29/12/24

Hành trình khai sinh quốc hiệu Việt Nam


TRẦN ĐỨC ANH SƠN  17/03/2024 08:30

Tên gọi Việt Nam lần đầu tiên chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta vào năm 1804. Định danh này được xác lập bởi một văn bản pháp lý quan trọng, là chiếu của nhà Nguyễn, niên hiệu Gia Long thứ 3, cách đây tròn 220 năm.

quoc-hieu-02.jpg
Bia Thủy Môn đình [gốc] trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn. Ảnh: Hồng Vân

Từ quan ngại của nhà Thanh

Sau khi đánh bại vương triều Tây Sơn (1788 - 1802), năm 1802, Nguyễn Ánh, hậu duệ của các chúa Nguyễn từng cai trị đất Đàng Trong lên ngôi vua, lập nên triều Nguyễn. Nhà vua chọn Huế làm kinh đô, lấy niên hiệu là Gia Long.

Tháng Một năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long sai Lê Quang Định cầm tờ biểu theo đường Nam Quan sang nhà Thanh xin phong vương. “Quốc sử quán triều Nguyễn”, “Đại Nam thực lục” ghi lại, nhà vua ra lệnh mang quốc thư và phẩm vật sang thỉnh phong, xin đổi quốc hiệu làm Nam Việt.

Trước đó, sau khi thu phục Phú Xuân và tiến quân ra Bắc truy đuổi tàn quân Tây Sơn của Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản, vua Gia Long đã gửi thư sang Trung Hoa để tìm cách giao thiệp với Thanh triều và xin được công nhận là quốc vương của triều đại mới. Trong thư gửi Thanh triều, ông tự xưng là Nam Việt quốc vương.

Kế đến, trong biểu cầu phong do Lê Quang Định cầm sang trình lên Thanh đế, khi thấy vua Nguyễn dùng niên hiệu Gia Long (嘉隆), nhà Thanh đặt câu hỏi: phải chăng niên hiệu của quốc trưởng ở phương Nam tỏ ý bao trùm niên hiệu của hai hoàng đế nhà Thanh là Càn Long (乾隆) và Gia Khánh (嘉慶)?

Sứ thần nước ta đã vội vàng cải chính rằng: đó chỉ là gộp hai tên Gia Định (嘉定) và Thăng Long (昇隆), để thể hiện đất nước đã được thống nhất, trải từ Gia Định đến Thăng Long. Mặc dù cái tên Thăng Long, là kinh đô của Đại Việt từ thế kỷ 10 đến lúc đó, là 昇龍, được viết với chữ Long (龍) nghĩa là “rồng”, không phải Long (隆), nghĩa là “hưng thịnh”, như chữ Long (隆) trong niên hiệu Càn Long.
Sự kiện trên cùng với việc vua Gia Long tự xưng là Nam Việt quốc vương (trong trần tình biểu gửi Thanh triều), đã khiến Thanh đình dấy lên những quan ngại.

Tên chính đại, chữ tốt lành

Tờ dụ của hoàng đế Gia Khánh, ngày 20 tháng Chạp năm Gia Khánh thứ 7 (1802), cho rằng, cái tên Nam Việt bao trùm rất rộng. Khảo sử trước đây, hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây cũng nằm trong đó.

anh-bai-ngan.jpg
Con dấu Việt Nam quốc vương chi ấn (nhà Thanh ban cho vua Gia Long). Nguồn: Pierre Daudin

Tiếp sau đó, trong tờ dụ các quân cơ đại thần ngày 6 tháng Tư năm Gia Khánh thứ 8 (1803), hoàng đế Gia Khánh dụ rằng: “Việc (vua Gia Long) xin đặt tên nước là Nam Việt, thì nước này trước đây có đất cũ Việt Thường, sau lại được toàn lãnh thổ An Nam; vậy Thiên triều phong quốc hiệu cho dùng hai chữ Việt Nam (越南); lấy chữ Việt (越) để đằng trước tượng trưng cương vực thời xưa; dùng chữ Nam (南) để đằng sau, biểu tượng đất mới được phong; lại còn có nghĩa là phía nam của Bách Việt; không lẫn lộn với tên nước cũ Nam Việt. Một khi tên nước đã chính, nghĩa của chữ cũng tốt lành; vĩnh viễn thừa hưởng ân trạch của Thiên triều”.

Việc hoàng đế Gia Khánh của nhà Thanh chấp thuận phong vương cho vua Gia Long và đồng ý cho nước ta đổi quốc hiệu, được “Đại Nam thực lục” chép như sau: “(...)

Trước đây vốn đã có đất Việt Thường nên tự xưng là Nam Việt. Nay lại có toàn cõi An Nam, tên cần phải theo thực nên cần phải đem cả cương thổ trước sau gộp lại, lúc mở đầu ban cho cái tên đó để tỏ sự tốt lành.

Vì thế nên định là chữ Việt để lên trước, biểu thị nước ta kế thừa đất xưa mà hưởng tiếng tốt cũ, còn chữ Nam để xuống sau, biểu tượng việc nước ta mở rộng xuống cõi nam mà được tích mệnh mới. Tên như thế chính đại, chữ lại tốt lành, so với tên cũ đất Lưỡng Việt của nội địa có chỗ phân biệt”.

Vậy là, quốc hiệu Việt Nam ra đời trong một bối cảnh lịch sử rất đặc biệt. Đến tháng 2 năm Giáp Tý (tháng 3/1804), Việt Nam chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta.

Về sự kiện này, “Đại Nam thực lục” chép: “Tháng Hai (năm Giáp Tý 1804), ngày Mậu Thìn, (vua Gia Long) xa giá đến kinh sư. Ngày Quý Dậu, vua yết ở Thái Miếu… đặt quốc hiệu là Việt Nam. Ngày Đinh Sửu đem việc cáo Thái Miếu. Lễ xong vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo ở trong ngoài”.

Tờ chiếu tuyên đặt quốc hiệu Việt Nam do vua Gia Long ban hành, có đoạn viết: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước.

Hơn 200 năm nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng, chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam đều vào bản tịch.

Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới nên định lấy ngày 17 tháng Hai năm nay (1804) kính cáo Thái Miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa.

Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”.

Như vậy, năm 2024 này, quốc hiệu Việt Nam đã tròn 220 năm.

https://baoquangnam.vn/hanh-trinh-khai -sinh-quoc-hieu-viet-nam-3131355.html


https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/309

28/12/24

Vertigo

 VERTIGO

phim của Hitchcock
.
Những người trên dưới 70 sống ở Nam chắc ít ai không nghe đến Hitchcock. Hôm nay ngồi xem lại Vertigo ko còn thấy sớn gai như xưa, chỉ thấy bồi hồi như gặp lại người bạn thân đã xa cách rất lâu. Đây là bộ phim xếp hạng #9 trong danh sách 100 phim hay nhất của AFI năm 2007. Ở Anh, có năm phim Vertigo đã được xếp hạng #1 trong danh sách 100 phim hay của Viện Phim Anh (BFI), qua mặt Citizen.
---
Lại nhờ Chat GPT
Giới thiệu phim “Vertigo” (1958)
“Vertigo”, tạm dịch là “Chóng mặt”, là một tác phẩm kinh điển của đạo diễn lừng danh Alfred Hitchcock. Ra mắt năm 1958, bộ phim thuộc thể loại tâm lý, ly kỳ (psychological thriller) và được đánh giá là một trong những kiệt tác vĩ đại nhất trong lịch sử điện ảnh.
Nội dung chính:
Bộ phim kể về Scottie Ferguson (do James Stewart thủ vai), một cựu thám tử bị buộc phải nghỉ hưu sau khi mắc chứng sợ độ cao và chứng chóng mặt. Scottie được một người bạn cũ thuê để theo dõi vợ mình, Madeleine Elster (Kim Novak), vì nghi ngờ cô đang bị ám ảnh bởi một linh hồn quá khứ.
Trong quá trình theo dõi, Scottie bị cuốn vào tình yêu với Madeleine, nhưng câu chuyện nhanh chóng chuyển hướng khi bi kịch xảy ra. Tuy nhiên, mọi thứ không phải như vẻ ngoài. “Vertigo” đưa khán giả vào một hành trình tâm lý phức tạp, nơi sự ám ảnh, tình yêu, và tội lỗi hòa quyện, dẫn đến một cái kết bất ngờ và đau đớn.
Điểm nhấn nghệ thuật:
1. Đạo diễn thiên tài: Alfred Hitchcock khai thác tâm lý nhân vật một cách sâu sắc, đưa người xem chìm đắm trong cảm giác bất an và hồi hộp.
2. Kỹ thuật quay phim độc đáo: “Vertigo” nổi tiếng với hiệu ứng “dolly zoom” – kỹ thuật thị giác tạo cảm giác chóng mặt khi Scottie đối diện với nỗi sợ độ cao.
3. Âm nhạc: Nhạc phim do Bernard Herrmann soạn thảo, với giai điệu huyền bí, đầy cảm xúc, đã góp phần tạo nên không khí căng thẳng, lãng mạn và ám ảnh.
4. Hình ảnh biểu tượng: Phim sử dụng màu sắc, ánh sáng và khung hình một cách tinh tế, tạo nên những cảnh quay đẹp như tranh vẽ nhưng đầy ẩn ý.
Di sản và thành tựu:
• “Vertigo” ban đầu nhận được ý kiến trái chiều khi ra mắt nhưng dần được công nhận là kiệt tác.
• Năm 2012, bộ phim được tạp chí Sight & Sound xếp hạng số 1 trong danh sách 100 phim hay nhất mọi thời đại, vượt qua cả “Citizen Kane.”
• Được lưu trữ tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vì giá trị văn hóa, lịch sử và thẩm mỹ.
Tại sao “Vertigo” là kiệt tác?
“Vertigo” không chỉ là câu chuyện về một vụ án hay một mối tình đầy bi kịch, mà còn là sự khám phá sâu sắc về bản chất của tình yêu, ám ảnh, và nỗi sợ hãi trong tâm hồn con người. Đây là bộ phim không chỉ khiến người xem choáng ngợp bởi sự hồi hộp mà còn khiến họ phải suy ngẫm mãi về những ý nghĩa ẩn sâu bên trong.
Nếu bạn yêu thích những bộ phim khai thác tâm lý con người, “Vertigo” chắc chắn là một tác phẩm không thể bỏ qua!
*

27/12/24

SCHINDLER'S LIST

 SCHINDLER'S LIST

Đây là bộ phim xếp hạng #8 trong 100 phim hay nhất của AFI.
Nhờ Chat GPT viết bài giới thiệu phim
---
Giới thiệu bộ phim “Schindler’s List”

“Schindler’s List” là một tác phẩm điện ảnh xuất sắc của đạo diễn Steven Spielberg, ra mắt năm 1993, dựa trên cuốn tiểu thuyết “Schindler’s Ark” của Thomas Keneally. Bộ phim kể về câu chuyện có thật của Oskar Schindler, một doanh nhân người Đức, người đã cứu sống hơn 1.100 người Do Thái trong thời kỳ Holocaust bằng cách tuyển họ làm công nhân trong các nhà máy của mình.

1. Nội dung
Bộ phim lấy bối cảnh Thế chiến thứ hai tại Ba Lan, khi chế độ phát xít Đức đang thực hiện cuộc diệt chủng tàn bạo đối với người Do Thái. Ban đầu, Oskar Schindler (do Liam Neeson thủ vai) chỉ là một doanh nhân cơ hội, lợi dụng chiến tranh để làm giàu. Tuy nhiên, sau khi chứng kiến sự tàn bạo của phát xít Đức, ông đã thay đổi. Schindler dùng tài sản của mình để bảo vệ hàng trăm người Do Thái bằng cách thuê họ vào làm việc trong các nhà máy của mình, qua đó tránh được nguy cơ bị đưa đến trại tập trung.

2. Điểm nhấn nghệ thuật
Bộ phim được quay chủ yếu bằng màu đen trắng, tạo nên không khí bi thương và chân thực. Chỉ một vài chi tiết được tô màu, nổi bật là hình ảnh chiếc áo đỏ của một bé gái, như một biểu tượng đau thương và bất lực trước sự tàn ác của chiến tranh. Âm nhạc của nhà soạn nhạc John Williams cũng góp phần tạo nên sức lay động mạnh mẽ cho bộ phim.

3. Giá trị nhân văn
“Schindler’s List” không chỉ là một câu chuyện về sự cứu rỗi mà còn là một bài học sâu sắc về lòng nhân ái và sức mạnh của một cá nhân trong việc đối mặt với những tội ác lớn lao. Bộ phim tôn vinh những hành động quả cảm và nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của việc đấu tranh chống lại bất công.

4. Thành tựu
Bộ phim giành được 7 giải Oscar, bao gồm Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất, cùng nhiều giải thưởng danh giá khác. “Schindler’s List” không chỉ là một kiệt tác điện ảnh mà còn là một di sản văn hóa quan trọng, giúp thế giới không quên những bài học đau thương của lịch sử.

Kết luận
“Schindler’s List” là một bộ phim không chỉ dành cho những người yêu thích điện ảnh mà còn cho tất cả những ai muốn hiểu rõ hơn về sức mạnh của lòng trắc ẩn trong những thời khắc tăm tối nhất của nhân loại. Đây là một tác phẩm kinh điển mà bất kỳ ai cũng nên xem ít nhất một lần trong đời.

--
Coi phim: https://www.phimconggiao.com/ban-danh-sach-cua-schindle/xem-phim/9545?

Thu nhật ngẫu thành

秋日偶成
千村木葉盡黃落,
獨立西風拂鬢絲。

歲月堂堂留不得,
昨非今是只心知。
阮子成

Âm

Thiên thôn mộc diệp tận hoàng lạc,
Độc lập tây phong phất mấn ti.
Tuế nguyệt đường đường lưu bất đắc,
Tạc phi kim thị chỉ tâm tri

Nghĩa

Khắp các thôn xóm lá cây đều vàng và rụng hết,
Đứng một mình, ngọn gió tây thổi bay mấy sợi tóc mai.
Năm tháng lừng lững qua không giữ được,
Trước sai nay đúng chỉ lòng mình biết.

Tạm dịch

Khắp xóm lá vàng rơi lả tả,
Một mình gió thoảng tóc bay bay.
Tháng năm lừng lững đi không đợi,
Phải quấy chuyện đời lòng tự hay.

Giản thể

千村木叶尽黄落,独立西风拂鬓丝。
岁月堂堂留不得,昨非今是只心知

Chú.

-          秋日偶成 Thu Nhật Ngẫu Thành Bài thơ ngẫu nhiên viết vào ngày thu. 偶成 ngẫu thành: Tình cờ mà làm xong. Cụm từ thường dùng nơi nhan đề nhiều bài thơ xưa, ý chỉ bài thơ làm trong lúc bất chợt có cảm xúc.

-          千村 thiên thôn: Nghìn làng. 木葉 mộc diệp: Lá cây. 盡黃落 tận hoàng lạc: Vàng và rụng hết. : Hết, toàn bộ.

-          獨立 độc lập: Đứng một mình. 西風 tây phong: Gió Tây. 拂鬢絲 phất mấn ti: thổi nhẹ tóc mai. : Vuốt, phẩy. 鬢絲 mấn ti: Tóc mai. Mấn: tóc mai, ti: tơ. Hình dung tóc mai như những sợi tơ, nên gọi tóc mai là mấn ti.

-          歲月 tuế nguyệt: Thời gian. 堂堂 đường đường: Chỉ khí thế mạnh mẽ; lừng lững. 留不得 lưu bất đắc: Không thể giữ lại.

-          昨非今是 tạc phi kim trị: Hôm qua sai, hôm nay lại đúng. Chỉ chuyện thị phi khôn lường. 只心知 chỉ tâm tri: Chỉ có lòng biết.

阮子成 sống vào đời Trần. Quê quán, năm sinh, năm mất cùng sự nghiệp của ông dều chưa rõ, chỉ còn 11 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.

26/12/24

NHL. Người cải chính nhiều sự hiểu lầm về Trung quốc

NGUYỄN HIẾN LÊ,
NGƯỜI CẢI CHÍNH
NHIỀU SỰ HIỂU NHẦM VỀ TRUNG QUỐC.
==
Dưới đây là một bài viết tôi đưa trên mạng từ 26.12. 2018, tức là 6 năm trước. Nhờ mục KỶ NIỆM mà tìm lại được xin chân thành cám ơn. Do thấy bài viết vẫn phù hợp với tinh thần hiện nay, nên xin đưa lại.
----
Đóng góp của Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984) trong khoa Trung quốc học là ở chỗ tận dụng ưu thế thời đại mang lại cho nó một cái nhìn khác các bậc tiền bối. Xuất thân từ Tây học, song ông lại có thời gian về học với người bác là một bậc thâm nho, nhờ đó bồi đắp cho mình cái vốn Hán học chắc chắn. Trong suốt cuộc đời ông luôn luôn có cái nhìn phối hợp Đông Tây khi cần xem xét các vấn đề cơ bản mà người trí thức phải đối mặt.
Hai cuốn sách quan trọng của Nguyễn Hiến Lê làm theo hướng này là bộ Sử Trung Quốc, và bộ đôi Khổng Tử - Luận Ngữ.
Cái nhìn của ông là từ bên ngoài và không phụ thuộc vào cách giải thích của chính người Trung Quốc.
Nhưng ông vẫn biết tìm ra những khía cạnh tốt đẹp mà cả Đông và Tây, cổ điển và hiện đại đều phải công nhận.
Ông cải chính nhiều sự hiểu nhầm về Trung quốc.
Chúng tôi sẽ lược lại một số ý trong cuốn Sử Trung Quốc bàn về chính trị mà chúng tôi thấy tâm đắc nhất, và những lời bàn chung quanh khái niệm dân ở Nho học, là những điều hiện mang tính thời sự.
TRỊ QUỐC CHI ĐẠO (I)
Một lần ở một hiệu sách thuộc ga Bắc kinh, tôi thấy một cuốn sách dày cộp mang tên như trên. Chợt nhận ra việc quản lý quốc gia ở nước Trung Hoa cổ được ghi chép rất đầy đủ và nâng lên tới trình độ một bộ phận quan trọng trong văn hóa.
Đọc cuốn sách Sử Trung quốc Nguyễn Hiến Lê viết cuối đời, càng thấy rõ điều đó.
-- Tần Thủy Hoàng độc tài chuyên chế. Ông giết trí thức. Nhưng đó không phải là cách cai trị lưu manh vô học. Đã tin dùng trí thức nào ( thừa tướng Lý Tư) là dùng đến triệt để. Đốt sách, kể cả Tứ thư Ngũ Kinh nhưng là đốt những bộ tạp nham, trong khi vẫn tàng trữ một bộ trong triều đình ( tr103, bản Sử TQ của Nxb Tổng hợp TP HCM,2006). Với những điều luật bắt buộc thư đồng văn xa đồng quỹ, ông ta có công đưa mọi sinh hoạt của quốc gia vào nền nếp. Các trường học dưới thời ông dạy rất kỹ môn pháp luật quốc gia.
-- Thời Tiên Tần, TQ đã có những nhân vật quản lý xã hội đầy tài năng và có tư duy hiện đại như Quản Trọng, Thương Ưởng. Trung Quốc cuối thế kỷ XX cũng đang lặp lại nhiều biện pháp của Thương Ưởng.
-- Triệu Khuông Dẫn vua nhà Tống được quân lính đặt lên ngai vàng nhưng công việc đầu tiên khi lên ngôi là đặt văn quan trên võ quan và hạn chế quyền lực của các chỉ huy quân đội.
(Nói như sách Các nền văn minh thế giới—Lịch sử & văn hóa thì ngay từ đời Đường, người Trung Hoa đã tin chắc rằng các chế độ quân sự không hợp với một quốc gia có chuẩn tắc và văn minh.)
-- Trong các biện pháp cải cách của Vương An Thạch đời Tống cũng có nhiều việc rất hiện đại, chẳng hạn khi tuyển dụng quan lại chỉ huy các việc nông điền thủy lợi không dùng người văn hay chữ tốt vừa đỗ đạt mà thiên về dùng người có chuyên môn tức có kinh nghiệm.
-- Sau các chiến thắng quân sự lẫy lừng, chế độ cai trị mà Hốt Tất Liệt áp đặt lên xã hội Trung Hoa hết sức tùy tiện “triều đình là một mớ hỗn độn vô tổ chức, hiệu lệnh ban ra địa phương không nghe; mỗi gia đình đại thần tự làm chính trị, mỗi người tự coi là quốc gia “ ( tr396-397)
-- Trong số lý do khiến Mãn Thanh về sau thành công, có lý do này -- “ triều đình ít can thiệp vào đời sống của dân “ ( tr 481), “ đất đai mênh mông mà số quan lại rất ít” (tr482). Ở trang 497 còn ghi rõ hơn 450 triệu dân chỉ có 100.000 quan lại.
TRỊ QUỐC CHI ĐẠO (II)
Các xã hội chiến tranh là những xã hội tham nhũng nặng nề. Lần đầu tiên tôi biết điều đó là từ phần viết về nhà Nguyên trong cuốn Những bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung quốc, của nhóm Cát Kiếm Hùng, bản tiếng Việt của nhà sách Văn Lang 2004.
Nhưng mới đây đọc lại hóa ra các sử gia chuyên về sử Trung quốc đã viết về tình trạng thiếu pháp luật và tham nhũng của các chính quyền quân sự từ lâu.
Như Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi đã viết trong cuốn Hàn Phi Tử -- Bản của Nxb Văn hóa 1997—tr 29:
Bắt đầu ngay từ thời Chiến quốc, thời các chư hầu đánh lộn lẫn nhau,
“quan lại đa số tham nhũng: Tư Mã Thiên trong bộ Sử ký thiên 119 chỉ chép truyện của năm vị quan tốt, mà thiên 122 chép truyện của mười tên quan xấu (chữ Hán gọi là khốc lại).
Kẻ sĩ tranh nhau ăn tới mức Phạm Tuy tể tướng Tần, tư cách chẳng cao đẹp gì mà cũng phải ví họ với bầy chó của vua Tần: “( khi bình thường) nằm thì cùng nằm, đi thì cùng đi, ngừng thì cùng ngừng, không cắn nhau; nhưng hễ ném cho chúng một khúc xương thì chúng vùng dậy, nhe nanh ra cắn nhau. Chỉ tại tranh ăn.
..Xã hội từ trên xuống dưới đầy trộm cướp “.
QUAN LẠI XUẤT THÂN TỪ DÂN NGHÈO
CÀNG DỄ THAM NHŨNG
Trong việc làm bộ sử Trung quốc, Nguyễn Hiến Lê dựa nhiều vào các nhà sử học phương Tây, nhưng bao giờ cũng dẫn họ ra rất đầy đủ sau đó có ý kiến riêng của mình.
Ví như quanh chuyện quan lại và tham nhũng ở Trung quốc. Lối tuyển người làm quan ở đây là qua khoa cử, nó có cái mạnh là tránh đi vào cha truyền con nối của quý tộc châu Âu, và đấy là điều khiến cho Voltaire cũng từng khâm phục.
Nhưng một nhà nghiên cứu là Eberhard lưu ý ta một điểm khác.
Ông này khi nghiên cứu về các đời Đường Tống đã nói rằng nguồn gốc của tệ tham nhũng là do quan lại được trả lương quá thấp.
Khi nghiên cứu sang thời Minh, Eberhard lại lưu ý càng đám quan lại xuất thân từ các tầng lớp dân nghèo, do đỗ đạt mà thành quan càng dễ tham nhũng. Tại sao? Muốn đỗ thì phải hối lộ quan trường, đỗ rồi muốn được bổ dụng thì phải đút lót nhà quyền quý... Đến lúc ra làm quan thì phải tham nhũng để thu hồi vốn và trả nợ.
Chép lại nhận xét này của Eberhard ( tr. 441), Nguyễn Hiến Lê tỏ ý không tin.
Nhưng tôi thì lại thấy rất tin vì nó giúp tôi giải thích tình hình quan chức thời nay.
CHUNG QUANH KHÁI NIỆM DÂN TRONG NHO HỌC
Đây là một điểm mà theo tôi Nguyến Hiến Lê có cách hiểu khác hẳn với đa số chúng ta hiện nay và ông đã giữ quan niệm này cho tới cùng.
Nguyễn Hiến Lê - Cuộc đời và tác phẩm là tên một cuốn sách của Châu Hải Kỳ. Có lẽ ở Việt Nam ít ai được hạnh phúc như Nguyễn Hiến Lê. Từ trước 1975, ông được người bạn ở xa là Châu Hải Ký theo dõi từng bước đi.
Những năm cuối cùng trong cuộc đời Nguyễn Hiến Lê lại được ông Châu tiếp tục quan tâm và nhất là đoạn miêu tả về cái chết của Nguyễn Hiến Lê rất cảm động.
Riêng tôi, đặc biệt chú ý tới trang 431, của cuốn sách tiểu sử này, ở đó Châu Hải Kỳ viết "kết thúc chương chót này, tôi xin cầu xin ông cho phép tôi trưng ra một đoạn thư trích" có liên quan tới việc dạy học của Khổng tử. Chữ họ sau đây là chỉ các học giả Hà Nội
“...Họ không đọc gì hết mà phê bình thì mình bắt bẻ làm quái gì, phí công. Chẳng hạn trong Nhà giáo họ Khổng, tôi nói rõ rằng trước Khổng chỉ có những trường của triều đình cho con quý tộc học, Khổng là người đầu tiên mở trường tư dạy bất kỳ hạng người nào, từ kẻ nghèo, chỉ mang lại một gói nem; và ông dạy như vậy chú ý để đào tạo hạng bình dân có học thay bọn quý tộc vô học trong việc trị nước. Công ông lớn lao như vậy mà họ chê là phong kiến, thì nhắc tới họ làm gì cho phí giấy. Thôi đi anh ơi (…)”
Sở dĩ Châu Hải Kỳ phải đưa đoạn này ở cuối sách và Nguyễn Hiến Lê tự nhiên có giọng bi phẫn, là vì ở đây chạm tới một đề tài hình như quan trọng nhất của Nguyễn Hiến Lê là Khổng giáo.
Theo cách trình bày của các học giả Hà Nội, thì Khổng tử đáng muôn lần căm giận, vì đã khinh bỉ nhân dân, đề cao sự thống trị của bọn ngụy quân tử. Nói chung là người ta không chú ý tới khái niệm dân mà Khổng tử đã đề cập. Khi nói tới Nho giáo thì người ta chỉ nói đến chữ Lễ, Trung, đầy tính ràng buộc, và bằng cách đó thì bảo đảm uy quyền của giai cấp thống trị.
Nhưng trong các tài liệu viết về đạo Khổng mà Nguyễn Hiến Lê gặp lại ở phương tây thì ông lại thấy một điều ngược lại, và ông đã trình bày trong nhiều tập sách, cuối cùng là tập trung ở cuốn Khổng tử mà ông soạn trong thời gian từ sau 1975.
Như đoạn trên đã viết, chính ra Khổng tử là người đã rất gần gũi với người dân bình thường.
Ông biết rằng việc cai trị cần đến kiến thức nên đã dân chủ hóa kiến thức, và sẵn sàng mang lại những kiến thức quyền lực truyền đạt đến người dân thường.
Với Nguyễn Hiến Lê, đó là mặt tích cực, mặt trội nhất của Khổng tử và không thể chịu được cách hiểu cách hiểu sai của nhiều học giả Hà Nội. Ông giận họ cũng là phải.
nguồn: fb https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid026cbooarZh2WYjwZCYeML7pmh2JYLmXc6y6LrJPjCb6aQ5qMg3tQwSVMUGidykZLwl&id=100007958417043

24/12/24

Vọng Đông Sơn Liễu Nhiên am

 望東山了然庵

古木扶疏暫繫舟,
禪房岑寂枕清流。
明年此夕知誰健?
且喜登臨訪舊遊。

陳藝宗

Âm

Cổ mộc phù sơ tạm hệ chu,
Thiền phòng sầm tịch chẩm thanh lưu.
Minh niên thử tịch tri thùy kiện?
Thả hỉ đăng lâm phỏng cựu du.

Nghĩa

Buộc tạm con thuyền nơi gốc cây cổ thụ sum suê,
Thiền phòng vắng lặng nằm bên dòng nước trong.
Chiều này năm sau biết có còn ai khỏe mạnh,
Lại vui vẻ lên thăm lại nơi cũ từng ghé chơi.

Tạm dịch.

Tạm buộc thuyền vào dưới gốc thông,
Phòng thiền dựa suối nước xanh trong.
Chiều này năm tới ai còn khỏe,
Lại trở về đây ngắm cảnh không.

Chú

-          古木 cổ mộc: Cây cổ thụ. 扶疏 phù sơ: Cành lá xum xuê, tỏa rộng. 暫繫舟 tạm hệ chu: Tạm buộc thuyền.

-          禪房 thiền phòng: Phòng thiền, chỉ ngôi chùa. 岑寂 sầm tịch: Cao va yên lặng, tĩnh lặng. 枕清流 chẩm thanh lưu: Gối đầu lên dòng nước trong.

-          明年此夕minh niên thử tịch: Chiều này năm sau. 知誰健 tri thùy kiện: Biết có ai còn khỏe mạnh?

-          且喜 thả hỷ: lại vui mừng.  thả, liên từ; lại. 登臨 đăng lâm: Đi lên. 訪舊遊 phỏng cựu du: Thăm lại nơi từng ghé qua.

陳藝宗 Trần Nghệ Tông (1321-1395) tên thật là Trần Phủ 陳甫, là con thứ ba của Trần Minh Tông, lên ngôi năm 1370, hai năm sau, 1372, thì nhường ngôi cho em là Trần Duệ Tông, còn mình thì làm Thượng hoàng.

Giản thể

古木扶疏暂系舟,禅房岑寂枕清流。
明年此夕知谁健?且喜登临访旧游


23/12/24

Ngẫu thành. Nguyễn Trãi

 

偶成 
世上黃粱一夢餘,
覺來萬事總成虛。

如今只愛山中住,
結屋花邊讀舊書。
阮廌

Âm

Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư,
Giác lai vạn sự tổng thành hư.
Như kim chỉ ái sơn trung trú,
Kết ốc hoa biên độc cựu thư.

Nghĩa

Cuộc đời chỉ là một giấc mộng hoàng lương,
Tỉnh ra thấy vạn sự đều hư huyễn.
Như nay chỉ thích ở trong núi,
Làm nhà bên luống hoa mà đọc sách xưa.

Tạm dịch

Cuộc đời như một giấc mơ trưa,
Tỉnh dậy thảy đều chuyện vẩn vơ.
Nay chỉ thích vào trong núi ở,
Cất lều bên suối đọc thơ xưa.

Giản thể.

世上黄粱一梦余,觉来万事总成虚。
如今只爱山中住,结屋花边读旧书

Chú

-          世上 (thế thượng): Trên đời, cuộc sống thế gian.

-          黃粱 Hoàng lương: Kê vàng. Xưa có anh chàng hỏng thi, ghé vào quán ăn bữa trưa. Trong lúc chờ ăn, anh chàng thiếp đi. Trong mơ thấy mình thi đỗ làm quan, sự nghiệp hiển hách vợ đẹp con ngoan. Sau vì dâng sớ đàn hặc nịnh quan nên bị tù tội đói khát. Anh chàng tỉnh giấc, thấy nồi cháo kê còn chưa chín. “Hoàng lương” hay “mộng hoàng lương” tượng trưng cho giấc mộng hoang đường, không thực tế.

-          一夢餘 (nhất mộng dư): Còn sót lại một giấc mộng, tức là mọi thứ đã trôi qua, chỉ còn tàn dư của mộng tưởng.

-          覺來 (giác lai): Tỉnh dậy.

-          萬事 (vạn sự): Muôn sự, mọi chuyện trong đời.

-          總成虛 (tổng thành hư): Cuối cùng đều là hư không.

-          如今 (như kim): Ngày nay, hiện tại.

-          只愛 (chỉ ái): Chỉ yêu thích, chỉ muốn.

-          山中住 (sơn trung trú): Sống trong núi, ẩn cư ở nơi núi rừng.

-          結屋 (kết ốc): Lập nhà, dựng nhà.

-          花邊 (hoa biên): Bên cạnh hoa, tức là nơi có cảnh thiên nhiên đẹp.

-          讀舊書 (độc cựu thư): Đọc sách cũ, ám chỉ những tác phẩm kinh điển hoặc sách mà tác giả từng yêu thích.


Tranh Đặng Can



21/12/24

Hán Việt kì đàm

 HÁN-VIỆT KỲ ĐÀM 1:

Vụ "cưỡng hôn" trong thang máy: Dùng từ đúng hay sai?
Hán-Việt thông dụng cho rằng cách dùng từ "cưỡng hôn" trong trường hợp này là KHÔNG SAI.
Trước hết, phải thừa nhận chúng ta đều nhất trí với nhau rằng thực tế có tồn tại một từ "cưỡng hôn" gốc Hán mang ý nghĩa là "ép cưới". Tuy nhiên, điều này không tương đương với việc nhất quyết không thể tồn tại một từ "cưỡng hôn" trong tiếng Việt mang một ý nghĩa khác là... ép người khác phải hôn mình, miễn là khi này ta xác định từ ấy không là một từ gốc Hán thuần tuý.
Ủa vậy cũng được hả ta? HVTD xin trả lời rằng: Tại sao không!
Theo tiến trình thời gian, mọi ngôn ngữ, không kể riêng tiếng Việt, đều cần thiết tạo ra những từ vựng mới để có thể gọi tên những khái niệm mới mẻ, bằng cách này hay cách khác. Như những bài viết trước, HVTD đã giới thiệu một số từ tiếng Việt cấu tạo bằng cách kết hợp cả yếu tố Hán-Việt lẫn yếu tố thuần Việt. Việc kết hợp yếu tố Hán-Việt và phi Hán-Việt (bao gồm từ thuần Việt và từ mượn ngôn ngữ khác tiếng Hán) cũng là một trong những cách để tiếng Việt tăng thêm từ vựng và có thể gọi tên những khái niệm mới, một ví dụ:
"Hoá" (化) là từ gốc Hán chỉ sự biến đổi thành một cái gì đó. Có một cấu trúc "+ hoá" thông dụng trong tiếng Hán, như lão hoá, nhân hoá,... Cấu trúc này được tiếng Việt vay mượn và có thể sử dụng theo cách riêng là ghép với một gốc phi Hán-Việt, như ô-xi hoá, trẻ hoá, thay vì dùng từ gốc Hán thuần tuý. Tương tự với cấu trúc "+ tặc", "+ kế",... Vì thế, cấu trúc "cưỡng +" không là ngoại lệ.
Bằng cách này, tiếng Việt có thể linh hoạt lựa chọn từ ngữ gần gũi với cộng đồng để ghép với yếu tố Hán-Việt còn lại, ví như dùng chữ "ô-xi" sẽ gần gũi hơn là "dưỡng khí" ("ô-xi hoá" thay vì "dưỡng hoá"). Vì vậy trong trường hợp từ "cưỡng hôn", chữ "hôn" thuần Việt đã được chọn vì người Việt không phải ai cũng hiểu chữ Hán "vẫn" có nghĩa là hôn để có thể sử dụng từ "cưỡng vẫn" như Trung Hoa.
Nhưng không may, từ "cưỡng hôn" lại đồng âm với từ Hán-Việt mang ý nghĩa khác, và dấy lên một cuộc tranh luận đúng sai và phê bình cách dùng từ "cưỡng hôn" trên các trang báo. Giờ đây, nhiều người cẩn trọng viết trong ngoặc kép cho chắc ăn hoặc thay hẳn thành cụm từ khác như "hành vi sàm sỡ" để tránh... vạ lây. Chúng ta bắt đầu dè dặt về hiện tượng đồng âm dị nghĩa hơn bao giờ hết, vì sợ mắc một lỗi-sai-nhưng-không-sai.
Tuy vay mượn nhiều từ mang gốc Hán, nhưng tiếng Việt vẫn luôn là một ngôn ngữ tự chủ từ trước đến nay, người Việt tự do tạo ra những bản sắc riêng cho tiếng nước mình. Trong nhiều trường hợp, chúng ta không thể khư khư dùng tiếng Hán để làm thước đo chuẩn mực, ví như chúng ta không thể nói chữ "cù lao" phải mang ý nghĩa "công lao cha mẹ" theo Hán-Việt chứ không được mang ý nghĩa "hòn đảo nhỏ" theo thuần Việt, hay ta không thể bắt buộc người Việt phải gọi đúng tên toà nhà có nhiều người chung sống cùng nhau là "chúng cư" theo Hán tự thay vì "chung cư". Người Việt không nhất thiết phải hiểu thêm ý nghĩa rằng "kinh tế" vốn dĩ là "kinh bang tế thế" mà ra, hay ta không phải viết đúng thứ tự các từ "nhiệt náo", "linh lung", "chế tiết" như nguyên bản chữ Hán của chúng,... Đó là những nét đặc sắc của tiếng Việt: học hỏi và cải biến có chừng mực, tự do và linh hoạt trong khuôn khổ cho phép.
Vậy, sẽ thật bất công khi từ "cưỡng ôm" vẫn có thể tiếp tục được sử dụng một cách tự do tự tại vì không có từ gốc Hán đồng âm nào với nó cả, bạn nhỉ?
HÁN VIỆT KỲ ĐÀM 2:
Từ Hán-Việt gốc... Nhật Bản!
Chúng ta đều biết số lượng từ Hán-Việt trong tiếng Việt hiện đại chiếm một khối lượng lớn, được du nhập vào tiếng Việt thông qua nhiều thời điểm và nhiều con đường khác nhau. Trong đó, có một lớp từ Hán-Việt được người Việt tiếp thu chủ yếu qua con đường sách báo của người Trung Hoa, nhưng hoá ra lại có... gốc Nhật.
Chữ Hán được du nhập và sử dụng trong tiếng Nhật cùng với các ngôn ngữ khác trong khối đồng văn (Việt Nam, Triều Tiên, Hàn Quốc), là một nguồn từ vựng bổ sung để các ngôn ngữ này có thể gọi tên và diễn tả đầy đủ các khái niệm trong cuộc sống hơn. Theo thời gian, vào thời kì cận đại, nhu cầu tiếp nhận những kiến thức mới từ văn minh phương Tây đòi hỏi việc dịch thuật phải càng được đẩy mạnh. Các từ vựng sẵn có của tiếng Hán chưa có những khái niệm tương ứng với những thuật ngữ mới, vì vậy việc tạo ra các từ vựng mới là điều cần thiết bấy giờ. Và Nhật Bản chính là một bậc tiên phong trong việc này.
Trong bài viết “Từ Hán Việt gốc Nhật trong tiếng Việt” của GS-TS Trần Đình Sử, GS đã nhắc đến như sau: “Theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho biết, các từ ngữ, thuật ngữ khoa học xã hội và nhân văn Trung Quốc hiện đại có tới 70% nhập từ tiếng Nhật (Xem Vương Bân Bân: Mối quan hệ giữa từ vựng Trung Quốc cận đại với Nhật Bản). Tác giả Vương Bân Bân nói: ‘Ngày nay hàng loạt khái niệm mà người Trung Quốc dùng để cao đàm khoát luận, bàn đông nói tây, phần lớn là từ ngữ do người Nhật làm ra cả’”.
Vào giai đoạn này, cả Trung Hoa và Nhật Bản đều nỗ lực để dịch các khái niệm mới sang Hán tự, nhưng cách dịch của người Nhật lại hiệu quả hơn hẳn. Người Trung ban đầu thực hiện 2 cách dịch, một là dịch theo lối phiên âm, ví dụ “romantic” thì dịch là “la mạn thế khắc”, “inspiration” dịch là “yên sĩ phi lí thuần”, “telephone” dịch là “đức luật phong”, hai là dịch nghĩa, ví dụ, “individualism” dịch là “cá nhân độc nhất giả”, “sosiologie” dịch là “quần học”, economie dịch là “lí tài”, “philosophie” dịch là “học lí”. Vương Bân Bân nhận xét: “Cùng một từ mà người Trung Quốc dịch phần lớn đều thất bại, còn người Nhật dịch thì thành công”. Các từ do người Nhật dịch vừa ngắn gọn, vừa hàm ý. Ví dụ đơn cử, sau năm 1917 người Nhật Tá Tá Chính Nhất dịch “inspiration” là “linh cảm”, thế là người Trung Quốc dùng theo.
Các từ Hán gốc Nhật không du nhập trực tiếp vào Việt Nam mà gián tiếp thông qua con đường sách báo Trung Quốc, sau đó được người Việt phiên âm mặt chữ ra thành từ Hán-Việt. Dựa vào “Từ điển từ ngoại lai tiếng Hán” do các tác giả Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn từ năm 1958, xuất bản năm 1984 tại Nxb Từ Thư, Thượng Hải, các nhà nghiên cứu đã xác định có trên 350 từ gốc Nhật ngày nay vẫn được sử dụng trong tiếng Việt. Các từ vựng về lĩnh vực xã hội, chính trị, khoa học, triết học, giáo dục chiếm một số lượng rất lớn, đánh dấu sự trưởng thành của ý thức xã hội về các mặt ấy.
Tuy nhiên cần làm rõ, dù có rất nhiều từ Hán gốc Nhật nhưng không phải tất cả đều được du nhập vào Việt Nam. Phần do tiếng Việt đã có sẵn những từ cùng nghĩa nên không cần vay mượn thêm nữa, phần do tiếng Việt vừa tiếp thu, vừa sáng tạo ra các từ của riêng mình (như thay vì mượn cả 2 từ “bi kịch” và “hỉ kịch” của người Nhật, người Việt chỉ vay mượn “bi kịch”, còn “hỉ kịch” thì người Việt sáng tạo ra chữ “hài kịch” thay thế, vì người Việt quan niệm hài kịch không chỉ là kịch “vui” nên dùng chữ “hỉ” thì chưa hợp bằng).
Các từ Hán-Việt gốc Nhật có thể được chia thành 2 loại chủ yếu như sau:
- Dùng yếu tố Hán kết hợp lại với nhau để tạo ra các từ mới mang nét nghĩa hiện mà không gây hiểu nhầm về nghĩa: công dân, dân chủ, tuyên truyền, tế bào, chân không,...
- Vay mượn thư tịch cổ Trung Hoa rồi gán cho một ý nghĩa mới, vì vậy cần phân biệt giữa nghĩa cổ xưa và nghĩa hiện đại: văn minh, văn hoá, tinh thần, tưởng tượng, cách mạng,...
Theo GS Trần Đình Sử, “loại từ thứ hai này chỉ là một lối vay mượn từ có sẵn từ xưa để dịch nghĩa một từ mới của các nước, đó là một ước lệ, thiết nghĩ nên hiểu theo nghĩa mới đó trong dòng chảy của từ vựng”.
Có thể thấy, từ Hán-Việt gốc Nhật đánh dấu một bước phát triển mới của từ Hán Việt, tạo nên tiềm lực của đời sống tinh thần và tư duy khoa học hiện đại. Trong bối cảnh mới, song song cùng các từ Hán-Việt gốc Nhật là các từ Hán-Việt có gốc từ những từ Hán mới do người Trung Quốc tạo ra và cả do người Việt sáng tạo cho riêng mình. Nhìn xa hơn, việc xác lập các từ có nguồn gốc Nhật sẽ góp phần để xác lập các từ Hán Việt gốc Việt, do người Việt sáng tạo ra. Đó hứa hẹn sẽ là một đề tài thú vị để chúng ta cùng nhau nghiên cứu!
Tư liệu tham khảo:
Trần Đình Sử, Từ Hán Việt gốc Nhật trong tiếng Việt, 2/2013
HÁN VIỆT KỲ ĐÀM 3:
Từ ngữ “Hán-Việt Việt tạo”: Tiếp thu song hành cùng sáng tạo
Từ ngữ tiếng Hán đã được các ngôn ngữ đồng văn vay mượn như một tất yếu lịch sử-xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống ngữ âm tiếng Hán thời Vãn Đường dưới sự chi phối của hệ thống ngữ âm tiếng Việt để trở thành cách đọc Hán-Việt chính là một ưu thế khiến cho tiếng Việt tiếp nhận số lượng từ ngữ gốc Hán lớn hơn nhiều so với các yếu tố ngoại lai khác. Nhưng quan trọng nhất, hình trạng của tiếng Việt hiện nay đã cho thấy rõ rằng quá trình giao thoa giữa tiếng Việt với tiếng Hán không đơn giản chỉ là việc không có thì mượn hay mượn thế nào cũng được, mà đó chính là quá trình tiếp thu song hành cùng sáng tạo.
Xét trên dòng chảy chuyển di từ tiếng Hán sang tiếng Việt, ta có thể xếp thành 3 cấp độ của lớp từ ngữ Hán-Việt trong tiếng Việt:
1. Yếu tố Hán-Việt: Đó là các đơn vị ngữ pháp nhỏ nhất, gốc Hán, có kích thước ngữ âm là một âm tiết, được đọc theo cách đọc Hán-Việt và được sử dụng trong tiếng Việt. Ví dụ: thiên, địa, nhân, vô, bất, sơn, thuỷ,... Theo cách gọi của ngôn ngữ học, đây được xem là các “hình vị”, với đặc điểm là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, là đơn vị cơ sở để tạo thành từ nhưng không độc lập về cú pháp (tức khổng thể dùng trực tiếp để giao tiếp mà cần các yếu tố kết hợp khác).
2. Từ ghép Hán-Việt (không kể đến các từ ghép Hán-Việt gốc Nhật): Các từ ghép này bao gồm 2 lớp từ. Một là các từ mượn nguyên khối từ tiếng Hán, ví dụ: thiên hạ, địa phương, vô lý, thuỷ triều. Hai là các từ do người Việt tự tạo bằng cách vay mượn các yếu tố Hán-Việt và/hoặc mẫu cấu tạo tiếng Hán, người Hán không sử dụng những từ này trong ngôn ngữ của họ, ví dụ: đoàn viên, ca sĩ, hoa hậu. Lớp từ thứ 2 ở trên sẽ được bàn sâu hơn ở phần tiếp theo của bài viết này.
3. Thành ngữ Hán-Việt: Cách gọi này ám chỉ những thành ngữ chứa đựng toàn bộ yếu tố cấu tạo là từ Hán-Việt, bao gồm cả các thành ngữ vay mượn nguyên khối từ tiếng Hán hoặc dị bản của chúng trong tiếng Việt và các thành ngữ do người Việt tự tạo trên cơ sở Hán-Việt. Đối tượng này cũng sẽ được nói thêm vào phần tiếp sau của bài viết.
Bàn sâu hơn về các từ ghép Hán-Việt, điều đáng nói là bên cạnh các từ được vay mượn nguyên khối, người Việt cũng đã sáng tạo hoặc cải biến cho mình một lớp từ riêng, có thể được gọi là các từ “Hán-Việt Việt tạo”. Lớp từ ghép này có thể được phân tách ra thành 2 phân nhóm dựa trên mô hình cấu tạo từ, một nhóm dựa trên mẫu cấu tạo từ của tiếng Hán, nhóm còn lại dựa trên mô hình cấu tạo từ tiếng Việt. Đặc điểm chung của 2 nhóm này đều là sử dụng hoàn toàn các yếu tố Hán nhưng theo cách kết hợp riêng hoặc trật tự riêng của người Việt mà không xuất hiện trong từ vựng của người Hán. Với nhóm dựa trên mẫu cấu tạo từ tiếng Hán, khi nhận ra khả năng phái sinh từ vựng của các mô hình tồn tại trong cách nói của người Hán, người Việt đã tiếp thu rồi sau đó thay đổi các yếu tố, ghép với yếu tố chưa từng có tiền lệ kết hợp để tạo ra khái niệm mới. Ví dụ, dựa trên mô hình “x + sĩ” để chỉ người chuyên làm công việc nào đó như “y sĩ”, “nhạc sĩ” mà người Việt sáng tạo ra từ “ca sĩ”, “nha sĩ”. Với nhóm dựa trên mô hình cấu tạo từ tiếng Việt, đặc điểm chính của các từ này đó là chúng đi theo trật tự sắp xếp các yếu tố trong từ ghép của tiếng Việt. Ví dụ như các từ “sử tiền”, “chiến tiền” trong tiếng Hán, người Việt đã thay đổi trật tự thành “tiền sử”, “tiền chiến”, hay các từ do người Việt tự tạo ra như “tiền trạm”, “truyền hình”, “phát thanh”, “trường học”.
Ấy là còn chưa xét đến các trường hợp từ ghép Hán-Việt đẳng lập và từ láy Hán-Việt. Ở đây sẽ không xét đến các từ ghép đẳng lập dùng để chỉ tập hợp như “quần áo”, “hoa quả” vì có thể hiểu chúng theo kiểu “quần và áo”, “hoa và quả”. Chúng ta sẽ xét các từ ghép và từ láy mà trong đó các yếu tố của chúng đi liền cạnh nhau. Một phương thức thường gặp đối với các từ này là hiện tượng đổi trật tự sắp xếp so với nguyên bản chữ Hán như “nhiệt náo > náo nhiệt”, “thích phóng > phóng thích”, “cáo tố > tố cáo”, “linh lung > lung linh”. Một phương thức phổ biến hơn là người Việt tự tạo ra các kết hợp, như “suy nghĩ”, “hãm hiếp”.
Ta có thể chia thành 3 trường hợp từ ghép Hán-Việt Việt tạo như sau:
1. Từ ghép Hán-Việt Việt tạo bộ phận: đạo điện > dẫn điện, chu tế > chu cấp, thư báo > sách báo,...
2. Từ ghép Hán-Việt Việt tạo hoàn toàn: kí lục > biên bản, tá liệu > gia vị, biên tả > soạn thảo,...
3. Từ ghép Hán-Việt Việt tạo theo phương thức nói tắt: ngữ ngôn tài liệu > ngữ liệu, cao cấp ủy viên > cao ủy,…
Đặc biệt, khả năng phái sinh từ và khả năng kết hợp của các yếu tố Hán-Việt được người Việt tận dụng để tạo ra các từ được cấu tạo bằng yếu tố Hán-Việt (được đọc theo cách đọc Hán-Việt) tổ hợp với yếu tố phi Hán-Việt (bao gồm các từ thuần Việt, các từ mượn trực tiếp thông qua các ngôn ngữ khác Hán, các từ Việt gốc Hán được đọc theo âm cổ hoặc âm Việt hoá) theo mô hình cấu tạo từ tiếng Hán (cát tặc, ô-xi hoá, vôi hoá,...) hoặc theo mô hình cấu tạo từ tiếng Việt (trường đua, điểm đến,...).
Một cách sáng tạo từ Hán-Việt khác của người Việt đó chính là sáng tạo trên phương diện ngữ nghĩa. Người Việt gán cho những từ Hán-Việt những tầng nghĩa mới mà trong nhiều trường hợp các từ ấy được người Việt hiểu theo nghĩa gán ấy chứ không theo nghĩa vốn có. Ví dụ, “đô hộ” vốn là tên một chức quan xưa của người Hán, sau được người Việt gán thêm nghĩa “cai trị” mà chỉ có người Việt mới hiểu theo nghĩa này, hay “trường” vốn để chỉ một nơi đông người tụ tập thì người Việt hiểu theo nghĩa “nơi dạy học”.
Bàn nhanh về thành ngữ Hán-Việt, chúng đã có những điểm giữ nguyên và thay đổi như sau. Có thành ngữ giữ nguyên nghĩa (ác giả ác báo) hay được dịch hẳn sang tiếng Việt (khuynh quốc khuynh thành > nghiêng nước nghiêng thành). Có thành ngữ phát triển thêm nghĩa mới (cao lưu sơn thủy – tiếng Hán là “tri âm tri kỉ hoặc khúc nhạc hay”, tiếng Việt thêm nghĩa “núi sông, nơi thiên nhiên thanh tĩnh”). Có thành ngữ thay đổi (tác oai tác phúc > tác oai tác quái) và đặc biệt là có thành ngữ do người Việt tạo ra trên cơ sở tiếng Hán (hào hoa phong nhã, yểu điệu thanh tân).
Từ tất cả những phân tích bên trên, tất nhiên vẫn còn rất nhiều trường hợp mà ta chưa có thời gian bàn đến ở bài viết này, HVTD tin rằng chúng ta đã có thể nhìn thấy được việc vay mượn tiếng Hán vào tiếng Việt là một quá trình tiếp thu nhưng không tách rời sáng tạo. Điều đó không chỉ thể hiện tính linh hoạt của các ngôn ngữ, tính sáng tạo và chọn lọc của những người xây dựng tiếng Việt suốt hàng ngàn năm qua mà hơn hết còn là những nét riêng của tiếng Việt: hoà nhập nhưng không hoà tan!
Tư liệu tham khảo:
Phạm Hùng Việt, Lê Xuân Thại, Lý Toàn Thắng, Trịnh Thị Hà, Nguyễn Hoàng Anh, Nguyễn Thị Tân, Nguyễn Thị Huyền, Dương Thị Thu Trà (2018). Từ ngữ Hán Việt: Tiếp nhận và sáng tạo, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

19/12/24

lâm chung thị ý

 

臨終示意
自從謫落下人間,
六十餘年一瞬看。

白玉樓前秋夜月,
朝真依舊徬欄杆。
范宗邁

Chú

-         -          臨終 (Lâm chung): Chỉ lúc sắp qua đời, gần với cái chết. lâm, phó từ: sắp

-          示意 (Thị ý): Biểu thị ý tứ, bày tỏ suy nghĩ hoặc cảm xúc.

Lâm chung thị ý có nghĩa là: Tỏ ý lúc sắp qua đời.

-          自從 (Tự tòng): Từ khi, bắt đầu từ.

-          謫落 (Trích lạc): Bị đày.

-          下人間 (Hạ nhân gian): Xuống cõi trần.

-          六十餘年 (Lục thập dư niên): Hơn 60 năm, chỉ quãng thời gian sống của tác giả.

-          一瞬看 (Nhất thuấn khán): Một cái chớp mắt.

-          白玉樓 (Bạch ngọc lâu): Lầu bạch ngọc, hình ảnh nơi cỏi tiên.

-          秋夜月 (Thu dạ nguyệt): Ánh trăng đêm thu.

-          朝真 (Triều chân): Tức triều kiến chân nhân, vào chầu bậc đắc đạo. Ở đây có nghĩa là chầu trời.

-          依舊 (Y cựu): Như cũ, vẫn như xưa.

-          徬欄杆 (Bạng lan can): Dựa vào lan can.

Phạm Tông Mại 范宗邁 hiệu Kính Khê, sinh và mất năm nào chưa rõ. Dưới triều Trần Minh Tông (1314-1329), ông có đi sứ nhà Minh cùng với Nguyễn Trung Ngạn.

Giản thể

自从谪落下人间,六十余年一瞬看。
白玉楼前秋夜月,朝真依旧徬欗杆

Âm

Tự tòng trích lạc hạ nhân gian,
Lục thập dư niên nhất thuấn khan.
Bạch ngọc lâu tiền thu dạ nguyệt,
Triều chân y cựu bạng lan can.

Nghĩa. Bày tỏ ý lúc sắp mất.

Từ thủa bị đày xuống nhân gian,
Hơn sáu chục năm chỉ như cái chớp mắt.
Trước lấu bạch ngọc vào một đêm trăng mùa thu,

Tạm dịch

Bị đày đọa xuống cõi trần gian,
Chớp mắt đã hơn sáu chục năm.
Lầu ngọc đêm thu trăng sáng tỏ,
Chầu trời ta lại ghé qua thăm.