25/3/24

Tầm Hồ ẩn giả

 尋胡隱者 

渡水復渡水,
看花還看花。

春風江上路,
不覺到君家。

高啟

Giản thể

寻胡隐者 
渡水复渡水,看花还看花。春风江上路,不觉到君家

Âm

Độ thủy phục độ thủy, khán hoa hoàn khán hoa.
Xuân phong giang thượng lộ, Bất giác đáo quân gia.

Nghĩa. Tìm người ở ẩn họ Hồ

Qua sông suối rồi lại qua sông suối, Ngắm hoa rồi lại ngắm hoa.
Có gió xuân thổi trên con đường chạy dọc bên sông, Đi không để ý, bất giác đã tới nhà ông.

Tạm dịch

Qua suối lại qua suối,

Ngắm hoa rồi ngắm hoa.

Gió xuân đường mát mẻ,

Bất giác đã bên nhà.

Chú

高啟 Cao Khải (1336-1374) tự Lý Địch 季迪, hiệu Tra Hiên 槎軒, thi nhân trứ danh thời cuối Nguyên đầu Minh. Từng được Chu Nguyên Chương sai biên tập Minh sử, rồi cử làm Hộ bộ thị lang nhưng ông không nhận.Về sau ông dính vào một vụ văn tự ngục, bị xử chém lúc mới 39 tuổi.



23/3/24

Những từ dùng sai ?

Nhiều năm trước, trên mạng loan truyền một bài viết có nhan đề "Những từ dùng sai trong ngôn ngữ tiếng Việt" (sic). Bài viết có trúng co trật, nhưng trật nhiều hơn trúng. Ngay hồi ấy cũng đã có người chỉ ra những chỗ sai của bài viết ấy.

Nay thấy có người đưa trở lại, và số share cũng rất nhiều. nên tìm lại mấy bài cũ, lưu lại đây cho dễ tìm.
1. Bài gốc: có thể đọc, vd ở đây:
http://gvn.co/threads/bookhunter-nhung-tu-dung-sai-trong-ngon-ngu-tieng-viet.1118185/
hoặc fb: (nhan đề đã thay đổi) https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid02EHhEF95LyAJbckuYEvaJdg4CQYpyeDuDyDQpBnUXEw1wfT1GicctRvWmJqBEUVJzl&id=100011312654071
2. Bài của Hoàng Tuấn Công
"Bài viết “Những từ dùng sai trong tiếng Việt” lan truyền trên mạng chẳng khác nào một phương thuốc được gã lang băm vô danh nào đó giới thiệu là “thập toàn đại bổ”, nhưng thực chất lại chứa đựng quá nhiều vị độc. Kẻ biết thì im lặng, không dùng; người không biết thì tha hồ chuốc cái hại vào thân. "
Đọc tiếp: https://www.facebook.com/TuancongThuphong/posts/pfbid02WbteJHjpCZUqhddMXNhYw4Zo32216dPimrWos8WDA7tnkLPR4uww4C6FauwLQ87kl?
2.Bài của Đỗ Chiêu Đức
"Người Việt ta nói : Thùng rổng thì kêu to ! Còn người Hoa thì gọi những người Trí Thức Nửa Mùa bằng từ ” Bàn-tong-shui 半桶水 Bán dũngthủy “, có nghĩa là ” Nửa Thùng Nước “, nên óc ách ọc ạch dữ lắm ! Không biết là người viết bài nầy thuộc dạng nào, chớ tôi thì tôi thuộc loại Nửa Thùng Nước ” đó, cho nên đọc bài nầy tôi thấy tôi ” Óc Ách ” dữ lắm, nhất là đọc những câu mát mẻ, mạt sát, mỉa mai người khác của người viết. Chịu không nổi, nên mới ” Ọc ” ra bài viết nầy !"
Nguyên bài: https://tongphuochiep-vinhlong.com/2018/04/nhung-tu-dung-sai-trong-tieng-viet/

21/3/24

Tịch thượng dạ biệt tống Trương chủ bạ

 

TỊCH THƯỢNG DẠ BIỆT TRƯƠNG CHỦ BẠ
Bùi Di Trực
---
席上夜別張主簿
紅燭剪還明,
綠尊添又滿。
不愁前路長,
只畏今宵短 .
裴夷直

Giản thể
红烛剪还明,绿尊添又满。
不愁前路长,只畏今宵短。

Âm:
Hồng chúc tiễn hoàn minh,
Lục tôn thiêm hựu mãn.
Bất sầu tiền lộ trường,
Chỉ uý kim tiêu đoản.

Nghĩa:
Ngọn nến đỏ cắt tim đi lại sáng,
Chén ngọc xanh rót thêm rượu lại đầy tràn.
Chẳng buồn vì con đường phía trước dài,
Chỉ sợ đêm nay ngắn ngủi.

Tạm dịch
Nến đỏ tàn rồi sáng,
Li xanh vơi lại đầy.
Không sợ mai đường ngái,
Chỉ lo đêm chẳng dài.



20/3/24

Theo dòng lịch sử

 sách của Trần Quốc Vượng

“Cuốn sách giống như một cuốn hồi ký ghi lại chặng đường lịch sử nghiên cứu của GS. Trần Quốc Vượng, những mảnh đất nơi ông đã từng đến và đi qua trên mọi miền tổ quốc, cùng với những quan điểm, suy nghĩ, nghiên cứu của ông về lịch sử, văn hóa và tâm thức người Việt. Đặc biệt là khảo cổ học.

Các vấn đề lịch sử văn hóa, các vùng đất được đề cập đến trong quyển sách như: đất tổ Đền Hùng, trống đồng và tâm thức Việt cổ, mảnh đất Vĩnh Phú, Cổ Loa, Làng Bùng, Trạng Bùng, khảo cổ học khu vực Hương Sơn, Mê Linh, Đông Anh, Gia Lâm, Hà Bắc, Sông Châu - Núi Đọ, Xứ Thanh, Hà Tĩnh...” (Lời giới thiệu của Viện Sử học)







19/3/24

Hoa hạ

 

花下  
花下一壺酒
定將誰舉杯
雪英飛落近
疑是故人來
王安石                   

Giản thể

花下一壶酒,定将谁举杯。
雪英飞落近,疑是故人来

Âm

Hoa hạ nhất hồ tửu, Định tương thùy cử bôi.
Tuyết anh phi lạc cận, Nghi thị cố nhân lai.

Chú

-          hồ: cái bầu, nậm xưa thường dùng đựng rượu.

-          tương (phó từ): sắp.

-          雪英 tuyết anh: bông tuyết. anh: hoa.

-          故人 cố nhân: bạn cũ.

王安石 Vương An Thạch: chính trị gia, tư tưởng gia đời Tống, từng hai lần đảm nhận chức tể tướng, một trong Đường Tống bát đại gia.

Nghĩa.

Ngồi bên khóm hoa với một hồ rượu, biết cùng ai nâng chén đây?
Bông tuyết bay rơi gần đâu đó, ngỡ là tiếng chân bạn cũ đến chơi.

Tạm dịch

Bên hoa một nậm rượu,

Biết cùng ai rót mời.

Bông tuyết rơi gần đó,

Ngỡ đâu bạn đến chơi.



17/3/24

Xuân giang khúc

春江曲
江水春沉沉,
上有雙竹林。
竹葉壞水色,
郎亦壞人心。
郭震

Âm

Giang thủy xuân trầm trầm, Thượng hữu song trúc lâm.
Trúc diệp hoại thủy sắc, Lang diệc hoại nhân tâm.

Nghĩa. Khúc hát sông xuân.

Sông mùa xuân nước xanh thăm thẳm, 
Trên hai bên bờ sông có rừng tre.
Lá tre làm hỏng màu nước, 
Còn chàng thì làm hỏng trái tim em.

Tạm dịch.

Xuân nước sông xanh thẳm,
Hai bờ tre lặng im.
Lá che tối mặt nước.
Chàng nhuộm tối tim em.

Giản thể.

江水春沉沉,上有双竹林。竹叶坏水色,郎亦坏人心。

Chú

沉沉 trầm trầm: nặng nề; sâu thẳm. 沉 trầm: chìm. Cũng viết 沈. 沉沒 trầm một: chìm đắm. 石沉大海 thạch trầm đại hải: đá chìm đáy biển. 深沉 sâu sắc.

壞 (坏) hoại: phá hỏng, mục nát. 破壞 phá hoại: phá hỏng. 敗壞 bại hoại: làm hỏng.

郎 lang: chàng (tiếng phụ nữ gọi chồng hay tình nhân).

郭震 Quách Chấn (656 - 713) nhà thơ thời Sơ Đường. Vốn là danh tướng, tể tướng triều Đường, về sau bị bãi chức, biếm đến Tân Châu (nay thuộc Quảng Đông) làm tư mã, bệnh chết trên đường đi nhậm chức.

15/3/24

Đề Hoa sơn xuân bích

題花山春壁

寺裏山因花得名,
繁英不見草縱橫。
裁培剪伐修勤力,
花易凋零草易生。

蘇舜欽

Giản thể

寺里山因花得名,

繁英不见草纵横。

栽培剪伐须勤力,

花易凋零草易生。

Âm

Tự lí sơn nhân hoa đắc danh, Phồn anh bất kiến thảo tung hoành.
Tài bồi tiễn phạt tu cần lực, Hoa dị điêu linh thảo dị sanh.

Chú

-          花山寺 Hoa Sơn tự: tên chùa, nay ở đâu chưa rõ. Có người cho là ở Trấn Giang.

-      蘇舜欽 Tô Thuấn Khâm (1008-1048) nhà thơ thời Tống.

Nghĩa. Đề trên vách chùa Hoa Sơn lúc xuân về

Chùa có tên Hoa Sơn tự hẳn do có nhiều hoa, 

Nhưng đến nơi không thấy hoa đâu chỉ thấy cỏ khắp nơi. 

Việc vun trồng cắt tỉa hoa phải chăm chỉ, 

Vì hoa dễ khô héo mà cỏ thì dễ mọc.

Tạm dịch

Chùa hẳn nhiều hoa nên có tên,
Hoa đâu không thấy cỏ liên miên.
Trồng hoa vun xới cần chăm chỉ.
Hoa dễ héo tàn cỏ dễ lên.



13/3/24

Ức mai

憶梅
定定住天涯,
依依向物華。
寒梅最堪恨,
長作去年花。
李商隱

Âm

Định định trú thiên nhai, 
Y y hướng vật hoa. 
Hàn mai tối kham hận, 
Trường tác khứ niên hoa.

Nghĩa. Nhớ hoa mai.

Yên yên tĩnh tĩnh đứng nơi góc trời, luôn trông về cảnh tươi đẹp.
Hàn mai thật đáng buồn đáng giận, vì thường xuyên phải làm hoa năm ngoái.

Tạm dịch

Im im một góc trời,
Ngong ngóng cảnh xuân tươi.
Mai một lòng hờn giận,
Mãi hoa năm ngoái thôi.

Chú

- 定定 định định: đứng yên, im lìm.

- 依依 y y: luôn luôn.

- 天涯 thiên nhai: chân trời, chỉ nơi rất xa quê (ở đây là Từ Châu).

- 物華 vật hoa: vạn vạt tươi như hoa, chỉ cảnh vật mùa xuân.

- 寒梅 hàn mai: mai nở hoa vào mùa đông giá rét, nên gọi hàn mai.

- 堪恨 kham hận: đáng giận. 堪 kham: chịu đựng; ở đây dùng như chữ khả 可.

- 長 trường: lâu dài. Bản khác: 常 thường.

- 去年花 khứ niên hoa: hoa năm ngoái. Vì mai nở vào mùa đông, đến xuân đã tàn, nên gọi là hoa năm ngoái.

李商隱 Lí Thương Ẩn (khoảng 813 - 858) là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất thời Vãn Đường, cùng với Đỗ Mục được người đời tôn xưng là Tiểu Lí Đỗ (gọi "tiểu" để phân biệt với cặp Lí Đỗ nổi tiếng thời Thịnh Đường - Lí Bạch - Đỗ Phủ).

Giản thể
定定住天涯,依依向物华。
寒梅最堪恨,长作去年花。


Thư họa: internet



11/3/24

Ngọc đài thể

玉臺體其十一 

昨夜裙帶解
今朝蟢子飛
鉛華不可棄
莫是稿砧歸
權德輿

Giản thể.
昨夜裙带解,今朝蟢子飞。
铅华不可弃,莫是藁砧归

Âm

Tạc dạ quần đái giải, Kim triêu hỉ tử phi.
Diên hoa bất khả khí, Mạc thị cảo châm quy.

Nghĩa

Hôm qua giải quần tự nhiên lỏng rồi rơi ra,
Sáng nay lại thấy nhện bay.
Phấn sáp không thể bỏ bê được nữa,
Chẳng phải "cái chày" sắp về đó sao.

Tạm dịch

Đêm trước giải quần rớt,

Sáng nay thấy nhện sa.

Phấn son không biếng nữa,

Chàng chắc sắp về nhà.

Chú

-          玉臺體 Ngọc đài thể: tên một thể thơ xưa, thời Hán, Ngụy, Lục triều hay làm.

-          裙帶解 quần đái giải: giải quần mở ra. Người xưa tin giải quần tự rơi ra là điềm nên duyên vợ chồng.

-          蟢子 hỉ tử: tên một giống nhện chân cao. Người xưa tin rằng thấy loài nhện này sa thì gặp điều vui. Có lẽ do  hỉ: tên loài nhện đồng âm với  hỉ: vui.

-          鉛華 diên hoa: phấn sáp.  diên: chì, một loại bột chì dùng để trang điểm.

-          莫是 mạc thị, ở đây có nghĩa 莫不是 mạc bất thị: chớ không phải là.

-          藁砧 cảo châm: chày đá, ám chỉ người chồng. Có tác giả giải thích xưa chồng đi lính xa, vợ ở nhà dùng chày đá đập vải dệt áo gởi cho chồng, nên hình tượng chày đá thường dùng như một ẩn dụ chỉ người chồng đi xa. Thật ra dùng cái hình ảnh chày đá thì không cần giải thích gì cũng hiểu ám chỉ người chồng!

權德輿 Quyền Đức Dư (759 - 818), nhà thơ thời Trung Đường. Bốn tuổi đã biết làm thơ, từng làm quan đến Lễ bộ thị lang đồng Bình chương sự (Tể tướng).

Ông có chùm 12 bài thơ Ngọc đài thể, trong đó bài thứ 11 trên đây nổi tiếng hơn cả.

9/3/24

Cúc hoa 3

菊花其三 

忘身忘世已都忘,
坐久蕭然一榻涼。

歲晚山中無歷日,
菊花開處即重陽。

玄光禪師

Âm.

Vong thân vong thế dĩ đô vong, Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật, Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.

Nghĩa.

Quên thân quên đời tất cả đều quên, Ngồi mãi trên chiếc giường thấp đơn sơ lạnh lẽo.
Năm tháng trôi qua trong núi không có lịch, Nhưng thấy lúc hoa cúc nở thì biết là đã đến tiết Trùng dương.

Tạm dịch

Quên thân quên thế thảy đều quên,

Ngồi mãi giường đơn lòng lặng yên.

Ở chốn núi non không có lịch,

Nhìn hoa cúc nở biết thu liền.

Chú

-       玄光禪師 Thiền sư Huyền Quang (1254-1334) tên thật là Lý Đạo Tái 李道載 vị tổ thứ ba dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Đây là bài thứ ba trong chùm 6 bài ngũ ngôn tuyệt cú của ông.

Giản thể

忘身忘世已都忘,坐久萧然一榻凉。
岁晚山中无历日,菊花开处即重阳

6/3/24

vÔ ĐỀ

無題

去年曾約牡丹開,
同向花前把一杯。
今日花開人不見,
對花無語却歸來.
許有壬

Âm:
Khứ niên tằng ước mẫu đơn khai,
Đồng hướng hoa tiền bả nhất bôi.
Kim nhật hoa khai nhân bất kiến,
Đối hoa vô ngữ tức quy lai.

Nghĩa
Năm ngoái từng hứa hẹn rằng khi nào hoa mẫu đơn nở,
Sẽ cùng nhau nâng chén rượu thưởng hoa.
Năm nay hoa nở mà chẳng thấy người xưa,
Ngắm hoa nở mà chẳng nói lời nào, đành lủi thủi quay về.

Tạm dịch
Năm ngoái hẹn khi hoa trỗ bông,
Cùng nhau ngồi ngắm uống vài chung
Hôm nay hoa nở người không thấy,
Lặng lẽ nhìn hoa nặng trĩu lòng

Chú
Hứa Hữu Nhâm 許有壬 (1287-1364) tự Khả Dụng 可用, sống vào thời nhà Nguyên.

4/3/24

Xuân dạ

 春夜  

春苑日徘徊,竹堂侵夜開。
驚鳥排林度,風花隔水來。

虞世南                   

Âm.

Xuân uyển nhật bồi hồi, Trúc đường xâm dạ khai.
Kinh điểu bài lâm độ, Phong hoa cách thủy lai.

Nghĩa. Đêm xuân

Nơi vườn hoa, ánh mặt trời vẫn còn quẩn quanh; căn nhà tre bắt đầu bị bóng đêm xâm nhập. Những con chim giật mình sắp hàng bay về rừng, Gió đưa hương thơm hoa cỏ từ bên kia suối qua.

Tạm dịch

Vườn hoa trời nhập nhoạng, 

Nhà bóng tối dần loang.

Chim giật mình về núi,

Hoa theo gió tỏa hương.

Giản thể. 春苑月裴回,竹堂侵夜开。惊鸟排林度,风花隔水来

3/3/24

Kính

 

世間眉目總非真,一柱金銅百萬身。
借問塵埃誰似我,看來惟有鏡中人。
阮勸

Âm

Thế gian my mục tổng phi chân, Nhất trụ kim đồng bách vạn thân.
Tá vấn trần ai thuỳ tự ngã, Khán lai duy hữu kính trung nhân.

Nghĩa

Mặt mày trên đời đều không thật, Một tấm gương đồng soi trăm vạn thân người.
Xin hỏi trong cõi trần ai ai là người giống ta? Xem ra chỉ có cái người trong gương mà thôi

Tạm dịch

Người đời mặt mũi thiệt hay không?

Muôn vạn người chung một tấm đồng!

Thử hỏi trần ai ai giống tớ,

Xem ra chỉ có kẻ trong gương.