27/12/21

Tuyệt cú kì 2 . Đỗ Phủ

絕句 (其二)

江碧鳥逾白,     江碧鸟逾白,
山青花欲燃。     山青花欲燃。
今春看又過,     今春看又过,
何日是歸年?      何日是归年?

杜甫  

- 絕句 tuyệt cú: thể thơ có từ thời Lục Triều, nhưng đến đời Đường mới thịnh hành. Tuyệt 絕 có nghĩa là dứt, hết. Tuyệt cú chỉ thể thơ mỗi bài chỉ có 4 câu là dứt. Nếu mỗi câu có 5 chữ thì gọi là ngũ ngôn tứ tuyệt, hay nói gọn là ngũ tuyệt 五絕. Thường gặp là  ngũ tuyệt, thất tuyệt; lục tuyệt ít gặp. 

Thơ Tuyệt cú được phân làm hai loại là luật tuyệt và cổ tuyệt. Luật tuyệt thì tuân thủ các quy tắc của thơ Đường luật. Cổ tuyệt tức thể thơ cổ phong, nhưng chỉ có bốn câu.

絕句 tuyệt cú, còn gọi là 截句 tiệt cú, 斷句 đoạn cú, 絕詩 tuyệt thi, 短小精萃 đoản tiểu tinh túy, 四句一首 tứ cú nhất thủ.

- 其二 kì nhị = bài hai. Đỗ Phủ có nhiều chùm thơ tuyệt cú. Có chùm hai bài, có chùm 3 bài, 4 bài, .. Đây là bài hai trong chùm hai bài ngũ ngôn tuyệt cú ông viết năm 764. 

- 江碧 giang bích = màu xanh biếc của dòng sông, dòng sông xanh biếc.. 江 giang = sông, 碧 bích = xanh biếc.

- 逾 du:更多 (càng thêm).

- 花欲燃 hoa dục nhiên = = hoa sắp cháy, sắp đỏ lửa. Tỉ dụ hoa đỏ tươi rực rỡ. 欲 dục (phó từ) = sắp, muốn, giống như.  燃 nhiên = nhen lửa, cháy, thiêu. 

- 看 khán/khan = nhìn, xem. 

- 歸年 quy niên = ngày trở về. 

杜甫 Đỗ Phủ (712 - 770) tự Tử Mĩ, là nhà thơ lớn thời Thịnh Đường, được người đời tôn xưng là "Thi thánh", tiếng tăm ngang với Thi tiên Lí Bạch, thường được gọi chung là "Lí Đỗ"

Âm Hán Việt: Tuyệt cú kì 2

Giang bích điểu du bạch,

Sơn thanh hoa dục nhiên.

Kim xuân khan hựu quá,

Hà nhật thị quy niên?

Đỗ Phủ.

Nghĩa: 

Sông biếc làm cánh chim càng thêm trắng,

Núi xanh khiến mấy bông hoa đỏ rực như muốn cháy lên.

Mùa xuân này lại qua đi,

Đến năm nào mới được về quê nhà.


Tạm dịch

Sông biếc chim càng trắng,

Núi xanh hoa lập lòe.

Xuân này trông lại hết,

Năm tháng nào về quê?


Một số bài dịch thơ đọc được trên trang thivien . net


Lê Nguyễn Lưu

Sông biếc chim mờ trắng

Hoa tươi núi thắm cao

Xuân nay đã thấy cảnh

Trở lại biết năm nao

(Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997)


Nhượng Tống

Sông biếc chim càng trắng!

Non xanh hoa rọi hồng

Bao giờ về xứ sở?

Xuân lại một mùa trông!

(Thơ Đỗ Phủ, Nhượng Tống dịch, in lần thứ 2, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1996)


Chế Lan Viên

Sông biếc chim càng trắng,

Núi xanh hoa thắm màu.

Xuân này qua mất nữa,

Về được, biết năm nào?

(Thơ Đỗ Phủ, Hoàng Trung Thông, NXB Văn học, 1962)



Thư pháp: Vương Đông Linh (hình trên mạng)




19/12/21

thiên nhai . Lí Thương Ẩn

 天涯

春日在天涯, 春日在天涯,

天涯日又斜。 天涯日又斜。

鶯啼如有淚, 莺啼如有泪,

為濕最高花。 为湿最高花。

李商隱 

Chú.

- 天涯 thiên nhai = chân trời. Hải giác thiên nhai = chân trời góc bể, chỉ nơi xa lắm lắm. 

- 斜 tà = nghiêng. 斜 âm pinyin hiện đại là /xié/, âm cổ là /xiá/ (bắt vần với chữ nhai 涯 /yá/ ở câu trên)

日又斜 nhật hựu tà = mặt trời cũng đã xế bóng.

- 鶯啼 oanh đề = oanh kêu. 

- 為濕 vi thấp = làm ướt. 

- 最高花 tối cao hoa = bông hoa trên cành cây cao nhất. Cũng là bông hoa nở cuối cùng trên cây.

Tác giả: 李商隱  Lí Thương Ẩn (813 - 857), một trong những nhà thơ xuất sắc nhất thời Vãn Đường, cùng với Đỗ Mục được người đời tôn xưng là Tiểu Lí Đỗ (gọi "tiểu" để phân biệt với cặp Lí Đỗ nổi tiếng thời Thịnh Đường - Lí Bạch - Đỗ Phủ). Trong tuyển tập thơ nổi tiếng Đường thi tam bách thủ, Lí Thương Ẩn được chọn 20 bài, số lượng đứng hàng thứ tư.


Âm Hán Việt:  Thiên nhai.
Xuân nhật tại thiên nhai, thiên nhai nhật hựu tà.
Oanh đề như hữu lệ, vi thấp tối cao hoa. 
Lí Thương Ẩn

Nghĩa: Chân trời. 

Ngày xuân nơi chân trời, Nơi chân trời xa mặt trời lại xế bóng. Tiếng oanh kêu như có nước mắt, Làm đẫm ướt bông hoa trên cành cao nhất.

Tạm dịch: 

Xuân ở nơi chân trời, 

Chân trời nắng quái rơi.

Tiếng oanh ngâm nước mắt, 

Ướt cánh hoa cao rồi.

oOo

Đọc thêm mấy bản dịch thấy trên net 

Ngày xuân ở chân trời

Chân trời xa bóng xế

Oanh kêu dường rớm lệ

Làm hoa ướt đầm mi

Nguyễn Hà
(thivien . net)


Xuân ở cuối chân trời

Chân trời chiều nắng vơi

Giọng oanh trào nước mắt

Ướt nhánh hoa cao vời

Tạ Trung Hậu
(thivien . net)


Xuân ở tận chân trời,

Chân trời ngắm chiều rơi.

Oanh hót như ứa lệ,

Làm ướt hoa bên trời!

Đỗ Chiêu Đức 

(longhovinhlong blogspot)

nắng quái chiều hôm. vnphoto net



8/12/21

Tuyển thơ Đường Tống

 

Tuyển tập thơ Đường, Tống do Phí Minh Tâm thực hiện.
Mỗi bài đều có
- nguyên văn chữ Hán
- âm Hán Việt,
- dịch nghĩa
- dịch thơ
- dịch tiếng Anh.




5/12/21

Biệt lão hữu

 別老友

別離無遠近,
臨老禁愁難。
欲去更回首,
川原增暮寒。
從善王

Âm Hán Việt

Biệt lão hữu

Biệt li vô viễn cận,

Lâm lão cấm sầu nan.

Dục khứ cánh hồi đầu,

Xuyên nguyên tăng mộ hàn.

Tùng Thiện Vương

Chú

臨老 lâm lão = đến tuổi già.

禁愁 cấm sầu = ngăn nỗi buồn.

更 cánh (phó từ) = lại nữa.

川原 xuyên nguyên = sông suối và cánh đồng; cánh đồng.

暮寒 mộ hàn = cái lạnh lúc chiều tối.

Tác giả Tùng Thiện Vương (1819 - 1870), tên thật Nguyễn Phúc Miên Thẩm, con thứ 10 của vua Minh Mạng, người sáng lập Mạc Vân thi xã ở đất Thần kinh.

Dưới triều Nguyễn, các vị hoàng thân như ông không được phép thi cử, làm quan. Nhưng ông cũng được phong tước Tùng Thiện công. Con rể ông là Đoàn Trưng đã nổi lên chống triều đình (Giặc Chày vôi thời Tự Đức). Dù trước đó Đoàn Trưng đã lấy cớ vợ không nghe lời, bỏ vợ; nhưng sau vụ nổi loạn ông cũng phải nhận hình phạt cắt bổng lộc 8 năm. Ông lên chùa ở, gia đình ông phải trồng cây ăn quả mang chợ bán để mưu sinh. Ông mất lúc 51t. Tước Tùng Thiện Vương là Bảo Đại truy phong cho ông sau này.

Nghĩa:

Chia tay bạn

Chia tay không kể xa hay gần đều buồn, 

Nhưng già rồi, ngăn nỗi buồn khó lắm thay.

Muốn đi mà lại cứ ngoái đầu nhìn lại,

Đường về đi qua sông suối và cánh đồng khiến buổi chiều càng lạnh hơn.

Dịch thơ

Ly biệt chẳng xa, gần

Tuổi già buồn khó ngăn

Muốn đi đầu ngoảnh lại

Đồng tối giá băng tăng

Nguyễn Phước Bảo Quyến


Con vật trong thành ngữ

 Thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt 

từ lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận

luận án tiến sĩ







1/12/21

Lịch sử văn minh Trung Hoa.

 



Lịch sử văn minh Trung Hoa – Will Durant. Nguyễn Hiến Lê dịch


Nội Dung:

Chương I: Thời đại các triết gia
I. Buổi đầu
II. Khổng Tử
III. Các nhà theo chủ nghĩa xã hội và các nhà chủ trương vô chính phủ.

Chương II: Thời đại các thi sĩ
I. Bismarck của Trung Hoa
II. Các cuộc thí nghiệm chủ nghĩa xã hội.
III. Sự vinh quang đời Đường
IV. Vị trích tiên.
V. Cái hay của thơ Trung Hoa.
VI. Đỗ Phủ.
VII. Văn Xuôi.
VIII. Tuồng.

Chương III: Thời đại các nghệ sĩ
I, Văn nghệ phục hưng: đời Tống
II. Chùa chiềng và cung điện.
IV. Hoạ.
V. Đồ sứ.

Chương IV: Dân tộc và quốc gia.
I. Từ đời Nguyên đến đời Thanh.
II. Dân tộc và ngôn ngữ.


Chương V: Cách mạng và phục sinh
I. Bạch hoạ.
II. Một nền văn minh cáo chung.
III. Bắt đầu một trật tự mới.




28/11/21

hoa dại

 野花

野花生竹下, 野花生竹下,
竹深花亦繁。 竹深花亦繁。
花繁翻笑竹, 花繁翻笑竹,
春至不能言。 春至不能言。
阮通

Âm: Dã hoa
Dã hoa sinh trúc hạ: 
Trúc thâm hoa diệc phồn.
Hoa phồn phiên tiếu trúc,
Xuân chí bất năng ngôn.
Nguyễn Thông.

Chú:

- 野花 dã hoa = hoa dại. 生 sinh = sinh trưởng, mọc. 竹下 trúc hạ = dưới cây/bụi tre.
- 竹深 trúc thâm = tre tươi tốt. 深 thâm nghĩa thường gặp là sâu. 繁 phồn = nhiều, đông. Như 枝葉繁盛 chi diệp phồn thịnh = cành lá um tùm. 繁榮 phồn vinh = giàu có, thịnh vượng.
- 翻 lật. Như trong phiên thân = trở mình; phiên cung = lật cung. Phiên trong phiên âm, phiên dịch cũng là chữ phiên 翻 này. 笑 tiếu = cười; cười chê.
- 春至 xuân chí = mùa xuân đến. 不能言 bất năng ngôn = không nói được gì. Xuân đến hoa nở chào đón, tre thì lặng lẽ như mọi ngày.

Tác giả: Nguyễn Thông (1827–1884) người Gia Định (về sau Pháp chiếm Nam kì, ông dời nhà về sống ở Bình Thuận, hiện mộ phần cũng ở đó), làm quan dưới triều Tự Đức. Trước tác ông để lại có mấy cuốn sử, mấy tập thơ: Việt sử thông giám cương mục khảo lược, Kì Xuyên thi sao, .. 

Nghĩa: Hoa dại.
Hoa dại mọc dưới bụi tre, tre um tùm, hoa cũng tươi tốt.
Hoa tươi tốt quay lại cười chê tre, rằng xuân đến mà không biết nói năng chi

Tạm dịch:

Hoa dại dưới khóm trúc,
Trúc xanh hoa cũng tươi.
Hoa tươi cười trúc thẳng,
Xuân, chẳng biết đón mời.


6/11/21

thơ vua

三杯紅酒群黎血,

數盞青茶百姓膏。

天淚落時民淚落,

歌聲高也哭聲高。

Tam bôi hồng tửu quần lê huyết,

Sổ trản thanh trà bách tính cao.

Thiên lệ lạc thời dân lệ lạc,

Ca thanh cao dã khốc thanh cao.

Chú:

- 黎 lê. Nghĩa gốc là một loại hồ dán nấu từ gạo nếp; sau được mượn chỉ đám đông. Lê dân = dân chúng. Lê còn chỉ màu đen, nên lê dân hay được dịch là dân đen. 群黎 quần lê = đám đông, dân chúng.

- 百姓 bách tính = trăm họ, chỉ dân chúng.

- 膏 cao. Nghĩa gốc là mỡ nước (Mỡ miếng gọi là chi 脂, mỡ nước gọi là cao 膏). Mở rộng, chỉ những chất sền sệt như mỡ, ví dụ thức ăn hay thuốc được cô đặc lại. Đông y có phương thuốc nấu từ xương động vật cũng gọi là cao: cao hổ cốt, cao khỉ, .. 

Nghĩa:

Ba li rượu hồng là máu của dân đen,

Mấy chén trà xanh là cao xương trăm họ.

Lúc trời rớt nước mắt là dân rơi lệ,

Tiếng ca cao tiếng khóc càng cao.


Tạm dịch

ba chén rượu nồng dân máu đỏ

mấy li trà ngọt chúng xương vàng

trời rơi nước mắt người rơi lệ,

tiếng hát vang tiếng khóc cũng vang.


Bản dịch thơ của Tôn Thất Sa:

Ba chung rượu đỏ dường dân huyết,

Một chén trà xanh tợ cốt cao.

Trời nhỏ lệ như dân nhỏ lệ,

Tiếng ca cao múa khóc càng cao.

Chú thích: Đây là bốn câu thực + luận trong bài thơ Đường luật được cho là của vua Thành Thái làm khi ra HN khánh thành cầu Doumer (tức Long Biên ngày nay). Nhưng theo một số tài liệu khác thì vua Thành Thái bảo không phải của ông, mà do Hoàng Cao Khải thác tâm sự ông mà viết. Lại theo một tài liệu khác cho biết vua Minh Mạng cũng có một bài thơ gần giống, chỉ sai khác một số chữ.

Phiên bản chữ Hán trên đây lấy từ trang báo Van nghệ, có khác với bản thấy chép trên trang thivien . net

Những đứa trẻ rắc muối. Hình trên mạng.



4/11/21

Hai sách dịch thơ Đường xưa

 

KHẢO CỨU HAI DỊCH PHẨM THƠ ĐƯỜNG SANG CHỮ NÔM: “ĐƯỜNG THI HỢP TUYỂN NGŨ NGÔN LUẬT GIẢI ÂM”, “ĐƯỜNG THI TUYỆT CÚ DIỄN CA” VÀ VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN THƠ ĐỖ PHỦ TẠI VIỆT NAM


 15-10-2020
Tác giả: Lê Văn Mẫu – Trần Kiến Sâm

“Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm” (唐诗合选五言律解音) và “Đường thi tuyệt cú diễn ca” (唐诗绝句演歌) là hai dịch phẩm có ý nghĩa đặc biệt trong di sản Hán Nôm Việt Nam. Chúng không những thể hiện ý thức dịch thơ Đường sang chữ Nôm của các dịch giả, mà còn có đóng góp quan trọng trong việc tiếp nhận, xây dựng một nền văn học Hán Nôm mang đậm bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, hai dịch phẩm này còn ít được công chúng biết đến. Vì vậy, khảo cứu và giới thiệu rộng rãi đến bạn đọc hai dịch phẩm là thực sự cần thiết.

1. Đặt vấn đề

“Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm” (唐诗合选五言律解音) và “Đường thi tuyệt cú diễn ca” (唐诗绝句演歌) là hai dịch phẩm có ý nghĩa đặc biệt trong di sản Hán Nôm Việt Nam. Chúng không những thể hiện ý thức dịch thơ Đường sang chữ Nôm của các dịch giả, mà còn có đóng góp quan trọng trong việc tiếp nhận, xây dựng một nền văn học Hán Nôm mang đậm bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, hai dịch phẩm này còn ít được công chúng biết đến. Vì vậy, khảo cứu và giới thiệu rộng rãi đến bạn đọc hai dịch phẩm là thực sự cần thiết.

Thực ra, trước khi có việc dịch thơ Đường ra chữ Nôm, trong quan hệ giao lưu với Trung Quốc, Việt Nam đã có một truyền thống dịch thuật rất lâu đời. Bằng chứng là, trước thời “Bắc thuộc”, trong mối giao hảo giữa Trung Quốc, Việt Nam đã xuất hiện vấn đề dịch thuật. Trong Lĩnh Nam chích quái có ghi: vào đời Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề tôi là họ Việt Thường, đem bạch trĩ sang cống tiến. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu Công phải sai sứ thông dịch mới hiểu được nhau. Sách Sử ký của Tư Mã Thiên cũng chép: năm Tân Mùi thứ 6 (1110 trước Công nguyên) đời vua Thành Vương nhà Chu, phía Nam bộ Giao Chỉ có họ Việt Thường đã qua ba lần sứ dịch dâng chim trĩ trắng. Thời kỳ “Bắc thuộc”, chữ Hán chính thức truyền vào Việt Nam, Truyền thống dịch thuật này cũng được tiếp nối: dịch từ Hán sang Việt. Theo Văn Đa cư sĩ, một học giả đời Tự Đức, tác giả sách “Đại Nam quốc ngữ” và bài tựa sách “Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa” thì Sĩ Vương (187 – 226) bắt đầu dùng tiếng Hán dịch sang tiếng Việt. Sử Vương khi dịch đến chữ “thư cưu” không biết gọi là chim gì, khi dịch đến “dương đào” không biết gọi là quả gì [1]. Tuy những câu chuyện trên chỉ là truyền thuyết nhưng nó cũng nói lên một điều là, việc dịch từ Hán sang Việt là có từ rất sớm. Chính truyền thống dịch thuật lâu đời này đã có tác động thúc đẩy to lớn đến việc dịch thơ Đường ra chữ Nôm.

Chữ Nôm hình thành, phát triển kéo theo đó là sự hình thành, phát triển nền văn học chữ Nôm Việt Nam, trong đó có bộ phận văn học dịch, mà lĩnh vực tiêu biểu là thi ca. Theo Trần Nghĩa, cùng với sự hình thành chữ Nôm, những bản diễn âm thơ cũng xuất hiện. Cụ thể như: Kinh thi được diễn âm sang chữ Nôm (Thi kinh giải âm, Thi kinh diễn âm, Thi kinh diễn nghĩa...), Tương tiến tửu (Ca điệu lược ký), Tỳ bà Hành (Tỳ bà hành diễn âm) [2]...

Hiện nay người ta phát hiện những bản dịch Đường thi sang chữ Nôm được cho là xuất hiện sớm nhất vào thế kỉ XV. Theo Nguyễn Quảng Tuân, Những bài dịch Đường thi đầu tiên phải kể đến những bài đã được dịch từ thế kỉ thứ XV và được sưu tầm trong bộ“Hồng Đức quốc âm thi tập” (đời vua Lê Thánh Tôn) như “Xuân tịch lữ hoài” (春夕旅怀) của Thôi Đồ và bốn bài dịch ở chùm thơ Thiên Thai của Tào Đường [3]. Nhưng thế kỉ XIX mới là thời kì hoàng kim của việc dịch thơ Đường sang chữ Nôm. Vì theo nhà nghiên cứu Nguyễn Tuyết Hạnh“Đến thế kỉ XIX, thơ Nôm đã hết sức phát triển, nghệ thuật sử dụng ngôn từ đã điêu luyện nên tất nhiên cũng có nhiều bản dịch thơ Đường. Thế nhưng ngày nay ta chỉ còn lại một số ít bài của một số dịch giả vốn là những nhà thơ nỗi tiếng như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương...” [4]. Hiện nay, tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam còn lưu giữ hai dịch phẩm Đường thi “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm” và “Đường thi tuyệt cú diễn ca” có132 bản dịch thơ của 57 tác giả Đường thi.

2. Khảo cứu “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm”

“Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm” [5] là phần thứ hai trong bốn phần của một văn bản chép tay, có tên là “Vị Thành giai cú tập biên”, hiện lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu AB.194, từ tờ 30 đến tờ 62. Ở đầu phần hai “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm” (tờ 30) phía bên phải từ trên xuống, dòng thứ nhất ghi: “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm bát thập tam thủ” (唐诗合选五言律解音八十三首);dòng thứ hai ghi “Vị Xuyên Tú tài Trần Cao Xương Tử Thịnh diễn tập” (渭川秀才陈高昌子盛演辑). Cuối tờ 62, bên trái từ trên xuống có ghi “Đường thi diễn âm chung tất” (唐诗演音终毕).

Theo Đoàn Hồng Nguyên, lần đầu tiên công chúng được biết đến “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm” của Tú Xương là qua phát hiện của các ông Hoàng Ngọc Phách, Lê Thước, Đỗ Đức Hiểu, trong tập “Văn thơ Trần Tế Xương”, xuất bản năm 1957. Các tác giả này căn cứ vào thông tin: Tú Xương đã từng dịch thơ Đường do ông Trần Tấn Đạt, con trai thứ ba của ông Trần Tú Xương cung cấp, để khẳng định Tú Xương là tác giả của “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm”. Tuy nhiên, các tác giả này chỉ mới trích lục 5 bài trong tổng số 83 bài của bản dịch và đưa vào phần phụ lục của tập sách. Đó là bài Dã Vọng của Vương Tích; Cung trung hành lạc (kỳ nhị), Thu tứ của Lý Bạch; Đảo y và Xuân dạ hỉ vũ của Đỗ Phủ [6].

Theo khảo cứu của chúng tôi, “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm” có tất cả 83 bài thơ của 29 tác giả, được sắp xếp chủ yếu theo danh mục tác giả. Trong đó, Đỗ Phủ được chọn dịch nhiều nhất với 21 bài, như: Đăng Duyện Châu thành lâu (登兖州城楼), Xuân nhật ức Lý Bạch (春日忆李白), Nguyệt (月), Sơ nguyệt (初月), Bát nguyệt thập ngũ dạ nguyệt (八月十五夜月), Thập lục dạ ngoạn nguyệt (十六夜玩月), Thập thất dạ đối nguyệt (十七夜对月), Đảo y (捣衣), Lạc nhật (落日), Hiểu vọng (晓望), Bộ chư quý công tử Trượng Bát Mãn huề kỹ nạp Lương Vãn Diễn ngộ vũ (步诸贵公子丈八满携妓納涼晚衍遇雨), Dã vọng (野望), Đăng Nhạc Dương lâu (登岳阳楼), Tần Châu tạp vịnh (秦州杂咏), Chu trung dạ tuyết hữu hoài Lư Vu Tứ Thị ngự đệ ( 舟 中 夜 雪 有 怀 卢 于 四 侍 御 弟), Đối tuyết (对雪), Vãn Tình (晚晴), Xuân dạ hỉ vũ (春夜喜雨), Huỳnh hoả (萤火), Động  phòng (洞房), Cầm đài (琴台). Tiếp đến là Lý Bạch với 16 bài, như Cung trung hành lạc –  kỳ I (宫中行乐其一), Cung trung hành lạc –  kỳ II (宫中行乐其二), Cung trung hành lạc –  kỳ III (宫中行乐其三), Thu tứ (秋思), Kim Lăng (金陵), Khẩu hiệu tặng Trưng quân Lư Hồng công thì bị triệu (口 号 赠 徵 君 卢 鸿 公 时 被 召), Tặng Tiền Trung quân Thiếu Dương (赠 钱 徵 君 少 阳), Tặng Mạnh Hạo Nhiên (赠 孟 浩 然), Giang Hạ biệt Tống Chi Đễ (江 夏 别 宋 之 悌), Độ Kinh Môn tống biệt (渡 荆 门 送 别), Tống hữu nhân (送友人), Tầm Ung tôn sư ẩn cư (寻雍尊师隐居), Phỏng Đái Thiên Sơn đạo sĩ bất ngộ (访戴天山道士不遇), Quá Thôi Bát trượng thuỷ đình (过催八丈水亭), Thu Đăng Tuyên Thành Tạ Điểu bắc lâu (秋登宣成谢眺北楼), Tạ công đình (谢公停). Mạnh Hạo Nhiên được tuyển dịch 6 bài, như Động Đình (洞庭), Dữ chư công tử đăng Hiện Sơn (与诸公子登岘山), Quy Chung Nam sơn (归钟南山), Chu trung hiểu vọng (舟中晓望), Đề Nghĩa công thiền phòng (题義公禅房), Dạ độ Tương thuỷ (夜渡湘水). Đỗ Thẩm Ngôn được tuyển dịch 5 bài, như Bồng Lai tam điện thị yến phụng sắc vịnh Chung Nam sơn (蓬 莱 三 殿 侍 宴 奉 策 詠 終 南 山), Thu dạ yến lâm tân Trịnh Minh Phủ trạch(秋 夜 宴 臨 津 郑 明 府 宅), Hạ nhật quá Thất sơn trại (夏日过七山斋), Hoạ Tấn Lăng Lục thừa tướng “Tảo xuân du vọng” (和晋陵陆丞相早春游望), Hoạ Khang ngũ vọng nguyệt hữu hoài (和  康 五 望 月 有 怀). Vương Duy được tuyển dịch 5 bài, như Đề Chung Nam sơn(题终南山,Sơn cư thu minh (山居秋暝), Quy Tung sơn tác (归嵩山作), Chung Sơn biệt nghiêp (终山别业), Quá Hương Tích tự (过香积寺). Trần Tử Ngang được tuyển dịch 3 bài, như Vãn thứ Nhạc Hương huyện (晚次乐乡县), Xuân dạ biệt cố nhân (春夜别故人), Xuân nhật đăng Cửu Hoa quán (春日登九华观). Vương Bột được tuyển dịch 2 bài, như Thánh Tuyền Yến (圣泉宴), Tống Đỗ Thiếu phủ chi nhiệm Thục Châu (送杜少府之任蜀州). Thẩm Thuyên Kỳ được tuyển dịch 2 bài, như Vu Sơn (巫山), Dạ túc Thất Bàn lĩnh (夜宿七盘岭). Tống Chi Vấn được tuyển dịch 2 bài, như Hỗ tòng Đăng Phong đồ trung tác (扈从登封途中做),Lục Hồn Sơn trang (陆浑山庄);Sầm Tham được tuyển dịch 2 bài, như Tống Trương tử uý Nam Hải (送张子尉南海) Đăng Tổng Trì các (登总持阁). 19 tác giả được chọn 1 bài như Dã vọng (野望) của Vương Tích, Tòng Quân hành(从军行)của Dương Quýnh, Tại ngục văn thiền (在狱闻蝉) của Lạc Tân Vương, Tuý hậu tặng Trương Húc (醉后赠张旭) của Cao Thích, Vọng Tần Xuyên (望秦川) của Lý Kỳ, Tô thị biệt nghiệp (素食别业) của Tổ Vịnh, Bắc thứ Cố sơn hạ (北次固山下) của Vương Loan, Đăng Nhuận Châu thành (登润州城) của Khâu Vị, Đồng Vương Trưng Quân du Động Đình hữu hoài (同王徵君游洞庭有怀) của Trương Vị, Phá Sơn tự hậu Thiền viện (破山寺后禅院) của Thường Kiến, Nhạc Dương vãn cảnh (岳阳晚景) của Trương Quân, Tầm Nam Khê Thường đạo sĩ (寻南溪常道士) của LưuTrường Khanh, Hoà vạn niên thành thiếu phủ ngụ hữu (和万年成少府寓有) của Tiền Khởi, Tống Phần Thành Vương chủ (送分城王主) của Vi Ứng Vật, Vân Dương quán dữ Hàn Thân túc biệt (云阳馆与韩绅宿别) của Tư Không Thự, Trừ tịch dạ túc Thạch Đầu dịch (除夕夜宿石头译) của Đái Thúc Luân, Thảo (草) của Bạch Cư Dị, Xuân sơn nguyệt dạ (春山月夜) của Vu Lương Sử, Lữ du thương xuân (旅游伤春) của Lý Xương Phù.

Mặc dù được sắp xếp theo mục tác giả, tuy nhiên có chỗ sự sắp xếp này không nhất quán và nhiều chỗ không ghi tên tác giả, cho nên chúng tôi phải khảo sát, đối chiếu qua nhiều tập sách khác như “Từ điển giám thưởng Đường thi”[7], “Tuyển tập thơ Đường”[8], Đường thi tuyển dịch [9]... để xác định tác giả. Ví dụ như Vương Bột được tuyển dịch hai bài, nhưng lại sắp ở vị trí không theo thứ tự danh mục (bài số 2, 4) và bài số 4 lại không ghi tên tác giả; xen vào giữa là một bài thơ của Dương Quýnh (bài số 3). Có 6 bài thơ không ghi tên tác giả, chúng tôi xác định như: Vương Bột (bài số 4), Sầm Tham (bài số 45, 46), Cao Thích (bài số 47), Lý Kỳ (bài 69). Riêng bài số 69 vừa không ghi tác giả, vừa sai đầu đề như: Vọng Tần Châu 望秦州, chúng tôi xác định lại là Vọng Tần Xuyên (望秦川).

Về dịch thơ, “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm” được dịch ra chữ Nôm, thể thơ được dịch là Thất ngôn và Ngũ ngôn. Trong số 83 bài thơ, dịch theo thể Thất ngôn là 72 bài, theo thể Ngũ ngôn là 11 bài. Điều đó cho thấy dịch giữ nguyên thể Ngũ ngôn không phải là dễ, và việc dịch ra thể Thất ngôn mới là sở trường của Trần Tế Xương. Xin xem bảng khảo cứu chi tiết ở phần phụ lục để thấy toàn diện hơn (bảng 1).

3. Khảo cứu “Đường thi tuyệt cú diễn ca"

“Đường thi tuyệt cú diễn ca” [10] là một dịch phẩm bằng chữ Nôm, bản viết, 26 trang, gồm 55 bài thơ Tuyệt cú bằng chữ Hán trong thơ Đường của 36 tác giả; do Đông Sơn Cư Sĩ (东山居士) hiệu duyệt. Hiện đang lưu trữ tại thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu là A.2814. Mở đầu tập là bài thơ Thục trung cửu nhật (蜀中九日) của Vương Bột và kết thúc bằng bài thơ Vô Đề (无题) của Thôi Hoạch. Đầu dịch phẩm này, phía bên phải dòng thứ nhất, từ trên xuống, có ghi: “Đường thi tuyệt cú diễn ca” (唐诗绝句演歌); kết thúc bằng dòng cuối cùng bên trái, từ trên xuống có ghi: “Đường tuyệt diễn ca tất” (唐绝演歌毕), bên dưới có ghi “Đông Sơn Cư Sĩ hiệu” (东山居士校).

Theo khảo cứu của chúng tôi, trong “Đường thi tuyệt cú diễn ca”, người được chọn dịch nhiều nhất là Vương Xương Linh với 8 bài như Điện tiền khúc (殿前曲), Tây cung xuân oán (西宫春怨), Tây cung thu oán (西宫秋怨), Trường tín thu từ (长信秋词), Khuê oán (闺 怨), Tòng quân hành –  kỳ I (从军行其一), Phù Dung lâu tống Tân Tiệm (芙蓉楼送辛渐), Lư Khê biệt nhân (卢溪别人). Tiếp đến là Lý Bạch với 7 bài, như Thanh bình điệu –  kì 1 (清平调其一), Thanh bình điệu –  kì 2 (清平调其二), Thanh bình điệu –  kỳ 3 (清平调其三), Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (黄鹤楼送孟浩然之广陵), Tảo phát Bạch Đế thành (早发白帝城), Tô đài lãm cổ (苏台览古), Xuân dạ Lạc Thành văn địch (春夜洛城闻笛). Sầm Tham được tuyển dịch 3 bài, như Mục Túc phong ký gia nhân (苜蓿烽奇家人), Phùng nhập Kinh sứ (逢入京使), Sơn phòng xuân sự (山房春事); 4 tác giả được chọn dịch 2 bài như: Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ (九月九日忆山东兄弟), Tống Nguyên Nhị sứ An Tây (送元二使安西) của Vương Duy; Xuân tứ (春思), Tống Lý Thị Lang phó Thường Châu (送李侍郎赴常州) của Giả Chí; Tặng Hoa Khanh (赠花卿), Tuyệt cú (绝句) của Đỗ Phủ; Dạ thướng Thụ Hàng văn địch (夜上受降闻笛), Cung oán (宫怨) của Lý Ích. 29 tác giả còn lại được chọn dịch 1 bài như: Thục trung cửu nhật (蜀中九日) của Vương Bột, Đồng Tước đài (铜雀台) của Lưu Đình Kỳ, Tống Lương Lục (送梁六) của Trương Duyệt, Lương Châu từ (凉州词) của Vương Hàn, Tống Vũ Văn Lục (送宇文六) của Thường Kiến, Biệt Đổng Đại (别董大) của Cao Thích, Lương Châu từ (凉州词) của Vương Chi Hoán, Đào hoa khê (桃花溪) của Trương Húc, Hàn thực (寒食) của Hàn Hủ, Phong Kiều dạ bạc (楓桥夜泊) của Trương Kế, Giang thôn tức sự (江村即事) của Tư Không Thự, Thạch Thành Đầu (石城头) của Lưu Vũ Tích, Thập ngũ dạ vọng nguyệt (十五夜望月) của Vương Kiến, Hán uyển hành (汉苑行) của Trương Trọng Tố, Đăng lâu (登楼) của Dương Sĩ Ngạc, Văn Bạch Lạc Thiên tả giáng Giang Châu Tư Mã (闻白乐天左降江州司马) của Nguyên Chẩn, Vũ Lâm Linh (雨淋玲) của Trương Hựu, Độ Tang Càn (渡桑乾) của Giả Đảo, Dạ vũ ký thác (夜雨寄托) của Lý Thương Ẩn, Bạc Tần Hoài (泊秦淮) của Đỗ Mục, Dương liễu chi (杨柳枝) của Ôn Đình Quân, Giang lâu thư hoài (江楼书怀) của Triệu Hỗ, Khách hữu bốc cư bất toại du Thiên Lũng nhân đề (客有卜居不遂薄游汧陇因题) của Hứa Hồn, Cung oán (宫怨) của Tư Mã Lễ, Hoa Thanh Cung (花清宫) của Thôi Lỗ, Biên từ (边词) của Trương Kính Trung, Tây Thi thạch (西施石) của Lâu Dĩnh, Hoài thượng biệt hữu nhân (淮上别友人) của Trịnh Cốc, Vô đề (无题) của Thôi Hoạch.

Có 55/55 bài được dịch theo thể Lục bát –  thể thơ truyền thống của dân tộc. Điều này càng cho ta thấy rõ ý thức xây dựng, phát triển nền văn học Hán Nôm giàu tính dân tộc của dịch giả. Xin xem bảng khảo cứu chi tiết ở phần phụ lục để thấy rõ hơn (bảng 2).

4. Vấn đề tiếp nhận thơ Đỗ Phủ qua “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm” và “Đường thi tuyệt cú diễn ca”

Qua khảo cứu “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm” và “Đường thi tuyệt cú diễn ca”, chúng tôi nhận thấy thơ Đỗ Phủ được đặc biệt chú ý trong việc tuyển dịch sang chữ Nôm. Trong số 138 bài thơ Đường của 57 tác giả được chọn dịch sang chữ Nôm thì Đỗ Phủ là một trong những nhà thơ được chọn dịch nhiều nhất với 23 bài, chiếm tỉ lệ gần 17%. Đây là kết quả có thể được xem như tạo ra một tiền đề thuận lợi cho vấn đề dịch thuật và tiếp nhận thơ Đỗ Phủ tại Việt Nam. Điều này còn góp phần lý giải vì sao thơ Đỗ Phủ từ thế kỉ XX trở đi cũng được chọn dịch ra chữ Quốc ngữ với số lượng vượt trội so với các tác giả Đường thi khác. Tiêu biểu như: Thơ Đỗ Phủ, Phạm Thượng Chi (dịch và chú thích), Biệt thự Hoa Đường, Huế, 1945; Thơ Đỗ Phủ, Nhượng Tống (dịch), Nxb Tân Việt, HN, 1944; Thơ Đỗ Phủ, Trần Xuân Đề (tuyển chọn), Nxb Giáo dục. HN, 1975; Đỗ Phủ nhà thơ Thánh với hơn 1000 bài thơ, Phan Ngọc (biên dịch) , Nxb Văn hóa Thông tin, 2001; Đỗ Phủ tinh tuyển, Nxb Văn học, 2012. Ngoài ra, các tuyển tập thơ Đường cũng tuyển dịch thơ Đỗ Phủ với số lượng nhiều vào hạng bậc nhất như: Thơ Đường, Nhiều tác giả (dịch), 2 tập, Nxb Văn hoá, 1962; Trần Trọng San (dịch), Thơ Đường, Tập 2, Nxb Bắc Đẩu, 1970; Khương Hữu Dụng (dịch), Thơ Đường, Nxb Đà Nẵng, 1992; Trần Trọng Kim (dịch), Đường thi, Nxb Hội nhà văn, 2003; Trương Đình Tín (dịch), Đường thi tuyển dịch, Nxb Thuận Hóa, 2003; Đỗ Bằng Đoàn, Bùi Khánh Đản (dịch), Đường thi trích dịch, Nxb Văn học, 2006; Lê Nguyễn Lưu ( dịch), Đường thi tuyển dịch, 2 tập, Nxb Thuận Hóa, 2007; Chính Tâm (trích dịch), Thơ Đường, Nxb Văn học, 2007; Nam Trân (dịch), Thơ Đường, Viện Văn học, HN, 2007; Mai Lăng (dịch), Tuyển dịch thơ Đường Tống, Nxb Văn học, 2008; Nhiều tác giả (dịch), Thơ Đường, Nxb Hải Phòng, 2008; Trần Văn Nhĩ (biên dịch); Tuyển tập thơ Đường, 2 tập, Nxb Văn nghệ, 2009; Ngô Văn Phú (dịch), Hành Đường Thoái Sĩ (tuyển chọn), Ba trăm bài thơ Đường, Nxb Văn học, 2010...

Thơ Đỗ Phủ được các dịch giả dịch sang chữ Nôm là thể Thất ngôn 19 bài và Lục bát 2 bài. Điều này cũng cho ta thấy các dịch giả không chỉ chú ý dịch thơ Đỗ Phủ sang chữ Nôm mà còn có ý thức dịch ra thể loại mà người Việt Nam yêu thích – thể Thất ngôn, cũng như ý thức việc dịch theo thể thơ truyền thống của dân tộc – thể Lục bát. Chính vì vậy mà các bản dịch dễ được tiếp nhận rộng rãi trong công chúng.

Vì sao thơ Đỗ Phủ được dịch ra chữ Nôm khá nhiều? Điều này có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, do chế độ khoa cử phong kiến Việt Nam mang đậm nét Nho học, các kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đình đều bắt buộc phải thi Kinh nghĩa, Văn sách, Thi phú, Chiếu, Chế, Biểu, trong đó, phần Thi phú giữ vị trí khá quan trọng, nhất là bắt buộc làm thơ theo thể luật thi Đời Đường. Chính chế độ thi cử này khiến thơ Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu rộng, nhiều Nho sĩ biết đến thơ Đỗ Phủ mà đem lòng yêu thích dịch ra chữ Nôm để thưởng thức. Thứ hai, tư tưởng nhân đạo cao cả và tinh thần phản đối chiến tranh của thơ Đỗ Phủ có ý nghĩa to lớn đối với con người và tinh thần chống xâm lược của người Việt Nam, có thể cũng làm phát sinh nhu cầu dịch thơ Đỗ Phủ sang chữ Nôm để tuyên truyền, cổ vũ sức mạnh chống xâm lược của dân tộc. Thứ ba, xuất phát từ nhu cầu được nghe âm điệu tiếng Việt, dù xem đó là thứ chữ cao quý, người Việt Nam vẫn mong muốn được nghe lại những bài thơ Đường bằng âm điệu thân thiết của tiếng mẹ đẻ. Thứ tư, việc thưởng thức một bài thơ bằng nguyên tác với việc thưởng thức bài thơ bằng một bản dịch thì cũng có những cung bật thú vị riêng, vì rằng đọc một bản dịch hay là tận hưởng được hai lần cái hay, cái đẹp của bài thơ. Thứ năm, truyền thống dịch thuật đã tác động to lớn đến việc dịch thơ Đỗ Phủ nói riêng, thơ Đường nói chung.

5. Kết luận

Có thể nói, “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm” và “Đường thi tuyệt cú diễn ca” là hai tài liệu cổ quý báu, gồm 138 bài thơ Đường của 57 tác giả được chọn dịch sang chữ Nôm. Thể loại được chọn dịch là Ngũ ngôn (11 bài), Thất ngôn (72 bài) và Lục bát (55 bài). Các dịch giả không chỉ có ý thức dịch thơ Đường sang chữ Nôm để thưởng thức, tiếp nhận mà còn chọn dịch ra thể thơ dân tộc – thể Lục bát. Vì vậy, hai dịch phẩm này có thể được xem là có đóng góp quan trọng trong việc tiếp nhận thơ Đường để phát triển nền văn học Hán Nôm Việt Nam mang đậm bản sắc dân tộc. Đỗ Phủ là một trong những người được chọn dịch nhiều nhất, có ý nghĩ quan trọng đặc biệt không chỉ đối với nền Văn học Hán Nôm mà còn đến quá trình dịch thuật và tiếp nhận sâu sắc đối với nền văn học chữ Quốc ngữ sau này.

 

Tài liệu tham khảo

[1] [4] Nguyễn Tuyết Hạnh: Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam, Nxb Văn học 2006, tr.17 – 18, 47

[2] Trần Nghĩa: Những vấn đề mới đặt ra trong việc dịch từ Hán sang Việt hôm nay, Dịch từ Hán sang Việt, một khoa học, một nghệ thuật. Nxb KHXH, 1982, tr.19.

[3] Nguyễn Quảng Tuân: Những bài dịch Đường thi đầu tiên trong văn học Việt Nam. Tạp chí Hán Nôm, số1, 1985, tr.51

[5] Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm,Bản viết tay, 32 trang. Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm. Kí hiệu: AB.194.

[6] Tú Xương toàn tập. Nxb Văn học, 2010, tr.231

[7] 马君骅、马茂元等:《唐诗鉴赏辞典》,上海辞书出版社2010年版

[8] Tuyển tập thơ Đường, Trần Văn Nhĩ (biên dịch), 2 tập, Nxb Văn nghệ, 2009.

[9] Đường thi tuyển dịch, Lê Nguyễn Lưu (biên dịch), 2 tập. Nxb Thuận Hóa, 2007.

[10] Đường thi tuyệt cú diễn ca, Bản viết tay, 26 trang. Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm. Kí hiệu: A.2814.

 

PHỤ LỤC

Bảng 1. Khảo cứu: “Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm”

TT

Bài thơ

Tác giả

Thể dịch sang Nôm

Ghi chú tác giả

1

Dã vọng 野望

Vương Tích

Thất ngôn

 

2

Thánh Tuyền Yến 圣泉宴

Vương Bột

Thất ngôn

 

3

Tòng Quân hành从军行

Dương Quýnh

Thất ngôn

 

4

Tống Đỗ Thiếu phủ chi nhiệm Thục Châu 送杜少府之任蜀州

Không ghi tác giả

Thất ngôn

Vương Bột

5

Tại ngục văn thiền 在狱闻蝉

Lạc Tân Vương

Thất ngôn

 

6

Vãn thứ Nhạc Hương huyện 晚次乐乡县

Trần Tử Ngang

Thất ngôn

 

7

Xuân dạ biệt cố nhân 春夜别故人

Trần Tử Ngang

Thất ngôn

 

8

Xuân nhật đăng Cửu Hoa quán 春日登九华观

Trần Tử Ngang

Thất ngôn

 

9

Bồng Lai tam điện thị yến phụng sắc vịnh Chung Nam sơn 蓬莱三殿侍宴奉策詠終南山

Đỗ Thẩm Ngôn

Thất ngôn

 

10

Thu dạ yến lâm tân Trịnh Minh Phủ trạch秋夜宴臨津郑明府宅

Đỗ Thẩm Ngôn

Ngũ ngôn

 

11

Hạ nhật quá Thất sơn trại 夏日过七山斋

Đỗ Thẩm Ngôn

Ngũ ngôn

 

12

Hoạ Tấn Lăng Lục thừa tướng“Tảo xuân du vọng” 和晋陵陆丞相早春游望

Đỗ Thẩm Ngôn

Ngũ ngôn

 

13

Hoạ Khang ngũ vọng nguyệt hữu hoài  和康五望月有怀

Đỗ Thẩm Ngôn

Ngũ ngôn

 

14

Vu Sơn 巫山

Thẩm Thuyên Kỳ

Ngũ ngôn

 

15

Dạ túc Thất Bàn lĩnh 夜宿七盘岭

Thẩm Thuyên Kỳ

Ngũ ngôn

 

16

Hỗ tòng Đăng Phong đồ trung tác 扈从登封途中做

Tống Chi Vấn

Ngũ ngôn

 

17

Lục Hồn Sơn trang 陆浑山庄

Tống Chi Vấn

Ngũ ngôn

 

 

18

Cung trung hành lạc –  kì 1 宫中行乐其一

Lý Bạch

Ngũ ngôn

 

19

Cung trung hành lạc –  kì 2 宫中行乐 – 其二

Lý Bạch

Ngũ ngôn

 

20

Cung trung hành lạc –  kì 3 宫中行乐 – 其三

Lý Bạch

Ngũ ngôn

 

21

Thu tứ 秋思

Lý Bạch

Thất ngôn

 

22

Kim Lăng 金陵

Lý Bạch

Thất ngôn

 

23

Khẩu hiệu tặng Trưng quân Lư Hồng công thì bị triệu 口号赠徵君卢鸿公时被召

Lý Bạch

Thất ngôn

 

24

Tặng Tiền Trung quân Thiếu Dương 赠钱徵君少阳

Lý Bạch

Thất ngôn

 

25

Tặng Mạnh Hạo Nhiên 赠孟浩然

Lý Bạch

Thất ngôn

 

26

Giang Hạ biệt Tống Chi Đễ 江夏别宋之悌

Lý Bạch

Thất ngôn

 

27

Độ Kinh Môn tống biệt 渡荆门送别

Lí Bạch

Thất ngôn

 

28

Tống hữu nhân 送友人

Lý Bạch

Thất ngôn

 

29

Tầm Ung tôn sư ẩn cư 寻雍尊师隐居

Lý Bạch

Thất ngôn

 

30

Phỏng Đái Thiên Sơn đạo sĩ bất ngộ 访戴天山道士不遇

Lý Bạch

Thất ngôn

 

31

Quá Thôi Bát trượng thuỷ đình 过催八丈水亭

Lý Bạch

Thất ngôn

 

32

Thu Đăng Tuyên Thành Tạ Điểu bắc lâu 秋登宣成谢眺北楼

Lý Bạch

Thất ngôn

 

33

Tạ công đình 谢公停

Lý Bạch

Thất ngôn

 

34

Động Đình 洞庭

Mạnh Hạo Nhiên

Thất ngôn

 

35

Dữ chư công tử đăng Hiện Sơn 与诸公子登岘山

Mạnh Hạo Nhiên

Thất ngôn

 

36

Quy Chung Nam Sơn 归钟南山

Mạnh Hạo Nhiên

Thất ngôn

 

37

Chu trung hiểu vọng 舟中晓望

Mạnh Hạo Nhiên

Thất ngôn

 

38

Đề Nghĩa công thiền phòng 题義公禅房

Mạnh Hạo Nhiên

Thất ngôn

 

39

Dạ độ Tương thuỷ 夜渡湘水

Mạnh Hạo Nhiên

Thất ngôn

 

40

Đề Chung Nam sơn题终南山

Vương Duy

Thất ngôn

 

41

Sơn cư thu mính 山居秋暝

Vương Duy

Thất ngôn

 

42

Quy Tung sơn tác 归嵩山作

Vương Duy

Thất ngôn

 

43

Chung Sơn biệt nghiệp 终山别业

Vương Duy

Thất ngôn

 

44

Quá Hương Tích tự 过香积寺

Vương Duy

Thất ngôn

 

45

Tống Trương tử uý Nam Hải 送张子尉南海

Không ghi tác giả

Thất ngôn

Sầm Tham

46

Đăng Tổng Trì các 登总持阁

Không ghi tác giả

Thất ngôn

Sầm Tham

47

Tuý hậu tặng Trương Húc 醉后赠张旭

Không ghi tác giả

Thất ngôn

Cao Thích

48

Đăng Duyện Châu thành lâu 登兖州城楼

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

49

Xuân nhật ức Lý Bạch 春日忆李白

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

50

Nguyệt 月

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

51

Sơ nguyệt 初月

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

52

Bát nguyệt thập ngũ dạ nguyệt 八月十五夜月

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

53

Thập lục dạ ngoạn nguyệt 十六夜玩月

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

54

Thập thất dạ đối nguyệt 十七夜对月

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

55

Đảo y 捣衣

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

56

Lạc nhật 落日

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

57

Hiểu vọng 晓望

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

58

Bộ chư quý công tử Trượng Bát Mãn  huề kỹ nạp Lương Vãn Diễn ngộ vũ 步 诸 贵 公 子 丈 八 满 携 妓 納 涼 晚 衍 遇 雨

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

59

Dã vọng 野望

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

60

Đăng Nhạc Dương lâu 登岳阳楼

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

61

Tần Châu tạp vịnh 秦州杂咏

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

62

Chu trung dạ tuyết hữu hoài Lư Vu Tứ Thị ngự đệ 舟中夜雪有怀卢于四侍御弟

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

63

Đối tuyết 对雪

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

64

Vãn Tình 晚晴

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

65

Xuân dạ hỉ vũ 春夜喜雨

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

66

Huỳnh hoả 萤火

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

67

Động  phòng 洞房

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

68

Cầm đài 琴台

Đỗ Phủ

Thất ngôn

 

69

Vọng Tần Xuyên 望秦川

Không ghi tác  giả

Thất ngôn

Lý Kỳ

70

Tô thị biệt nghiệp 素食别业

Tổ Vịnh

Thất ngôn

 

71

Bắc thứ Cố sơn hạ 北次固山下

Vương Loan

Thất ngôn

 

72

Đăng Nhuận Châu thành 登润州城

Khâu Vị

Thất ngôn

 

73

Đồng Vương Trưng Quân du Động Đình hữu hoài 同王徵君游洞庭有怀

Trương Vị

Thất ngôn

 

74

Phá Sơn tự hậu Thiền viện 破山寺后禅院

Thường Kiến

Thất ngôn

 

75

Nhạc Dương vãn cảnh 岳阳晚景

Trương Quân

Thất ngôn

 

76

Tầm Nam Khê Thường đạo sĩ 寻南溪常道士

Lưu Trường Khanh

Thất ngôn

 

77

Hoà vạn niên thành thiếu phủ ngụ hữu 和万年成少府寓有

Tiền Khởi

Thất ngôn

 

78

Tống Phần Thành Vương chủ 送分城王主

Vi Ứng Vật

Thất ngôn

 

79

Vân Dương quán dữ Hàn Thân túc biệt 云阳馆与韩绅宿别

Tư Không Thự

Thất ngôn

 

80

Trừ tịch dạ túc Thạch Đầu dịch 除夕夜宿石头译

Đái Thúc Luân

Thất ngôn

 

81

Thảo 草

Bạch Cư Dị

Thất ngôn

 

82

Xuân sơn nguyệt dạ 春山月夜

Vu Lương Sử

Thất ngôn

 

83

Lữ du thương xuân 旅游伤春

Lý Xương Phù

Thất ngôn

 

Bảng 2. Khảo cứu “Đường thi tuyệt cú diễn ca”

TT

Bài thơ

Tác giả

Thể dịch sang Nôm

1

Thục trung cửu nhật 蜀中九日

Vương Bột

Lục bát

2

Đồng Tước đài 铜雀台

Lưu Đình Kỳ

Lục bát

3

Tống Lương Lục 送梁六

Trương Duyệt

Lục bát

4

Lương Châu từ 凉州词

Vương Hàn

Lục bát

5

Thanh bình điệu –  kì 1 清平调其一

Lý Bạch

Lục bát

6

Thanh bình điệu –  kì 2 清平调其二

Lý Bạch

Lục bát

7

Thanh bình điệu –  kì 3 清平调其三

Lý Bạch

Lục bát

8

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng 黄鹤楼送孟浩然之广陵

Lý Bạch

Lục bát

9

Tảo phát Bạch Đế thành 早发白帝城

Lý Bạch

Lục bát

10

Tô đài lãm cổ 苏台览古

Lý Bạch

Lục bát

11

Xuân dạ Lạc Thành văn địch 春夜洛城闻笛

Lý Bạch

Lục bát

12

Điện tiền khúc 殿前曲

Vươn Xương Linh

Lục bát

13

Tây cung xuân oán 西宫春怨

Vương Xương Linh

Lục bát

14

Tây cung thu oán 西宫秋怨

Vương Xương Linh

Lục bát

15

Trường tín thu từ 长信秋词

Vương Xương Linh

Lục bát

16

Khuê oán 闺 怨

Vương Xương Linh

Lục bát

17

Tòng quân hành –  kì 1 从军行其一

Vương Xương Linh

Lục bát

18

Phù Dung lâu tống Tân Tiệm 芙蓉楼送辛渐

Vương Xương Linh

Lục bát

19

Lư Khê biệt nhân 卢溪别人

Vương Xương Linh

Lục bát

20

Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ 九月九日忆山东兄弟

Vương Duy

Lục bát

21

Tống Nguyên Nhị sứ An Tây 送元二使安西

Vương Duy

Lục bát

22

Xuân tứ 春思

Giả Chí

Lục bát

23

Tống Lý Thị Lang phó Thường Châu

送李侍郎赴常州

Giả Chí

Lục bát

24

Mục Túc phong ký gia nhân 苜蓿烽奇家人

Sầm Tham

Lục bát

25

Phùng nhập Kinh sứ 逢入京使

Sầm Tham

Lục bát

26

Sơn phòng xuân sự 山房春事

Sầm Tham

Lục bát

27

Tặng Hoa Khanh 赠花卿

Đỗ Phủ

Lục bát

28

Tuyệt cú 绝句

Đỗ Phủ

Lục bát

29

Tống Vũ Văn Lục 送宇文六

Thường Kiến

Lục bát

30

Biệt Đổng Đại 别董大

Cao Thích

Lục bát

31

Lương Châu từ 凉州词

Vương Chi Hoán

Lục bát

32

Đào hoa khê 桃花溪

Trương Húc

Lục bát

33

Hàn thực 寒食

Hàn Hủ

Lục bát

34

Phong Kiều dạ bạc 楓桥夜泊

Trương Kế

Lục bát

35

Giang thôn tức sự 江村即事

Tư Không Thự

Lục bát

36

Dạ thướng Thụ Hàng văn địch 夜上受降闻笛

Lý Ích

Lục bát

37

Cung oán 宫怨

Lý Ích

Lục bát

38

Thạch Thành Đầu 石城头

Lưu Vũ Tích

Lục bát

39

Thập ngũ dạ vọng nguyệt 十五夜望月

Vương Kiến

Lục bát

40

Hán uyển hành 汉苑行

Trương Trọng Tố

Lục bát

41

Đăng lâu 登楼

Dương Sĩ Ngạc

Lục bát

42

Văn Bạch Lạc Thiên tả giáng Giang Châu Tư Mã 闻白乐天左降江州司马

Nguyên Chẩn

Lục bát

43

Vũ Lâm Linh 雨淋玲

Trương Hựu

Lục bát

44

Độ Tang Càn 渡桑乾

Giả Đảo

Lục bát

45

Dạ vũ ký thác 夜雨寄托

Lý Thương Ẩn

Lục bát

46

Bạc Tần Hoài 泊秦淮

Đỗ Mục

Lục bát

47

Dương liễu chi 杨柳枝

Ôn Đình Quân

Lục bát

48

Giang lâu thư hoài 江楼书怀

Triệu Hỗ

Lục bát

49

Khách hữu bốc cư bất toại du Thiên Lũng nhân đề 客有卜居不遂薄游汧陇因题

Hứa Hồn

Lục bát

50

Cung oán 宫怨

Tư Mã Lễ

Lục bát

51

Hoa Thanh Cung 花清宫

Thôi Lỗ

Lục bát

52

Biên từ 边词

Trương Kính Trung

Lục bát

53

Tây Thi thạch 西施石

Lâu Dĩnh

Lục bát

54

Hoài thượng biệt hữu nhân 淮上别友人

Trịnh Cốc

Lục bát

55

Vô Đề 无题

Thôi Hoạch

Lục bát

Post by: Vu Nguyen HNUE
http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u/Ng%E1%BB%AF-v%C4%83n-H%C3%A1n-N%C3%B4m/p/khao-cuu-hai-dich-pham-tho-duong-sang-chu-nom-duong-thi-hop-tuyen-ngu-ngon-luat-giai-am-duong-thi-tuyet-cu-dien-ca-va-van-de-tiep-nhan-tho-do-phu-tai-viet-nam-925