27/7/24

Thẩm Viên 2

 沈園其二 

夢斷香消四十年,
沈園柳老不吹綿。
此身行作稽山土,
猶吊遺蹤一泫然。

陸游

Âm

Mộng đoạn hương tiêu tứ thập niên,
Thẩm Viên liễu lão bất xuy miên.
Thử thân hành tác Kê sơn thổ,
Do điếu di tung nhất huyễn nhiên.

Chú

-          四十年 40 năm, tính từ khi Đường Uyển mất.

-          不吹綿 tơ liễu không bay. 綿 miên: bông, cũng dùng chỉ vật thể như bông. Ở đây chỉ tơ liễu.

-          hành, phó từ: như sẽ, sắp.

-          稽山 núi Kê, nay ở đông nam Thiệu Hưng, Chiết Giang.

-          do, phó từ: còn, vẫn

-          điếu: thăm viếng, tưởng nhớ người đã khuất.

-          泫然 huyễn nhiên: (mặt mũi) đầy nước mắt. huyễn: nước mắt ròng ròng.

Nghĩa

Mộng đứt hương tàn đã bốn mươi năm, cây liễu ở Thẩm Viên cũng già nua, không còn nhả tơ bay như xưa nữa. Thân này sắp trở thành một nắm đất ở núi Kê, đến viếng thăm chốn xưa vẫn còn nước mắt đầm đìa.

Tạm dịch.

Bốn chục năm qua giấc mộng buồn,
Thẩm Viên liễu cỗi hết tơ buông.
Thân này sắp sửa về cùng đất,
Đến chốn xưa nhìn lệ lại tuôn.

Giản thể.
梦断香消四十年,沈园柳老不吹绵。
此身行作稽山土,犹吊遗踪一泫然




陸游 (1125 - 1210)nhà thơ thời Nam Tống, từng tham gia quân đội ra trận chống quân Kim, từng giữ chức quan đến Bảo Chương Các đãi chế. Ông giỏi về thơ, từ, văn và nổi tiếng về sử học. Lục Du cùng với Vưu Mậu, Dương Vạn Lý, và Phạm Thành Đại được gọi là Tứ đại gia Nam Tống. Thơ ông còn lưu lại hơn chín ngàn bài.

Lục Du kết hôn với Đường Uyển, con gái của cậu mình, khi ông 20 tuổi (1144). Mẹ của Lục Du không thích con dâu, ép họ phải li hôn sau khoảng ba năm chung sống.

Gần mười năm sau, ông tình cờ gặp lại Đường Uyển ở Thẩm Viên, phía nam chùa Vũ Tích. Đường Uyển đi với chồng mới, kể lại cho chồng nghe chuyện và gửi rượu cùng thức ăn tới cho Lục Du. Lục Du buồn bã viết một bài từ lên tường. Đường Uyển sau khi đọc bài từ cũng viết một bài đáp lại, không lâu sau đó buồn mà qua đời. Sự kiện này làm Lục Du đau đớn khôn nguôi, viết khá nhiều thơ từ giãi bày tâm sự, trong đó nổi tiếng nhất là chùm hai bài tuyệt cú Thẩm Viên nhị thủ, viết khi ông đã 75 tuổi. Trên đây là thứ hai.

25/7/24

Thẩm Viên 1

沈園其一
城上斜陽畫角哀,
沈園非復舊池臺。

傷心橋下春波綠,
曾是驚鴻照影來。

陸游

Âm.

Thành thượng tà dương hoạ giốc ai,
Thẩm viên phi phục cựu trì đài.
Thương tâm kiều hạ xuân ba lục,
Tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.

Chú

-          沈園:Thẩm Viên, vị trí nay ở nam chùa Vũ Tích, Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang.

-          畫角 tù và, loại nhạc khí làm bằng sừng trâu hay vỏ ốc, tiếng nghe ai oán.

-          驚鴻:Chim hồng bay bổng. kinh, nghĩa gốc là ngựa lồng lên. Chữ lấy từ bài Lạc thần phú của Tào Thực: “Phiên nhược kinh hồng, uyển nhược du long” 翩若驚鴻,婉若遊龍 (phiêu hốt như chim hồng bay bổng, uyển chuyển như rồng uốn lượn) chỉ dáng vẻ của phụ nữ.

Nghĩa

Trên thành lúc chiều xuống tiếng tu và trổi lên nghe ai oán. Thẩm Viên không còn những đình đài bên ao xưa. Dưới cầu mặt nước ao xuân vẫn xanh biếc một cách đau lòng, Nơi đây từng in hình bóng nàng như chim hồng thoáng bay qua.

Tạm dịch

Thành cổ chiều buông tiếng giốc đưa,
Thẩm Viên lầu gác chẳng còn lưa.
Chân cầu sóng gợn ao xuân biếc,
Một thủa từng in bóng dáng xưa.

Giản thể

城上斜阳画角哀,沈园非复旧池台。
伤心桥下春波绿,曾是惊鸿照影来

陸游 1125 - 1210nhà thơ thời Nam Tống, từng tham gia quân đội ra trận chống quân Kim, từng giữ chức quan đến Bảo Chương Các đãi chế. Ông giỏi về thơ, từ, văn và nổi tiếng về sử học. Lục Du cùng với Vưu Mậu, Dương Vạn Lý, và Phạm Thành Đại được gọi là Tứ đại gia Nam Tống. Thơ ông còn lưu lại hơn chín ngàn bài.

Lục Du kết hôn với Đường Uyển, con gái của cậu mình, khi ông 20 tuổi (1144). Mẹ của Lục Du không thích con dâu, ép họ phải li hôn sau khoảng ba năm chung sống.

Gần mười năm sau, ông tình cờ gặp lại Đường Uyển ở Thẩm Viên, phía nam chùa Vũ Tích. Đường Uyển đi với chồng mới, kể lại cho chồng nghe chuyện và gửi rượu cùng thức ăn tới cho Lục Du. Lục Du buồn bã viết một bài từ lên tường. Đường Uyển sau khi đọc bài từ cũng viết một bài đáp lại, không lâu sau đó buồn mà qua đời. Sự kiện này làm Lục Du đau đớn khôn nguôi, viết khá nhiều thơ từ giãi bày tâm sự, trong đó nổi tiếng nhất là chùm hai bài tuyệt cú Thẩm Viên nhị thủ, viết khi ông đã 75 tuổi. Trên đây là bài đầu. 

24/7/24

Mộ thu độc du Khúc giang

 暮秋獨遊曲江

荷葉生時春恨生,荷葉枯時秋恨成。
深知身在情長在,悵望江頭江水聲。
李商隱

Chú

-          曲江: tức sông đào Khúc Giang, nay ở đông nam thành phố Tây An tỉnh Thiểm Tây.

-          春恨:giống như 春愁,春怨。生:bản khác: “起”。

-          深知:十分了解。hiểu rất rõ ràng.

-          悵望:Nhìn ngắm hoặc mong ngóng một cách buồn bã.

Nghĩa. Cuối thu một mình đi chơi trên sông Khúc.

Khi xuân về, lá sen mới nhú, nỗi hờn oán đã phát sinh.
Khi thu đến, lá sen tàn, nỗi oán hờn cũng thành.
Biết rõ ràng, chỉ cần còn sống trên đời, tình cảm sẽ trường tồn mãi mãi.
Buồn bã nhìn nơi đầu sông, nghe tiếng nước chảy không ngừng.

Tạm dịch

Xuân lá sen xanh mối hận sanh

Thu lá sen khô mối hận thành.

Vẫn hay thân có tình còn có

Buồn lặng nghe dòng nước cuốn nhanh.

Giản thể.

荷叶生时春情生,荷叶枯时秋恨成。深知身在情长在,怅望江头江水声

23/7/24

Vịnh liễu

 詠柳

碧玉妝成一樹高,萬條垂下綠絲絛。
不知細葉誰裁出,二月春風似剪刀。
賀知章

Âm

Bích ngọc trang thành nhất thụ cao,

Vạn điều thùy hạ lục ti thao.

Bất tri tế diệp thùy tài xuất,

Nhị nguyệt xuân phong tự tiễn đao.

Chú.

-          碧玉 ngọc biếc. Hình dung màu sắc cây liễu xanh như màu ngọc bích.

-          trang: 打扮 hóa trang, sắm vai. Liễu thường được ví như phụ nữ, chữ trang (trang điểm) dùng ở đây rất đắt.

-          () điều: cành nhỏ.

-          絲絛 ti thao: 絲帶 dải tơ. thao: dây đánh bằng tơ, dải tơ.

Nghĩa.

Ngọc xanh hóa trang thành cây liễu cao, muôn ngàn cành nhỏ rủ xuống như dải thao xanh.
Không biết những chiếc lá nhỏ do ai cắt thành. Gió xuân vào tháng hai giống như những cây dao. 

Tạm dịch

Ngọc biếc hóa thành cây liễu cao,

Muôn cành tơ rủ tựa dây thao.

Chẳng hay lá nhỏ ai người cắt,

Gió tháng hai như những lưỡi dao.

Giản thể

碧玉妆成一树高,万条垂下绿丝绦。
不知细叶谁裁出,二月春风似剪刀

賀知章 Hạ Tri Chương ( 659 - 744), nhà thơ, đồng thời là nhà thư pháp nổi tiếng thời Sơ Đường, cùng với Trương Húc, Trương Nhược Hư, Bao Dung được gọi là Ngô trung tứ sĩ (Bốn danh sĩ đất Ngô). Ông hơn Lí Bạch 40 t, làm bạn vong niên với Lí Bạch và rất được Lí bạch quý trọng. 

22/7/24

Xuân tuyết

 

春雪 

春雪滿空來,觸處似花開。
不知園裏樹,若箇是真梅。

東方虯

Âm

Xuân tuyết mãn không lai, Xúc xứ tự hoa khai.
Bất tri viên lý thụ, Nhược cá thị chân mai?

Nghĩa.

Đầu xuân bất ngờ tuyết rơi đầy trời, đậu trên cành cây trông như những bông hoa.
Nhìn cây trong vườn, phân vân không biết đâu mới thực là hoa mai.

Chú:

-          觸處 (触处)/chù chù/ : 处处;到处 xúc xứ: khắp nơi. xúc, tính từ: khắp. 觸處皆是 xúc xứ giai thị: đâu đâu cũng thế.

-          若個:哪個。Nhược cá: cái nào.

-          mai: cây mơ, đầu xuân nở hoa, có loại hoa trắng, có loại hoa đỏ. nở hết hoa rồi mới nẩy lá, quả chua, chín thì sắc vàng.

東方虯 Đông Phương Cầu nhà thơ thời Sơ Đường. Có bản ghi tác giả là 趙嘏 Triệu Hỗ, nhà thơ thời Vãn Đường. 

Tạm dịch

Xuân tuyết bay bời bời,
Như bông nở khắp nơi.
Nhìn trong vườn chẳng biết,
Đâu mới thực hoa mai.

Giản thể.

春雪满空来,触处似花开。不知园里树,若个是真梅

16/7/24

Đề minh tinh hậu diện nhất tuyệt

題銘旌後面一絕 

嗟我和娘是一人,
如何相合遽相分。
娘攜一半清香去,
留我癡狂一半身。

范阮攸

Âm

Ta ngã hoà nương thị nhất nhân, 

Như hà tương hợp cự tương phân.

Nương huề nhất bán thanh hương khứ,

Lưu ngã si cuồng nhất bán thân.

Nghĩa:  Bài tứ tuyệt đề sau minh tinh

Ôi! Ta với nàng là một người, cớ sao vừa hợp lại đã vội vàng chia tay nhau,
Nàng mang một nửa thơm tho trong trẻo đi mất, để lại ta một nửa thân si dại.

Tạm dịch

Ta với nàng như chỉ một thôi,
Ôi sao mới hợp đã tan rồi.
Nàng đi mang nửa hồn thơm thảo,
Để lại ta đây dại nửa người.

Chú

-          銘旌 minh tinh. Tấm vải hoặc giấy, viết họ tên chức hàm người chết. Ta thường gọi là cái triệu. Minh: khắc vào, ghi chép, Tinh: lá cờ nhỏ.

Phạm Nguyễn Du 范阮攸 (1740-1786), làm quan tới chức Đông các đại học sĩ thời Lê Cảnh Hưng. Năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra Bắc, Phạm Nguyễn Du mộ quân chống lại, chưa được bao lâu thì bệnh mất.

Bài thơ trên đây trích trong tập Đoạn trường lục, có thể xem là cuốn nhật ký bằng thơ của tác giả, ghi lại những nỗi đau xót, nhớ nhung với người vợ vừa mới mất. Vợ ông là Nguyễn Thị Đoan Hương người cùng huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Hai người chung sống được 12 năm thì bà mất vì bệnh đậu mùa, lúc mới 28 tuổi. Ông bấy giờ 33.

Đọc câu cuối, không khỏi nhớ đến hai câu thơ của Hàn Mạc Tử:

Người đi, một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.

Giản thể

嗟我和娘是一人,如何相合遽相分。
娘携一半清香去,留我癡狂一半身

14/7/24

Thu giang tả vọng

秋江寫望 

蒼茫沙嘴鷺鷥眠,
片水無痕浸碧天。
最愛蘆花經雨後,
一蓬煙火飯漁船。

林逋

Âm

Thương mang sa chủy lộ tư miên,
Phiến thủy vô ngân tẩm bích thiên.
Tối ái lô hoa kinh vũ hậu,
Nhất bồng yên hỏa phạn ngư thuyền.

Nghĩa

Con cò nằm ngủ mỏm cát mênh mông, mặt nước không một gợn sóng phản chiếu bầu trời trong xanh. Thích nhất là hoa lau sau cơn mưa, và những làn khói bếp tỏa ra từ những chiếc thuyền đánh cá.

Tạm dịch

Mỏm cát mênh mông cò ngủ say,
Mặt sông phẳng lặng trải trời mây.
Yêu sao lau trắng sau mưa gội,
Làn khói phất phơ bếp lão chài.

Giản thể

苍茫沙嘴鹭鸶眠,片水无痕浸碧天。
最爱芦花经雨后,一蓬烟火饭渔船

Chú

寫望: miêu tả cảnh vật trước mắt.

蒼茫 mênh mông.

沙嘴沙灘 mỏm cát, cồn cát

鷺鷥:白鷺 cò trắng

--映照。浸: ngâm, nhúng, tưới, tẩy; ở đây có nghĩa là ánh chiếu.

 danh từ: cỏ bồng; tính từ: rối bong, bù xù, tán loạn.

Lâm Bô 林逋 (967-1028) tự Quân Phục 君復, ẩn cư ở Tây Hồ xứ Hàng Châu, nên còn có biệt hiệu là Tây Hồ xử sĩ. Ông trồng mai nuôi hạc, thường đùa là “lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con” (dĩ mai vi thê, dĩ hạc vi tử), thường xướng họa với các danh sĩ như Phạm Trọng Yêm, Mai Nghiêu Thần, Cửu Tăng ...