)
Cái thời gian tình tự đó, có lẽ, chỉ hiện diện trong cơn say men khói vì “bầy xứ tình” đã khuất chìm theo lối mộng mà người thơ đã từng đi về “ân ái cũ”. Từng nhịp thở của đôi hồn người cô đơn cứ khắc khoải, chập chờn trong trí não Đinh Hùng làm cho chết ngợp cả một vùng ảo diệu.
Tiếng thơ Đinh Hùng không phải tiếng thơ buông lơi, dễ dãi hoặc chọn lời lựa chữ cho suôn sẻ thanh âm. Nói cho đúng, nó là chuỗi kim cương sáng ngời, như những vì sao lạ treo chênh vênh giữa vòm trời thi ca hiện đại.
Trong giai đoạn nguyên thuỷ, Đinh Hùng mang tâm trạng kẻ lạc loài giữa đồng loại không chấp nhận sự hiện hữu này là thực thể, nên luôn luôn người thơ đi tìm kiếm cho riêng mình một giá trị trong những giá trị có đó. Đinh Hùng mang tâm tư của loài rong biển trôi dạt theo lớp sóng ngầm giữa lòng đại dương bát ngát, phó mặc cho dòng nước luân lưu đưa đẩy, miễn tìm thấy hồn thời gian qua vọng tưởng.
Đi từ thơ Nguyên Thuỷ qua Thần Tượng, Đinh Hùng đã xê dịch từ rung cảm thuần tuý sang bình diện con người. Nghĩa là người thơ đã nhìn rõ giá trị của đời sống qua vóc dáng kỳ nữ – làm người thơ choáng váng.
“Ta thường có những buổi sầu ghê gớm
Ở bên Em – ôi biển sắc, rừng hương
Em lộng lẫy như một ngàn hoa sớm
Em đến đây như đến tự Thiên Đường
Những buổi đó, ta nhìn em kinh ngạc
Hồn mất dần trong cặp mắt lưu ly
Ôi mắt xa khơi! Ôi mắt dị kỳ
Ta trông đó thấy trời ta mơ ước
Thấy cả bóng một vầng đông thuở trước
Cả con đường sao mọc lúc ta đi
Cả chiều sương mây phủ lối ta về
Khắp vụ trụ bỗng vô cùng thương nhớ…”
(“Kỳ nữ”, Mê hồn ca)
Có lẽ, vóc dáng người kỳ nữ một sớm nào đó đã gõ nhẹ vào cửa lòng thi nhân làm cho tỉnh giấc. Bóng dáng động vân thạch bị lu mờ trước giai nhân và thời man rợ bị đẩy lui vào tưởng niệm. Cặp mắt lưu ly nào đó đã chiếu rọi vào tâm hồn thi nhân bằng tia sáng quang tuyến, có khả năng xuyên qua sự vật để nhận rõ bản thể đích thực của sự vật. Hơn thế nữa, nó còn cho người thơ tìm về thân phận với ước mơ còn đấy, với bóng vầng đông thuở trước và con đường sao mọc khi xưa. Thơ Đinh Hùng quả thực có ma lực, nó có đó mà vô cùng xa xôi, vô cùng cao trọng. Thực và Mộng luôn luôn xáo trộn tạo nên ấn tượng hoang vu, man rợ. Nó là tiếng kêu vò xé. Nó là lời thảng thốt giữa cơn mê loạn. Nó là nỗi đam mê bấn loạn. Nó là tiếng thở dài ai oán trút tự cõi lòng cô độc. Nó là thịt da, xương máu của thi nhân. Nó là sự giao hưởng nhiệm mầu giữa thơ và tơ trời kết lại:
“Ôi cám dỗ! Cả mình em băng tuyết
Rợn xuân tình lên bộ ngực thanh tân
Ta gần em, mê từ ngón bàn chân
Mắt nhắm lại, để lòng nguôi gió bão
Khi sùng bái ta quỳ nâng nếp áo
Nhưng cúi đầu trước vẻ ngọc trang nghiêm
Ta khẩn cầu từng sớm lại từng đêm
Chưa tội lỗi đã thấy tràn hối hận…”
(“Kỳ nữ”, Mê hồn ca)
Cái nhan sắc ấy làm Đinh Hùng hoảng hốt và mê đắm với lòng “sùng bái” như một tín đồ sùng bái đức “Giáo chủ”. Trong thơ Thần tượng, Đinh Hùng đã đóng vai gã si tình để tỏ bày ngưỡng mộ. Đối với thế gian, Đinh Hùng tỏ ra mình là thi nhân kiêu sa, còn đối với tình yêu Đinh Hùng muốn làm Bạo chúa.
“Ta quên hết! Ta sẽ làm Bạo chúa
Sống nghìn năm, ngự trị một lòng em
Cuộc ân tình ghê rợn suốt muôn đêm
Nào ai tiếc thương gì thân mỹ nữ!…”
(“Ác mộng”, Mê hồn ca)
Nhưng tình yêu với đôi cánh bay lượn chập chờn trong cõi nhớ mong và “người em gái” đã cùng thi nhân gặp gỡ trong “mộng linh hồn” đã vội trở thành một “yêu quái” biết cười vui và nói giọng êm đềm. Đinh Hùng phó mặc cho tình cảm lướt trôi cùng nhan sắc và nụ hôn đầu đã làm tê dại cả tâm can, người thơ gục khóc tưởng tình xưa ngồi cạnh. Rồi gác “ca-lâu” cũng rèm buông, lửa đỏ và xiêm áo như hoa thấp thoáng đi về giữa trời ảo ảnh.
Tình yêu đối với Đinh Hùng thoáng đến, thoáng đi và khắc sâu vào tâm khảm người thơ những lằn roi rướm máu.
Nhan sắc, nhan sắc thật mong manh và vô cùng diễm tuyệt. Đinh Hùng chưa kịp hưởng say men tình ái mà giông gió cuộc đời đã cuốn vội từng lớp tang thương. Từ hy vọng mê cuồng bước sang trời Chiêu Niệm. Người thơ đi tìm mình, đi tìm chân lý tuyệt đối của tình yêu trong đất lạnh, trong vóc dáng thương yêu gói tròn hoài vọng:
“Trời cuối thu rồi. Em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu…”
(“Gửi người dưới mộ”, Mê hồn ca)
Mùa thu với từng cánh lá vàng đẹp như cánh thơ rơi tự trời cao. Mùa thu làm se ngọn cỏ hanh vàng trên nấm mộ. Mùa thu với đám mây lãng đãng trở về sau cuộc phiêu hành khắp vòm vũ trụ. Mùa thu có hồn Vệ Nữ lạc loài bên cửa huyệt, có cây Từ Bi chợt nở đóa Ác hoa mà thiện căn không tìm đâu thấy.
Những vần thơ Chiêu Niệm chảy dài như dòng lệ không bao giờ khô trên gương mặt thi nhân. Nó kéo lê thê như một ám ảnh trong mỗi câu, mỗi chữ với nhịp điệu tiếc nuối, than van với bóng tử thần chập chờn, đe doạ.
Nhưng rồi, tháng năm với những u buồn còn đấy, Đinh Hùng ném hồn mình vào cõi Mê Hồn, ở đó, cái đau và cái nhớ chợt tan biến để thi nhân nhìn hé thiên cơ với ánh lửa tinh cầu “dựng lên địa chấn, loạn màu huyền không”. Đinh Hùng van xin Trăng đừng bỏ kinh thành, đừng bỏ nhân gian để thi nhân nằm chờ Siêu Thoát, mơ đến những thanh âm tạo dựng một kiến trúc với chiêm bao thần bí:
“Lời nói im ta nằm chờ siêu thoát
Mơ hoàng thành dựng lại bản thanh âm
Mười ngón tay run
Mở cửa để cầm
Ôi kiến trúc một chiêm bao thần bí
Ta lạc hồn giữa lâu đài kỳ dị
Suốt muôn đời không hiểu dãy hành lang…”
(Mê hồn ca)
Làm sao mà Đinh Hùng có thể hiểu được vì thực tế và mơ mộng không nằm chung ước lệ. Cái chất thơ cứ vươn lên, vươn lên mãi trong khi thân phận nằm đây, soi lệch ánh toạ đăng mỗi đêm với muôn vạn nhọc nhằn:
“Máu ta say không chảy thoát hình hài
Hằng kinh động chốn ăn nằm vĩnh viễn…”
(Mê hồn ca)
Trước viễn ảnh chói loà của thi ca, Đinh Hùng dùng nghệ thuật để đồng hóa thể xác mình với thời gian vĩnh cửu.
“Buổi chiều đến, sầu lên Kim tự tháp
Bóng ta đi hoài cảm góc trời mây…”
Đó, tất cả cái sáng láng, cái tinh hoa của Đinh Hùng trình bày với người đọc những nỗi niềm mà người thơ thổ lộ qua vần, qua điệu. Đinh Hùng muốn vượt thoát hình hài, vượt thoát hoàn cảnh để tự do múa lượn trong cõi trường mộng, vì cuộc đời có khác gì mộng ảo?
Thơ Đinh Hùng chính thực không hoàn toàn mang tính chất quái dị, đúng ra, nó hình dung những siêu thoát, những nhiệm mầu mà con người trong khi thất vọng thường bám víu lấy để cầu mong an ủi. Người thơ đi tìm bản thân trong chiều sâu tâm giác, trong ngôn ngữ xuất thần với suy tư dấy loạn nội tâm. Do đấy, lời thơ Đinh Hùng bao giờ cũng vượt qua được bức trường thành nhân thế để chiếu từng tia sáng mong manh nhưng sắc bén giữa những tâm hồn đồng điệu:
“Khi mùa Xuân buông dài trước cửa
Khi nắng chiêm bao khẽ chớp hàng mi
Khi những con thuyền chở mộng ra đi
Giấc mộng phiêu lưu như bầy hải điểu
Kỷ niệm trở về nắm tay nhau hiền dịu
Ngón tay thơm vàng phấn bướm đa tình
Anh sẽ tìm em như tìm một hành tinh
Mặc trái đất sẽ tan vào mộng ảo…”
(“Đường vào tình sử”)
Tình yêu vẫn có uy lực dẫn dắt thi nhân đi vào muôn ngàn lối ân tình. Dù trái đất có tan vào mộng ảo, dù buổi chiều nào tận thế, dù mùa thu phôi pha, mùa đông tàn phế, ta vẫn vì em mà sống đời ngư phủ, thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh và sau cùng để chiêm ngưỡng Em như chiêm ngưỡng một hành tinh xa lạ.
Phải nhận rằng, trong tập Đường vào tình sử (Nam Chi Tùng Thư xuất bản, 1961), hơi thở của Đinh Hùng đã phần nào là buông cung điệu và nỗi hoài mong của thi nhân chỉ gói tròn vào tình cảm thông thường nơi tình yêu đôi lứa, dù cho tình yêu có được thắp sáng bởi trí tuệ người thơ. Những nét độc đáo với dòng suy cảm quái đản được gọi về từ thiên cổ không thấy xuất hiện. Lời và ý thơ trong Đường vào tình sử thật dung dị và đẹp:
“Tôi nghe em nói bằng im lặng
Bằng dáng nghiêng nghiêng động nét mày
Bằng cả mênh mang chiều lắng đọng
Nụ cười em gửi gió thu bay
Tóc quyện mây choàng vai mộng nhỏ
Chìm chìm hơi nắng bước thu đi
Hôn như khói toả say tà lụa
Chợt tỉnh, còn như truyện ngủ mê…”
(Đường vào tình sử)
Toàn tập hầu như thế cả, nguyên lý không gây được ấn tượng sâu đậm nào ở trong tâm thức người đọc như Mê hồn ca. Sở dĩ như vậy vì tập Đường vào tỉnh sử là sự góp nhặt nhiều bài thơ ở nhiều thời kỳ đã đăng tải rải rác trong các tạp chí văn học. Nhưng dù sao, vẫn có trong đó cái “chất” Đinh Hùng, cái “chất” đã đưa Đinh Hùng vào ngôi vị xứng đáng của nền thi ca Việt Nam.
Đinh Hùng chịu ảnh hưởng rất nhiều ở dòng thơ Tượng Trưng Pháp với các thi hào Baudelaire và Mallarmé của thế kỷ XIX. Nhất là Baudelaire nhà phù thuỷ ngôn ngữ trong thi ca Pháp, người đã dịch truyện của văn hào Mỹ Edgar Poe và có tập Fleurs du Mal (Ác hoa) đã gây sôi nổi dư luận quần chúng Pháp vì những tư tưởng táo bạo trong thơ.
*
Khởi hành từ trạng thái đớn đau trong tình yêu với sự dằn vặt đoạ đày ở mỗi không-gian-cuộc-sống, Đinh Hùng nhìn chòng chọc vào nó như thách đố và coi nhẹ hệ luỵ đến đỗi tưởng rằng chỉ có thế giới linh hồn là thực, kỳ dư đều mộng ảo.
Có những đêm đông Hà Nội, tôi đến thăm Hùng tại căn nhà cổ nằm sâu trong ngõ hẹp ở cửa Ô Cầu Rền, chẳng cách xa phường Dạ Lạc là bao. Bước chân dò từng phiến gạch gồ ghề trơn trợt dưới lớp bùn quánh đặc. Đi qua chiếc sân đất rộng đầy cây cảnh hiện sừng sững với hình thể đục, nặng vì thiếu ánh sáng. Hương nha phiến thoáng ngát. Tôi bước lên thềm cao, căn nhà trống trải âm u dưới ngọn đèn dầu cháy leo lét ở một góc, chỉ vừa đủ soi sáng một khoảng nhỏ. Tiếng kêu vo vo của nhựa thuốc thiêu trên ngọn lửa làm tôi thấy nôn nao. Đã nhiều đêm tôi ngồi bên để nhìn các bạn vui, nhưng sao mỗi lần gặp tôi, tôi vẫn mang cảm giác rờn rợn như gặp yêu nữ.
Tôi đứng yên ở dưới mái hiên nhìn vào. Trước mắt tôi, dưới làn khói mỏng như tơ, Đinh Hùng nằm nhỏ nhoi tựa đứa bé. Mái tóc nặng nề lẩn vào bóng tối. Đôi mắt tinh anh, mở nửa vời dài dại. Tôi biết Đinh Hùng đang nhập mộng. Chừng một phút sau, Đinh Hùng nhỏm dậy, cầm ấm trà màu gạch cua rót vào chiếc chén hạt mít trắng muốt đưa lên môi. Tôi nhẹ nhàng đi về phía giường. Mùi ẩm mốc quyện vào dầu lạc làm khó thở. Biết tính, Đinh Hùng không bảo tôi nằm xuống như bao nhiêu bạn khác mà chỉ mời ngồi, rồi lại thản nhiên nằm nghiêng đối diện với ngọn đèn đỏ khè ngọn bấc.
Ở khoảng thời gian đó, Đinh Hùng đang đi vào Chiêu Niệm với sự nuối tiếc một hình ảnh hoang sơ man dại từ khi trái đất mới hình thành mà tất cả vạn vật đều trở thành thần tượng với vóc dáng thiên nhiên in hằn trong tâm tưởng. Vật chất đôi khi làm cho thi sĩ đớn đau nhớ tiếc khôn cùng. Tiếng khóc thê lương đòi về đáy mộ. Tấm hình hài nào đó với đường nét thanh tao, với nụ cười tắt nửa chừng, với đôi mắt lưu ly soi thấu vô cùng vũ trụ, và âm dương đòi tái hợp cuồng mê tâm tưởng! Ôi! Niềm giao ước hung tàn giữa kẻ chết, người sống, giữa cõi nhân gian và đáy mộ vực đen, giữa tiếc thương và hy vọng não nề. Đinh Hùng đi tìm tử thần bên cửa huyệt, hay “Trong giấc ngủ đẫm mùi hương phấn lạ”. Đinh Hùng phóng hồn mình vào cõi bi thương với lời van xin ứ nghẹn. Hùng cầu nguyện với tấm lòng trinh bạch như kẻ ngoan đạo nguyện cầu dưới chân đức Thích Ca hay Đức Jésus xin dâng hiến máu, tim mình cho nguồn sống thiêng liêng cao cả mà chẳng đòi nhận về ân tưởng. Trong cõi Mê cung, Hùng lạc vào với từng bước đắm say giữa “Nghìn yêu ma chung bước cõi luân hồi” với khúc hát Vong tình bay chót vót trên núi non mở hội oan hồn.
Trong không gian ấm mốc, giữa vùng mê hoặc của hương nha phiến, Đinh Hùng cất tiếng ngâm bài “Tìm bóng tử thần”. Giọng của Đinh Hùng sang sảng. Ánh đèn le lói với hoa bấc rung rinh. Tiếng thơ đã làm tôi rúng động và tôi đâu ngờ, 10 năm sau, tiếng ngâm thơ đó còn vang trên làn sóng điện, tạo niềm cảm thông sâu xa giữa Thơ và cuộc sống qua hội Tao Đàn.
Tôi thường đến thăm Đinh Hùng như thế, đôi khi với nhiều bạn khác. Hùng đã tạo cho mình một vị trí, vị trí đó, Hùng làm chủ suý với các người làm thơ tiến bộ tụ họp, trong số ấy có Trần Dần, Phùng Quán, Lê Văn Thanh, Bích Câu v.v…
Vì dấn thân quá sớm, nhất là dấn thân vào một địa hạt phức tạp đầy dẫy ưu phiền, Đinh Hùng đốt cháy thân phận chẳng những trên đầu ngọn bấc mà còn ở men rượu và sênh phách. Đinh Hùng huỷ hoại hoa niên trong những đêm dài Dạ Lạc qua các cửa Ô, cũng như đắm chìm vào đáy ly nồng đắng. Ở tuổi hoa niên, tôi quen nhiều bạn biết uống rượu, nhưng chưa thấy ai uống hào bằng Đinh Hùng và Văn Cao. Riêng Đinh Hùng có thể uống hai lít đế, không cần đồ nhắm. Vì thế, Hùng mới có gan đối ẩm với Tản Đà hằng nửa ngày trời.
Trong tháng ngày kháng chiến lênh đênh, chúng tôi gặp nhau ở chợ Đại thuộc Khu 3. Tôi và Hùng ngồi trong một quán nước. Hôm đó, không nhằm phiên chợ nên thật vắng vẻ. Những con đường bùn lầy, hố “tăng xê” ngập nước ở hai lối đi. Những mái lá cũ kỹ nằm trên hàng cột tre già láng bóng. Hùng cao giọng đọc thơ, những vần thơ mà kháng chiến không chấp nhận. Tôi gọi hai cút rượu uống cho ấm lòng. Chúng tôi vừa uống vừa thảo luận về thơ và nhắc đến Hà Nội mến thương cách trở. Chúng tôi gọi tên từng người bạn với u hoài kỷ niệm. Hùng kêu rượu nữa, rồi cho tay vào túi áo lấy một gói nhỏ. Hùng nhẹ nhàng mở ra, dốc dúm bột màu nâu sẫm vào lòng chén. Tôi nhìn Hùng mỉm cười. Hùng lạnh lùng rót rượu, lấy ngón tay trỏ khuấy nhẹ rồi ngửa mặt nuốt ực một hơi.
Sau chén rượu bất ngờ đó, tôi và Hùng chia tay. Nhưng bài thơ “Sông núi giao thần” của Hùng vẫn còn âm vang trong tôi như lời cầu nguyện:
“Trăng ơi đừng bỏ Kinh thành
Hồn Cố đô vẫn thanh bình như xưa
Nhỡn tiên chợt sáng Thiên cơ
Biết chăng ảo phố, mê đồ là đâu?…”
Sau thời gian lang thang khắp núi rừng Việt Bắc, bệnh sốt rét đã làm tôi phải trở về Khu 3 để tiếp nối những ngày vô định. Những con người văn nghệ thuở kháng chiến như những cánh chim trời bay lạc loài khắp nẻo. Gặp nhau đấy rồi xa nhau ngay, nên mỗi lần gặp, mỗi lần thương nhớ chẳng rời.
Nhân có cuộc họp văn nghệ, tôi và Hùng gặp lại nhau và cùng đi Đống Năm thuộc tỉnh Thái Bình. Lần này đi thêm hoạ sĩ Bùi Xuân Phái, người hoạ có dáng điệu khù khờ với bộ râu đỏ hoe mọc lởm chởm trên màu da trắng muốt.
Tôi nhớ buổi chiều hôm đó trời mưa bụi, chúng tôi lại ngồi uống rượu chờ tối để xuống đò. Mặt Hùng xanh mướt, một phần tại lạnh, một phần vì cơ cực. Chiếc trấn thủ màu cỏ già lem luốc, rộng thênh thang không làm ấm mảnh thân gầy phủ lên bộ quần áo nâu dính bùn bạc phếch. Ba chúng tôi khề khà cho đến lúc không gian mờ đục khuất chìm vào bóng đêm. Từng đốm lửa vàng hoe cháy hiu hắt đó đây. Hùng nhìn ánh đèn với nét mặt đăm chiêu.
Qua một đêm trắng nằm đò, chúng tôi lên bến Gián Khuất, đi Đống Năm, lướt qua bao nhiêu làng mạc, bao nhiêu cánh đồng và từng con đê dài thăm thẳm. Trong suốt cuộc hành trình Hùng nói rất nhiều về đủ mọi loại chuyện vui buồn. Hùng đọc thơ Baudelaire và rất thích cuộc sống của thi nhân này. Bài thơ mừng cô vợ da đen chết, Baudelaire lại được tự do, có thể lang thang uống rượu khắp nơi và ngủ ngon lành ở lề đường như con chó, làm Hùng cười sảng khoái.
Sau ba ngày đêm chung vui, chúng tôi lại nắm tay nhau giã từ. Hùng ở lại Đống Năm với Vũ Hoàng Chương để dạy học.
Vào năm 1949, áp lực chiến tranh mỗi ngày mỗi đè nặng vào vùng đất Liên khu 3. Những con chim trời bay tản mác khắp ngả để tìm nơi an lành trú ẩn. Thời gian trôi đi theo tiếng bom đạn cày nát quê hương đau khổ!
Đến cuối năm 50, Hùng trở về Hà Nội. Cuộc sống của Hùng có thay đổi, Hùng đã lập gia đình như lập trường thi ca vẫn y nguyên. Gánh nặng áo cơm và nguồn đam mê đến chết-không-rời quấn chặt lấy thân phận nhỏ nhoi đó mà hành hạ. Thiếu thốn thường xuyên nhưng Hùng vẫn giữ nguyên phong độ của kẻ sĩ. Hùng được một số bạn thương giúp đỡ nhưng sự giúp đỡ này chỉ như những gáo nước nhỏ tưới vào một vùng hạn hán trường kỳ. Cứ như thế, như thế, Hùng sống cho đến ngày di cư vào Nam với thi phẩm Mê hồn ca làm vốn liếng và hành lý.
Kể từ đó cuộc đời đối với Hùng đã phần nào đỡ khe khắt. Hùng cố gắng bằng đủ mọi cách như viết truyện dã sử dưới bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang, làm thơ trào phúng ký Thần Đăng, phụ trách mục Tao Đàn v.v… Cuối cùng Hùng đã ngã xuống với tiếc thương đòi đoạn và vĩnh viễn đi vào Cơn-mê-trường-dạ.
Đường vào tình sử còn dài lắm, Hùng đành bỏ dở, và có mái tóc nào buồn lênh đênh cho thuyền hồn thi nhân thả mộng?…
“Khi anh chết các Em về đây nhé
Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa
Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ
Tay cầm hoa, xoã tóc đứng bên mồ…”
(“Cung đàn tưởng niệm”, Đường vào tình sử)
Nói đến Đinh Hùng là nói đến cô đơn, là nói đến khát vọng. Nỗi cô đơn và niềm khát vọng đó in hằn trong kích thước thi ca mà Hùng đã dấn thân như người lính cảm tử. Hùng đã sống trọn vẹn và chung thuỷ đến lúc lìa đời với hướng đi tự nguyện. Bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu mật đắng do cuộc đời trao tặng, Hùng đem thiêu trên đầu ngọn lửa và nuốt trọn vào tim phổi mình với nguồn vui ảo giác. Hùng rất mực đa tình nhưng mối tình đầu oan trái với người em họ đã thui chột nụ hoa tình ái và biến Hùng thành cuồng bạo trong mỗi suy nghĩ về tình yêu.
Nói đến Đinh Hùng, không phải nói đến cái gì mới lạ, vì thi ca Việt Nam bây giờ đã vượt thoát khỏi trạng thái ước lệ, nó đi vào cõi mông mênh của Vô Thức. Từ Vô Thức nó trình bày Ý Thức Mới không hẳn là cố định nhưng, nó là thời đại chúng ta đang góp mặt. Nói về Đinh Hùng là nhắc đến một không gian cũ, là nói tới khoảng cách – ở đó – từ hiện tại trở lui về quá khứ, chúng ta vẫn nhìn rõ ánh sáng của ngọn Thần Đăng chói loà hào quang kỳ ảo.
Nguồn: Tạ Tỵ. Mười khuôn mặt văn nghệ. Nam Chi xuất bản lần thứ nhất, tác giả trình bày hoạt hoạ. Ngoài những bản thường có thêm 5 bản đặc biệt trên giấy Ngân Nhũ mang chữ T.T., L.N.. – P.T.Đ., C.T., và V.T.H., 100 bản trên giấy Bạch Ngọc mang số từ T.T. 001 tới T.T. 100, dành cho bạn hữu. In xong tại Kim Lai ấn quán ngày 1 tháng 8 năm 1970. Giấy phép sở P.H.N.T. số 621 BTT/PHNT ngày 19 tháng 2 năm 1970. Tác giả giữ bản quyền, 1970. Cùng một tác giả: Những viên sỏi (Tập truyện), Nam Chi Tùng Thư, 1962; Yêu và thù (Tập truyện), Tủ sách Nam Chi, Cơ sở Phạm Quang Khai xuất bản, 1970.
Bản điện tử do talawas thực hiện.
cop lại từ bên talawas.
Post hai bài thơ của Đinh Hùng mà Ớt và Phi Thiên Vũ nhắc ở còm bài trước để mọi người cùng đọc
4.
Em hết là em riêng của anh
Mà quên không nỡ, giận không đành
Hờn chưa giải thoát, ghen thành bệnh
Sảng sốt từng cơn nhớ bạo hành. ...
Đọc thơ: Trái Tim Hồng Ngọc
Em hết là em riêng của anh
Mà quên không nỡ, giận không đành
Hờn chưa giải thoát, ghen thành bệnh
Sảng sốt từng cơn nhớ bạo hành.
Nhớ bàn tay thẹn, mê từng ngón
Môi nhớ làn môi, vai nhớ vai
Hơi thở gọi nhau, hồn nhớ xác
Nhớ như thần phách lạc hình hài
Vang bóng từ chăn gối hiện hình
Dài tay bạch tuộc mắt hồ tinh
Vòng ôm giam lỏng thân tù phạm
Mê hoặc lời yêu nói một mình.
Anh chắp tay van dáng tượng sầu
Người em mây tỏa gót chân đau
Xin cho da thịt là sương khói
Quyền phép đôi ta vẫn nhiệm mầu.
Em vẫn là trăng xa rất xa
Là sao Thiên Trúc, cát Hằng Hà
Dáng em thu nhỏ trong lời nguyện
Phơ phất hồn thiêng cánh bướm ma
Gót nhỏ lên thuyền một kiếp xưa
Em về trăng mọc bến chân như
Người em hơi thở say mùi huệ
Mây trắng vương buồn mắt thái sơ
Tia mắt nhìn nhau buốt thịt da
Niềm đau nhập thế vút bay xa
Em không hình sắc, anh vô thể
Bốn cánh tay vươn khúc độc xà.
Anh trốn sao đêm, lẩn mặt trời
Ghê từng ý gió, sợ hoa rơi
Chao ôi! Mỗi cánh sương run rẩy
Nghe cũng vang âm giọng nói Người.
Anh vẫn là anh xưa của em
Lắng sâu chiều máu hạt sao chìm
Hồi âm mỗi huyết cầu gieo lửa
Thể chất còn rung khối hợp kim
Cả xác thân anh giữa kiếp này
Thoát đi từng phút chết từng giây
Và em thân xác tràn yêu mị
Tỏa chiết hồn anh gãy cánh bay
Và thể xác anh giữa cuộc đời
Tiêu ma vào thạch động làn môi
Vì trong cấm địa hàm răng ấy
Huyệt lạnh kề bên mỗi nụ cười
Hãy áp môi trên phiến đá mòn
Loài hoa mộ chí cánh thoa son
Vầng trăng đáy huyệt xanh trong mắt
Nghe biển mưa sao, gió gọi hồn.
Em vẫn là em mây núi xanh
Màu hoa sắc đá dệt nên hình
Nửa hàm răng: Một phương trời sáng
Áo kết tinh vân một nửa mình
Một nửa mình xuân vẫn lạc loài
Thương em chưa tận nhập phàm thai
Hỡi ơi gương mặt từ vô cực
Máu chửa tô hồng, lệ đã phai
Ta đã mê tìm suối tử quang
Từ trong hứa địa trái tim nàng
Mắt em lẩn những tia hồng ngoại
Ký hiệu vùi sâu đáy cẩm nang
Em đến cùng trăng đi với sao
Chuôi sao tinh đẩu lặn phương nào
Ngược chiều quỹ đạo thương đài trán
Thành quách hư vô lạc lối vào
Em đến cùng hoa, đi với hương
Mùi hương đoạt mệnh, gió quên đường
Nét đau huyền bí ngời da thịt
Linh dược bàn tay liệm vết thương
Nghìn lẻ một đêm mộng thắp đèn
Hồn đi vào giấc ngủ hoa sen
Nền mây bích họa sương vờn bóng
Điên đảo trời sao mắt lượn thuyền
Sóng mắt trôi dòng nhạc khởi nguyên
Em từ bao kiếp dựng lời nguyền?
Màu xanh ý niệm chưa thành bướm,
Nhịp bước em vào tiết điệu Quên
Mê nửa trái tim, say nửa hồn
Nào ngờ phép lạ phút trao hôn
Quyền uy ma lực hàng mi khép
Cuồng tín anh quỳ xuống tạ ơn
Xin tạ ơn khí hậu nhập thần
Chan hòa đôi cánh mộng tình nhân
Tạ ơn những ngón tay tiền định
Mười phím thăng hoa lặng ghép vần
Xin tạ ơn thời khắc dị thường
Đưa tình thương tới gặp tình thương
Trăng sao kết hợp thành ngôn ngữ
Cung bậc vàng gieo một thoáng sương
Cuồng loạn âm giai má hải đường
Gọi nhau say chết giữa mùi hương
Tên em nửa lắng vào vô thức,
Nửa đọng trên vành môi xót thương
Thương quá chừng thương, nhớ lạ đời
Từ mùi xiêm thoảng đến làn hơi
Nhớ in vóc dáng, bừng gương mặt
Hằn nét mày chau, rợn nét cười
Thương tột cùng thương, nhớ tuyệt vời
Tự ngoài muôn kiếp tới xa khơi
Thầm hôn dáng mộng, thương không nói
Ghì chặt không gian, nhớ vóc người
Thương tuyệt trần thương, nhớ lạ lùng
Mới kề khuôn ngực, hẫng vòng lưng
Khi ăn, niệm bóng sang ngồi cạnh
Lúc ngủ, chiêu hồn tới ngủ chung
Nước mắt thương nhau tưởng cạn nguồn
Nào ngờ biển lạ dấy từng cơn
Ngày dâng địa chần, đêm hồng thủy
Khát vọng cuồng lưu tiếp hỏa sơn
Từ trái tim em, huyết mạch anh
Vết thương mặc khải vẫn chưa lành
Cách nhau lưu vực hai dòng máu
Lửa hết thiêng rồi, ngọc hết xanh
Người em tóc xõa liên hành tinh
Bắc Đẩu nghiêng vai áo tự tình
Dòng lệ thủy cầu lau chẳng ráo,
Gục đầu, mây đỏ gót băng trinh
Thương em áo mỏng xuân mười chín
Tàn kiếp thiêu thân: Xác ấu trùng
Cánh lửa đêm xanh hồn ác điểu
Nhìn nhau hình tướng bỗng hư không
Từ tế bào anh, huyết mạch em
Đại dương cuồng nộ, thái dương chìm,
Mây bay cháy thảo nguyên vầng tóc
Và mắt tinh cầu loạn bóng đêm
Hài cốt lung linh gấm phủ hồn
Lìa vai tinh thể khóc cô đơn
Gợn màu lăng kính trăng kinh dị
Chắn nẻo luân hồi cánh cửa son
Anh sẽ hồi sinh, em tái sinh
Hòa đôi thể chất một thân hình
Giác quan biển động mưa đồng thiếp
Trên thịt da đau núi quặn mình
Thế hệ đầu tiên của chúng ta,
Mắt em sao rụng sáng thiên hà
Tình sầu khoác áo xuân Đông Hải
Khép mở càn khôn nửa mặt hoa
Ôi nét mi trầm, mắt ngọc châu!
Vành môi tôn nữ đóa hôn đầu
Nụ hôn quận chúa nồng hương xạ
Bỗng nét môi hờn vĩnh biệt nhau
Em vẫn là em xưa của anh
Dù xa hải đảo, cách trường thành
Của anh, vẫn trái tim hồng ngọc
Lửa sáng huyền cơ mắt phượng xanh
Anh sẽ quên, và anh vẫn thương
Dù sa địa ngục, mất thiên đường
Tiếng ca này mọc dần xương thịt
Lồng ngực thanh tuyền lưới nhện vương
nguồn: thivien.net
5.
Em đến hôm nào như hoa bay
Tình không độc dược mà đắng cay
Mùa thu tàn nhẫn từ đôi mắt
Mùi hương sát nhân từng ngón tay
Đọc thơ: Hờn Giận
Em đến hôm nào như hoa bay
Tình không độc dược mà đắng cay
Mùa thu tàn nhẫn từ đôi mắt
Mùi hương sát nhân từng ngón tay
Em đến hôm nào như mây bay
Gió mưa triền miên từ nét mày
Đường vào lòng nhau toàn sạn đạo
Bước chân tha hương từ dấu giầy
Anh rỏ đôi dòng nước mắt say
Trao em, không ướt trọn vòng tay
Chiều đi, vai thấm đầy sương núi
Lệ cũng phai hương tự lúc này
Anh tiễn em sang giấc mộng nào?
Giận lây tà áo cưới chiêm bao
Lời nguyền không buộc vào mây sớm
Em có nghe tình khóc dưới sao?
Em đến, trăng rằm xanh bóng mây
Em đi, trăng hờn cong nét mày
Chiều qua, má hồng còn thơ ngây
Chiều nay, hàng mi sương xuống đầy
Thương nhau, gói trọn hồn trong áo
Mất nhau từ trong tà lụa bay
Mắt ngại nhìn nhau từng đêm dài
Nhoà hương kỷ niệm, tóc thu phai
Dòng sông bơ vơ tìm dĩ vãng
Thuyền trôi bâng khuâng về tương lai
Anh hận bình minh, ngờ nắng hồng
Hờn ghen bao nhiêu hoa mùa xuân
Sánh vai nhưng không là vợ chồng
Kề môi vẫn không là tình nhân
Cười vỡ giấc mê đêm hợp cẩn
Vò nhàu mái tóc đêm tân hôn
Sính lễ không hoà đôi linh hồn
Đính ước không chung lòng cô đơn
Thầm trách vầng trăng không biết sầu
Ngàn sao theo em bay về đâu?
Oán cả không gian, thù cả mộng
Ghen cả trời xanh trong mắt nhau
Em đến hôm nào, mưa trên vai
Chiều thu, sương đượm nét mi dài
Nụ cười rung cánh hoa hờn giận
Trong mắt em còn bóng dáng ai?
Nguồn: Đinh Hùng, Đường vào tình sử, Nam Chi xuất bản, 1961
thivien.net
Anh ơi ! Em xin bài Trái tim hồng ngọc nha ???
Trả lờiXóaThanks anh !
Hối lộ nè !
http://i1249.photobucket.com/albums/hh509/Chuonchuonot2010/Food-drink/siyah_cay_gul_676581_zpseb29b83e.jpg
tks em nhé
Xóa