khung
06/06/2023
KÝ ỨC VỤN VỀ CHUYỆN HỌC Ở MIỀN NAM THỜI ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA
Lê Nguyễn
Thế hệ những người sinh vào thập niên 1940 tại miền Nam nay còn không ít, cũng không nhiều. Tuổi tác chất chồng, sống bằng ký ức hơn là những dự phóng tương lai.
Trong tay không còn bao nhiêu tư liệu chính thức về một thời kỳ giáo dục đã trải qua năm, sáu mươi năm, chỉ còn một mớ ký ức sót lại trong đầu, hy vọng rằng những bạn đọc là chứng nhân của thời kỳ này sẵn lòng bổ khuyết, đính chính cho những sai sót của một bộ nhớ đã trải qua nhiều thử thách của thời gian và thời cuộc. Bởi vậy mà mấy bài viết này có tên là “Ký ức vụn”, không mang ý nghĩa một biên khảo, mà chỉ nhằm giúp người đọc có chút ý niệm tổng quát về một nền học đã mai một từ hơn nửa thế kỷ đã qua.
*
KỲ 1: CHUYỆN HỌC
* SƠ LƯỢC VIỆC HỌC TRƯỚC THỜI ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA
Những năm trước năm 1954, không thấy có chương trình giáo dục mầm non dành cho lứa tuổi dưới 6. Thường một đứa bé đến 6 tuổi, thậm chí 7-8 tuổi hay hơn nữa, mới được cha mẹ cho đi học lớp đầu đời là lớp năm, bậc tiểu học. Trước thời Đệ nhất Cộng hòa, hệ thống giáo dục tại Việt Nam cũng có ba bậc học chính là Tiểu học, Trung học và Đại học, song ở hai bậc học đầu, mỗi bậc lại chia thành hai cấp. Ở bậc Tiểu học, lớp khởi đầu là lớp Năm hay lớp Đồng ấu (Cours Enfantin), kế đến là lớp Tư hay lớp Dự bị (Cours Préparatoire), lớp Ba hay lớp Sơ đẳng (Cours Elémentaire). Cả ba lớp này thuộc cấp Sơ học, học xong, học sinh thi lấy bằng Sơ học Yếu lược (Primaire Elémentaire).
Sau cấp Sơ học là cấp Tiểu học gồm ba lớp: lớp Nhì một năm (Cours Moyen de 1ère Année), lớp Nhì hai năm (Cours Moyen de 2è Année), và lớp Nhất (Cours Supérieur). Xong lớp Nhất, học sinh thi lấy bằng Tiểu học (Certificat D’Etude Primaire Complémentaire Indochinois, viết tắt là C.E.P.C.I), ai thi đỗ mới được học lên bậc Trung học. Thời đó, có bằng CEPCI đã đủ tự hào với làng trên xóm dưới rồi, “trâm” tiếng Tây với Tây đủ để trẻ em trong làng khiếp sợ. Thời kỳ trước Đệ nhất Cộng hòa, học sinh đỗ Tiểu học xong không vào ngay lớp Đệ nhất niên mà còn phải trải qua một lớp trung gian là lớp Tiếp liên (Cours Certifié), hết năm này mới vào lớp Đệ nhất niên của bậc Trung học. Thời Pháp thuộc, bậc học này cũng chia làm hai cấp: Cao đẳng Tiểu học và Trung học. Bốn năm Cao đẳng Tiểu học gồm các lớp: Đệ nhất niên, Đệ nhị niên, Đệ tam niên và Đệ tứ niên. Học xong bậc này, học sinh thi lấy bằng Thành Chung (Diplôme d’Étude Primaire Supérieur Franco-Indigène), người Việt bình dân lúc bấy giờ vẫn quen gọi là “bằng Đít-lôm”.
Sau bằng Thành chung, học sinh học lên bậc Tú tài. Kể từ cuối thập niên 1920, chương trình thi bậc Tú tài đã được Nha Học chính Đông Pháp qui định, gồm hai kỳ thi cách nhau một năm, kỳ thi lấy bằng Tú tài I hay Tú tài bán phần (Baccalauréat Première Partie) và kỳ thi Tú tài II hay Tú tài toàn phần (Baccalauréat Deuxième Partie, gọi tắt là BAC). Người dự thi Tú tài toàn phần bắt buộc phải có bằng Tú tài bán phần.
* VIỆC HỌC THỜI ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA
Chương trình Tiểu học thời Đệ nhất Cộng hòa không còn kéo dài sáu năm như trước đó, vẫn là các lớp Năm, Tư, Ba, Nhì, Nhất, song không còn kỳ thi Sơ học Yếu lược và không còn hình thức lớp Nhì một năm và lớp Nhì hai năm nữa. Sau khi học xong chương trình lớp nhất, học sinh tham dự kỳ thi Tiểu học.
Vào đầu thập niên 1950, khi vào lớp Tư, học sinh đã bắt đầu được dạy tiếng Pháp, chương trình thi các năm 1954-1955 còn có bài ám tả tiếng Pháp (sau này là chính tả, dictée française), song chỉ có tính nhiệm ý, không bắt buộc. Thời Đệ nhất Cộng hòa, các lớp từ Đệ nhất niên đến Đệ tứ niên được đổi tên lần lượt thành các lớp Đệ thất, Đệ lục, Đệ ngũ và Đệ tứ; bậc Cao đẳng Tiểu học được đổi thành bậc Trung học Đệ nhất cấp. Tại bậc học này, học sinh lớp Đệ thất được dạy sinh ngữ hai là Anh ngữ. Như vậy, gần như không có một sự chọn lựa nào từ phía người học, do Pháp ngữ được học từ bậc Tiểu học và Anh ngữ được học từ bậc Trung học nên mặc nhiên trong học và thi, Pháp ngữ là sinh ngữ 1 (điểm thi có hệ số 3), Anh ngữ là sinh ngữ 2 (điểm thi có hệ số 2). Sau khi học xong lớp Đệ tứ, học sinh thi lấy bằng Trung học Đệ nhất cấp thay cho bằng Thành chung. Bậc Tú tài thời Đệ nhất Cộng hòa được gọi là Trung học Đệ nhị cấp, gồm ba lớp: Đệ tam, Đệ nhị và Đệ nhất.
Bước vào lớp Đệ tam, học sinh chọn một trong 4 ban:
Ban A – Các môn học chủ yếu là Lý Hóa – Vạn vật (nay là Sinh vật), các môn khác là môn phụ
Ban B – Các môn học chủ yếu là Toán – Lý – Hóa
Ban C – Còn gọi là Ban Văn chương – Sinh ngữ, các môn học chủ yếu là Văn-Triết học (riêng cho lớp Đệ nhất); Sử Địa-Anh Pháp
Ban D – Còn gọi là ban Cổ ngữ, các môn học chủ yếu là Văn – Hán ngữ hay La tinh ngữ.
Về trường học, thời Đệ nhất Cộng hòa, số trường tư chiếm tỉ số áp đảo. Thường mỗi tỉnh có một trường trung học công lập chính nằm ở tỉnh lỵ, ví dụ ở Gia Định có trường Hồ Ngọc Cẩn, ở Định Tường có trường Nguyễn Đình Chiểu, ở Cần Thơ có trường Phan Thanh Giản, ở Bình Định-Qui Nhơn có trường Cường Đễ… Các trường này dạy đến hết bậc Trung học Đệ nhị cấp. Ở mỗi quận trong các tỉnh lớn, có một trường Tiểu học công lập và/hoặc trường Trung học Đệ nhất cấp.
Hệ thống các trường trung học thời Đệ nhất Cộng hòa phát triển nhanh do sự tăng đột biến gần một triệu người di cư từ bắc vào nam, khiến số học sinh tăng nhanh. Tại Sài Gòn – Gia Định những năm sau 1954, ngoài mấy trường trung học công lập cố cựu có từ thời Pháp thuộc như Pétrus Trương Vĩnh Ký, Gia Long…, một số trường công lập lớn (đến lớp Đệ nhất) được di từ miền bắc vào hoặc chủ yếu dành cho con em người di cư như Chu Văn An (dành riêng cho nam), Trưng Vương (dành riêng cho nữ), Hồ Ngọc Cẩn (dành riêng cho nam), Trần Lục (dành cho nam, đến bậc Trung học Đệ nhất cấp)… Vào thời kỳ này, do các trường công lập không đáp ứng được hết yêu cầu của khối lượng học sinh tăng cao, một hệ thống trường tư thục hình thành và phát triển rất nhanh tại Sài Gòn – Gia Định. Có thể kể một số trường có tiếng tại khu vực quận Nhất và quận Ba (cả mới lẫn cũ) như Tân Thanh, Tân Thịnh, Vạn Hạnh, Việt Nam Học Đường, Huỳnh Thị Ngà, Huỳnh Khương Ninh, Vương Gia Cần, Lê Bá Cang, Trường Sơn, Nguyễn Bá Tòng, Bùi Chu, Hưng Đạo… với một đội ngũ giáo sư tư thục hùng hậu, không ít người xuất thân từ giới văn chương.
Bên cạnh những trường dạy thuần túy chương trình Việt do chính quyền hay tư nhân quản lý, còn một số trường được thành lập từ thời Pháp thuộc dạy chủ yếu bằng tiếng Pháp, hoạt động song hành với các trường Việt, tiêu biểu là trường Chasseloup-Laubat, sau đổi thành Jean Jacques Rousseau (nay là Lê Quý Đôn), dành cho nam sinh (cố quốc vương Campuchia Norodom Sihanouk [1922-2012] từng theo học trường này); trường Marie Curie dành cho nữ sinh; trường Taberd…
Ở bậc Đại học, thời Đệ nhất Cộng hòa, chỉ có hai viện Đại học công lập chính là Viện Đại học Sài Gòn và Viện Đại học Huế với một quy mô nhỏ hơn. Đại học tư có Viện Đại học Đà Lạt của giáo hội Công giáo với hoạt động không đáng kể. Viện Đại học Sài Gòn bao gồm nhiều phân khoa khác nhau: như Đại học Khoa học (Khoa học Đại học đường), Đại học Kiến trúc, Đại học Luật khoa, Đại học Sư phạm, Đại học Văn khoa, Đại học Y khoa, Đại học Dược khoa, Đại học Nha khoa. Ở cấp đại học, ngoài các phân khoa thuộc Viện Đại học Sài Gòn, còn có Học viện Quốc gia Hành chánh trực thuộc Phủ Tổng thống (đại diện là Bộ trưởng tại Phủ Tổng thống), chuyên đào tạo các viên chức hành chánh trung cao cấp, và Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (Phú Thọ) đào tạo các kỹ sư công chánh, điện lực, hàng hải… Viện Đại học Huế có một quy mô hoạt động nhỏ hơn với bốn phân khoa: Khoa học, Văn khoa, Luật khoa, và Sư phạm.
Thời đó, các Viện trưởng Đại học và Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh được xếp ngang Thứ trưởng một bộ. Ngoài những trường đào tạo công chức chính ngạch như Đại học Sư phạm, Học viện Quốc gia Hành chánh, phải thi tuyển vào và sinh viên được hưởng một khoản học bổng đáng kể hàng tháng, hầu hết các phân khoa Đại học khác đều theo thể thức ghi danh, các sinh viên không phải thi tuyển vào, chỉ ghi danh nhập học và không phải đóng một khoản học phí nào trong suốt các năm học. Một chuyện vui vui xảy ra tại trường Đại học Văn khoa Sài gòn những năm 1959 – 1963: học sinh ghi danh vào lớp Dự bị quá đông, không đủ ghế ngồi, nhiều người phải ngồi cả dưới đất. Vì thế, trước giờ phòng học mở cửa, sinh viên tụ tập đông đảo phía trước, khi cửa mở, mọi người ném sách, tập tá lả vào trong, sách tập ai nằm trên ghế-bàn nào thì người đó được vào ngồi nơi đó (ghế ngồi học gắn kèm mặt bàn kéo ra phía trước để viết, rất gọn). Thỏa thuận bất thành văn này được tôn trọng triệt để, không thấy ai đôi co với ai bao giờ. Sau khi lấy xong chứng chỉ dự bị, sinh viên chọn các chứng chỉ ưa thích hoặc phù hợp với năng lực riêng, chuyện chen chúc trong phòng học không còn nữa…
Kỳ II:
GIÁO ÁN, SÁCH GIÁO KHOA VÀ ĐỘI NGŨ GIẢNG DẠY THỜI ĐỆ I VIỆT NAM CỘNG HÒA
Chương trình giáo dục trung và tiểu học thời Đệ nhất Cộng hòa do Bộ Giáo dục soạn thảo chung cho tất cả các trường trên toàn quốc. Chương trình này có tính ổn định lâu dài và chỉ có những thay đổi nhỏ trong quá trình thực hiện. Thời đó, không có hai từ “giáo án” và cũng thực sự không có việc giáo viên soạn thảo bài dạy theo một tiêu chuẩn nào, trình cho một giới chức nào. Người dạy học thời đó dựa vào chương trình chính thức do Bộ Giáo dục soạn thảo và dạy học sinh theo cách thức riêng của mỗi người, miễn sao trong kết quả cuối năm, nhiều học sinh đạt điểm cao nhất trong môn họ đã dạy. Nếu có soạn thảo “giáo án” chăng thì đó chỉ là những ghi chép riêng tư, sắp xếp ý tưởng giảng dạy để tự nhắc mình cho bài giảng có hiệu quả.
Ở bậc Tiểu học, sách giáo khoa các lớp Đồng ấu, Dự bị và Sơ đẳng (lớp Năm, lớp Tư và lớp Ba) được Nha Học chính Đông Pháp soạn thảo thống nhất cho cả nước từ các thập niên 1920-1930 và được áp dụng tại miền Nam cho đến nửa sau thập niên 1950. Bộ sách có tên chung là “Việt Nam Tiểu Học Tùng Thư”, gồm nhiều đề mục khác nhau, sử dụng cho ba lớp sơ học: Đồng ấu, Dự bị và Sơ đẳng, gồm nhiều chuyên mục khác nhau: Quốc văn Giáo khoa thư; Luân lý Giáo khoa thư; Sử ký – Địa dư Giáo khoa thư; Cách trí Giáo khoa thư; Vệ sinh Giáo khoa thư; Toán pháp Giáo khoa thư… Ban soạn thảo các sách giáo khoa này gồm 4 vị có tên tuổi và uy tín trong học giới: Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận.
Tuy bộ sách có nhiều chuyên mục khác nhau, song được nhắc đến nhiều nhất là bộ Quốc văn Giáo khoa thư, ấn tượng đầu đời sâu đậm nhất của những người đi học vào thời kỳ chuyển tiếp giữa nền học cũ với nền học thời Đệ nhất Cộng hòa. Dù ở lớp nào, các bài học cũng đều mang ý nghĩa nhân văn, đi dần từ những bài dễ đọc, dễ hiểu ở lớp Đồng ấu và Dự bị đến những bài ở lớp Sơ đẳng, đòi hỏi học sinh tập suy luận trước những vấn đề được đặt ra, từ những bài ở sách Quốc văn Giáo khoa thư lớp Dự bị như Khuyến hiếu đễ; Người ta cần phải làm việc; Làng tôi; Nên giúp đỡ lẫn nhau; Lễ phép với người tàn tật… đến những bài dành cho lớp Sơ đẳng như Ai ơi chớ vội khoe mình; Lòng kính yêu chị; Chớ nên ham mê cờ bạc; Không nên báo thù; Không nên khinh những nghề lao lực…
Bên cạnh sách giáo khoa thường được các trường Tiểu học sử dụng, còn có loại sách “Tập Đọc Vui” được soạn thảo và phát hành song song với sách giáo khoa, gồm những bài đọc vui, bổ ích về mặt hình thành nhân cách cho trẻ thuộc các lãnh vực: học đường, gia đình, thân thể, việc học và chơi… Trong tinh thần “Tiên học lễ, Hậu học văn” áp dụng xuyên suốt trên cả nước, nền giáo dục Tiểu học Đệ nhất Cộng hòa kế thừa nền giáo dục Hoàng Xuân Hãn năm 1945 và nguồn sách giáo khoa của Việt Nam Tiểu Học Tùng Thư do bộ tứ Kim-Ngọc-Phúc-Thận biên soạn, coi trọng việc Đức dục ngang với Trí dục và Thể dục. Ấn tượng mạnh về bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư khiến những thế hệ ra đời từ thập niên 1950 trở về trước luôn nhắc nhở đến chúng như một hoài niệm về thời thơ ấu, với những bài học đáng nhớ là kim chỉ nam cho họ trong cách xử sự ở đời. Vào thập niên 1960 trở về sau, dù không còn là sách giáo khoa cho học trò nữa, song Quốc Văn Giáo Khoa Thư vẫn len lỏi vào ngóc ngách tâm hồn của nhiều thế hệ, vào cả trong tác phẩm Hương Rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam, với truyện ngắn Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư nhắc đến những bài học không thể nào quên.
Khoảng thập niên 1990, nhà xuất bản trẻ TPHCM có sáng kiến in lại mấy tập sách giáo khoa này, theo yêu cầu của những độc giả có tuổi muốn tìm lại những hình ảnh của một thời học hành tuổi nhỏ. Nhiệt tình đó đáng ca ngợi, song đáng tiếc là sách in lại bằng giấy trắng láng, hình ảnh thiếu sự đậm đà, sắc nét khiến tác phẩm được phục hồi mất đi khá nhiều giá trị của sự hồi tưởng, hoài niệm một thời đã qua.
Ký ức vụn về chuyện học ở miền Nam thời Đệ nhất Cộng hòa (kỳ 2)Sách học Anh ngữ L’anglais vivant dành cho học sinh lớp Đệ Thất thập niên 1950.
Nửa sau thời Đệ nhất Cộng hòa, khoảng năm 1958, Bộ Quốc gia Giáo dục định ra các triết lý giáo dục gồm ba yếu tố cơ bản là: Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng, sách giáo khoa cho bậc Tiểu học được soạn mới, song vẫn giữ cốt cách của Quốc văn Giáo khoa thư và Luân lý Giáo khoa thư.
Ở bậc Trung học, thời Đệ nhất Cộng hòa, Nha Tổng Giám đốc Trung Tiểu học và Bình dân Giáo dục là cơ quan cao nhất thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục chịu trách nhiệm về việc dạy và học tại miền Nam. Cơ quan này bao gồm một số đơn vị trực thuộc gồm: Nha Trung học, Nha Tiểu học, Nha Tư thục, Nha Khảo thí và cơ quan Thanh tra. Tại cấp tỉnh, trong lúc các Ty Tiểu học trực thuộc chính quyền địa phương theo hệ thống ngang (thuộc Nha Tiểu học theo hệ thống dọc), thì các trường Trung học chỉ thống thuộc duy nhất Nha Trung học theo hệ thống dọc mà thôi. Ở bậc học này, Bộ Quốc gia Giáo dục có một quan điểm khá thoáng về mặt sách giáo khoa. Hầu như không có một bộ sách giáo khoa nào do cơ quan giáo dục chính thống biên soạn và phát hành để thầy và trò dạy và học theo.
Thời đó, dù là giáo sư tư thục hay công lập, mọi giáo chức có quyền dạy học sinh theo cách thức riêng của mình, không phải tuân theo một phương pháp giảng dạy nào, miễn sao tôn trọng đúng nội dung chương trình giáo dục do Bộ Quốc gia Giáo dục soạn thảo, giúp học sinh đạt được kết quả như ý trong các kỳ thi. Trên thị trường, nhiều sách giáo khoa (hay sách tham khảo) được bày bán, do các giáo sư tư thục lẫn công lập biên soạn. Mỗi tác giả có cách biên soạn của riêng mình, sách nào hay hoặc phù hợp với chương trình dạy và học sẽ được nhiều giáo chức tham khảo trong giảng dạy, học sinh tìm mua để đọc thêm.
Những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960, về quốc văn, loại sách “Luận đề văn chương” của các giáo sư tư thục Nguyễn Sỹ Tế, Nguyễn Duy Diễn, Nguyễn Văn Mùi… tràn ngập thị trường, được giới dạy văn và học sinh tham khảo nồng nhiệt. Mỗi sách luận đề khảo về văn chương của một tác giả cổ điển như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến…, sách khổ nhỏ, không dày, viết cô đọng, được cả thầy và trò ưa chuộng. Bản thân người viết bài này được làm học trò môn văn năm Đệ tứ (1958 – 1959) với giáo sư Nguyễn Duy Diễn, người đã mang lại cho cậu thiếu niên 14-15 tuổi một tình yêu nồng nàn đối với môn văn học nước nhà. Tiếc rằng thầy mất quá sớm, khoảng giữa thập niên 1960, khi tuổi đời còn trẻ.
Với môn Văn, ngoài loại sách luận đề văn chương, còn có các sách quốc văn dành tham khảo của giáo sư Dương Quảng Hàm (1898 – 1946) (Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển), của các giáo sư Hà Như Chi, Phạm Thế Ngũ, Phan Ngô … Về lịch sử – địa lý có sách của ông bà giáo sư Tăng Xuân An, giáo sư Nguyễn Văn Mùi…; sách toán của các giáo sư Đinh Qui – Bùi Tấn – Lê Nguyên Diệm, Bùi Hữu Đột… sách ngoại ngữ, nhất là Anh ngữ, có loạt sách L’anglais vivant của nhà xuất bản Ziên Hồng được nhượng quyền khai thác từ nhà Hachette của Pháp… Thông thường, các nhà biên soạn sách giáo khoa đã được thị trường chấp nhận và tác phẩm của họ được sử dụng rộng rãi trong việc giảng dạy của các thầy cô và thỏa mãn nhu cầu tham khảo của các em học sinh trung học. Sự chọn lọc, đào thải của thị trường sách giáo khoa giúp các giáo chức, học sinh tìm được những sách đứng đắn, có chất lượng để dạy và học.
Ở bậc Đại học, với chủ trương một nền đại học tự trị, chính quyền Đệ nhất Cộng Hòa dành cho các viện Đại học Sài Gòn và Huế một quyền hạn rộng rãi trong việc sắp xếp chương trình giảng dạy, bố trí một đội ngũ giáo sư đại học phù hợp. Thông thường sách giáo khoa ở bậc học này do chính giáo sư các bộ môn soạn thảo và giảng dạy, không thông qua những tác giả trung gian khác.
Ở trường Đại học Luật khoa, có thể tham khảo, học tập sách của các giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thạc sĩ Luật, từng đảm nhận chức vụ Ngoại trưởng trong chính phủ Ngô Đình Diệm; Vũ Quốc Thúc, Thạc sĩ Kinh tế, Khoa trưởng trường Đại học Luật khoa; Nguyễn Độ, Tiến sĩ Hành chánh công (1952); Vũ Quốc Thông (Thạc sĩ Luật, từng làm Bộ trưởng Y tế, Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh trước 1.11.1963); Nguyễn Văn Bông (Thạc sĩ Công pháp Quốc tế, sau ngày 1.11.1963 được cử làm Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh)…; ở Đại học Văn khoa có sách của các giáo sư Nguyễn Đăng Thục, dạy chủ yếu môn Triết học Đông phương, Nguyễn Khắc Hoạch, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Văn Trung, Bùi Xuân Bào… Ở các phân khoa Khoa học, Y khoa, Dược khoa… bài giảng và sách học được soạn chủ yếu dựa vào các tài liệu khoa học phổ biến ngoài nước. Cần nói thêm là hầu hết các giáo sư đại học tại miền Nam thời Đệ nhất Cộng hòa xuất thân từ các trường đại học Pháp, và theo chế độ giáo dục của nước này, bằng Thạc sĩ là bằng cấp cao nhất, trên bằng Tiến sĩ một bậc.
Hầu hết sách giáo khoa các bậc học Tiểu học, Trung học và Đại học thời Đệ nhất Cộng hòa đều theo khuynh hướng phi chính trị hóa, chú trọng chủ yếu đến việc rèn luyện con người trên các mặt Đức, Trí và Thể dục. Người viết sách giáo khoa cung ứng cho thị trường không bị một áp lực nào hay phải tuân theo một sự chỉ đạo nào. Đối tượng chủ yếu mà họ nhắm đến là các giáo chức cần tài liệu để hoàn thiện sự giảng dạy, đội ngũ học sinh, sinh viên cần tham khảo thêm ngoài các bài giảng ở trường.
Kỳ III:
GIÁO CHỨC THỜI ĐỆ I VNCH
I. Đôi nét về ngạch trật và chế độ lương bổng của công chức thời Đệ nhất Cộng hòa
Trước khi đề cập đến thành phần giáo chức thời Đệ nhất Cộng hòa, xin trình bày sơ lược về chế độ ngạch trật và lương bổng dành cho các thành phần công chức nói chung.
A – Vấn đề ngạch trật
Vào những năm 1954-1963 (và cho đến hết thời Đệ nhị Cộng hòa) tại miền Nam, chế độ lương bổng dành cho các tầng lớp công chức khá ổn định và hài hòa ở hầu hết các ngành nghề, các lãnh vực khác nhau. Công chức thời ấy có hai thành phần chính: chính ngạch và ngoại ngạch.
Công chức chính ngạch: Thường là những người được đào tạo ở các trường chính quy và được chia làm ba hạng chính:
Hạng A – Dành cho những người tốt nghiệp Đại học trở lên
Hạng B – Dành cho những người có trình độ Trung học và chưa tốt nghiệp Đại học
Hạng C – Dành cho những người có trình độ Tiểu học.
Công chức ngoại ngạch: Thường được tuyển dụng thông qua các hợp đồng lao động và gồm các hạng:
Hạng A – Thường làm việc dưới dạng khế ước (giáo sư đại học, bác sĩ, luật sư…)
Hạng B gồm:
– B1: Dành cho những người có bằng Tú tài 1, Tú tài 2 trở lên nhưng chưa tốt nghiệp đại học
– B2: Dành cho những người có bằng Trung học Đệ nhất cấp đến Tú Tài I
– B3: Dành cho những người có trình độ Trung học, nhưng chưa có bằng Trung học Đệ nhất cấp
Hạng C – Dành cho những người có bằng Tiểu học hoặc trình độ Tiểu học
Hạng D – Dành cho những người làm công việc tay chân, trình độ học vấn thấp.
Ở hạng chính ngạch, các thành phần công chức hạng A gồm: bác sĩ, kiến trúc sư, luật sư, thẩm phán tòa án, giáo sư đại học, giáo sư Trung học Đệ nhị cấp, Đốc sự Hành chánh (tốt nghiệp Học viện Quốc Gia Hành Chánh), Kỹ sư (các ngành Công chánh, Kiến thiết, Điện, Nông Lâm Súc…)… Ở thành phần ngoại ngạch hạng A, thường không có chế độ công nhật, chỉ có chế độ khế ước, ký kết giữa người lao động và cơ quan sử dụng (trường Đại học, bệnh viện công…)
Ở hạng B, thành phần chính ngạch được phân biệt theo các hạng B1, B2 và B3 của nhân viên ngoại ngạch
Tương đương hạng B1 gồm các ngạch Cán sự Y tế, Cán sự Điều dưỡng, Cán sự Công chánh và Kiến thiết, Giáo sư Trung học Đệ nhất cấp, Giáo học bổ túc, Kiểm sự Nông chính, Tham sự Hành chánh…
Tương đương hạng B2 gồm các ngạch Y tá, giáo viên Tiểu học, Thơ ký Hành chánh, Huấn sự Nông chính
Tương đương hạng B3 gồm Thơ ký Đánh máy, Tá sự Nông chính
Ở hạng C, gồm chủ yếu ngạch Tùy phái, Tống thơ văn.
Ở hạng D gồm các lao công, không có chính ngạch, thường lao động dưới dạng “phù động đồng hóa công nhật”, được hưởng lương công nhật.
Ở mỗi hạng công chức, cần phân biệt rõ hai yếu tố “ngạch” và “trật”. Ngạch là tên gọi chung, ví dụ: Kỹ sư, Đốc sự Hành chánh , Cán sự Y tế …; Trật là những bậc khác nhau, được sắp xếp từ thấp đến cao trong khuôn khổ một ngạch, ví dụ “kỹ sư hạng ba, kỹ sư hạng nhì, kỹ sư hạng nhất …” là các trật của ngạch Kỹ sư.
B – Vấn đề lương bổng
Thời Đệ nhất Cộng hòa (và cho đến hết thời Đệ nhị Cộng hòa), chỉ số lương là yếu tố cơ bản trong lương bổng của người công chức. Chỉ số lương này nhân với chỉ số đắt đỏ của từng thời kỳ thành lương căn bản. Trong 9 năm đầu (1954-1963), chỉ số lương hầu như không thay đổi ở hầu hết các ngành nghề, nếu có thay đổi, cũng chỉ là những điều chỉnh tối thiểu. Mỗi ngạch trật có một thang chỉ số lương từ trật thấp nhất đến trật cao nhất mà người công chức thời ấy thường gọi là “plafond” (tột trần).
Công chức hạng A – Chỉ số lương từ thấp nhất 430 đến cao nhất là 1.160
Công chức hạng B
– Tương đương hạng B1: Chỉ số lương từ 320 đến tối đa 740 – 79
– Tương đương hạng B2: Chỉ số lương từ 250
– Tương đương hạng B3: Chỉ số lương từ 220
Công chức hạng C – Chỉ số lương từ 160.
Các loại phụ cấp ngoài lương: Bên cạnh lương căn bản, người công chức thời Đệ nhất Cộng hòa được hưởng nhiều khoản phụ cấp khác nhau, có thể kể:
Phụ cấp gia đình – Vào khoảng 800đ/tháng cho vợ và 600đ/tháng cho mỗi đứa con dưới 18 tuổi.
Phụ cấp chức vụ – Dành cho những người giữ chức vụ chỉ huy tại công sở, ở cấp quận là Quận trưởng, Phó Quận trưởng, ở cấp Tỉnh từ Chủ sự phòng trở lên, ở Trung ương từ cấp Trưởng ban trở lên.
Một ví dụ cụ thể:
Phụ cấp chức vụ Phó Quận trưởng, Trưởng ty cấp tỉnh: 900đ/tháng
Phụ cấp chức vụ Chủ sự phòng cấp Tỉnh: 600đ/ tháng
Phụ cấp chức vụ Trưởng ty cấp Trung ương (Phủ, Bộ, Tồng Nha, Nha): 1.000đ/tháng
Phụ cấp chức vụ Chủ sự cấp Trung ương: 800đ/tháng
Phụ cấp chức vụ Trưởng ban cấp Trung ương: 500đ/tháng
Phụ cấp nhà ở và điện nước – Dành cho Tỉnh trưởng, Phó Tỉnh trưởng cấp địa phương, từ cấp Chánh Sự vụ Sở trở lên ở cấp Trung ương.
Phụ cấp gia nhân – Dành cho cấp Giám đốc Nha có nhiều Sở trở lên ở trung ương.
Phụ cấp giao tế phí và kinh lý phí – Dành cho Tỉnh trưởng và Phó Tỉnh trưởng tại địa phương. Các đương sự chỉ được chi xài cho các khoản giao tế và đi kinh lý trong phạm vi phụ cấp được qui định
Phụ cấp nước độc – Dành cho những người làm việc tại các địa phương có khí hậu khắc nghiệt, dễ ngã bệnh, nhiều nhất là bệnh sốt rét. Ngoài ra những người này còn được cộng thêm 50% thâm niên công vụ dùng để tính mỗi kỳ thăng trật.
II- GIÁO CHỨC THỜI ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA
Những chi tiết ở phần I áp dụng chung cho mọi thành phần công chức, trong đó có các giáo chức làm việc trong guồng máy giáo dục. Thời Đệ nhất Cộng hòa, giáo chức chính ngạch gồm các thành phần chính sau:
Giáo viên Tiểu học – Có bằng Trung học Đệ nhất cấp trở lên, được đào tạo một năm tại trường Quốc Gia Sư Phạm, chỉ số lương ban đầu 250.
Giáo học bổ túc – Có bằng Trung học Đệ nhất cấp trở lên, được đào tạo ba năm tại trường Quốc Gia Sư Phạm, chỉ số lương ban đầu 320 (sau thời Đệ nhất Cộng hòa tăng lên 350) (Đến năm 1962, điều kiện văn bằng tối thiểu để được đào tạo tại trường Quốc Gia Sư Phạm là Tú Tài I.)
Giáo sư Trung học Đệ nhất cấp – là những người có bằng Tú tài II (Tú tài toàn phần), được đào tạo cấp tốc, nhằm giải quyết phần nào tình trạng khan hiếm giáo chức vào những năm cuối thập niên 1950, so sự gia tăng đột biến số học sinh xuất phát từ cuộc di cư của gần một triệu đồng bào miền Bắc vào Nam. Chỉ số lương khởi điểm của thành phần giáo chức này là 400.
Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp – là những người có bằng Tú Tài II được đào tạo trong 3 năm, sau lên 4 năm, chỉ số lương từ 430 (sau từ 470)
Giáo sư Đại học – Là những giáo sư có bằng tiến sĩ và thạc sĩ (trên tiến sĩ), không qua đào tạo trong nước. Thời Đệ nhất Cộng hòa, hầu hết các giáo sư này học tại nước ngoài, chủ yếu là ở Pháp. Chỉ số lương của ngạch giáo sư thực thụ từ 640-690 trở lên. Do không được đào tạo trong nước, mặt khác theo qui chế tự trị của bậc đại học, việc tham gia giảng dạy của thành phần này được thực hiện dưới dạng khế ước ký kết với các viện đại học. Dưới cấp giáo sư đại học là các giảng sư, thường là những người có bằng tiến sĩ, chưa có bằng thạc sĩ. Bên cạnh hai thành phần giảng dạy đại học chính thức trên, còn có thành phần giảng viên đại học, là những người không chính thức làm việc cho trường hay phân khoa đại học mà chỉ giảng dạy theo hợp đồng và có thời hạn nhất định.
Đối với các giáo sư Trung học Đệ nhất cấp, Đệ nhị cấp, Giáo học bổ túc và giáo viên Tiểu học, trong phần lớn thời kỳ đầu của Đệ nhất Cộng hòa, cả miền Nam có ba trường đào tạo chính:
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn trực thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập năm 1957, trước đó là trường Cao đẳng Sư phạm, chủ yếu đào tạo giáo sư Trung học Đệ nhất cấp)
Trường Đại học Sư phạm Huế trực thuộc Viện Đại học Huế
Trường Quốc gia Sư phạm Sài Gòn, sau là Trường Sư phạm Sài Gòn
Hai trường trên đào tạo giáo sư trung học, nhiều nhất là trung học đệ nhị cấp, dạy đến lớp Đệ nhất (nay là lớp 12). Trường thứ ba đào tạo giáo học bổ túc và giáo viên Tiểu học, đáp ứng nhu cầu giáo dục tiểu học của toàn miền Nam, từ vĩ tuyến 17 trở xuống.
Với thành phần giáo chức tư thục, qui định thời đó dành cho bậc Tiểu học là phải có ít nhất bằng Tiểu học, dạy bậc Trung học Đệ nhất cấp phải có tối thiểu bằng Trung học Đệ nhất cấp, dạy bậc Trung học Đệ nhị cấp phải có bằng Tú Tài II trở lên. Ở bậc Trung học Đệ nhất cấp, những người có bằng Trung học Đệ nhất cấp thường được phân công dạy các lớp thấp như Đệ thất, Đệ lục (lớp 6, lớp 7), các lớp Đệ ngũ, Đệ tứ (lớp 8, lớp 9) dành cho người có bằng Tú tài. Người viết bài này từng chứng kiến hiện tượng có trường tư thục vì thiếu giáo sư, đã tuyển người có khả năng giảng dạy nhưng không có điều kiện về bằng cấp qui định, đến cuối niên khóa, khi làm sổ Học bạ cho học sinh, phải thay tên người dạy thực sự bằng tên người khác có đủ điều kiện về văn bằng. Ở bậc Trung học Đệ nhị cấp, ngoài các giáo chức chuyên nghiệp có tiếng, các trường tư thục còn sử dụng sinh viên đang học mấy năm cuối cùng bậc Đại học, nhất là sinh viên Đại học Sư phạm và Đại học Khoa học.
Những năm 1954-1963, số giáo sư Trung học Đệ nhị cấp rất thiếu, mặt khác, số trường trung học công lập dạy đến hết lớp Đệ nhất không phải tỉnh nào cũng có, vì thế số sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm được đưa về các tỉnh lớn để điền khuyết nhân số còn thiếu, ở tỉnh Gia Định có trường Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh Định Tường (Mỹ Tho) có trường Nguyễn Đình Chiểu, tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ) có trường Phan Thanh Giản, tỉnh Khánh Hòa (Nha Trang) có trường Võ Tánh, tỉnh Bình Định (Qui Nhơn) có trường Cường Để … một số học sinh Đệ nhị cấp ở các tỉnh nhỏ phải đi qua tỉnh lớn để học. Giáo viên Tiểu học tốt nghiệp trường Quốc gia Sư phạm được phân bổ xuống tới các trường Tiểu học cấp Quận. Sang nửa sau thập niên 1960, các trường Tiểu học cấp xã được bồ sung một thành phần giáo chức đặc biệt là “giáo viên ấp tân sinh”, gánh nặng giáo dục trên vai các giáo viên Tiểu học công lập mới nhẹ bớt.
Thời Đệ nhất Cộng hòa, các giáo sư đại học là một thành phần xã hội ở trên cao, cách biệt rất lớn với hàng ngũ giáo chức trung, tiểu học và sinh viên đại học. Thời đó, số cư dân có xe gắn máy không nhiều, vậy mà hầu hết các giáo sư đại học đều đi dạy bằng ô tô. Điều đó không khó hiểu, vì khi còn là sinh viên du học nước ngoài, phần lớn họ đã sinh trưởng trong các gia đình thượng lưu, họa hoằn lắm mới có người ngoi lên từ giai cấp trung hay hạ lưu. Trong khuôn khổ ngành Đại học theo chế độ tự trị, các giáo sư đại học lúc bấy giờ toàn tâm toàn ý cho công cuộc giáo dục, đào tạo thế hệ trí thức tương lai, mà không hề chịu một sức ép nào, về kinh tế cũng như về chính trị. Trong suốt thời VNCH, nhiều giáo sư đại học được mời tham gia chính phủ trong cương vị Tổng, Bộ trưởng, thời Đệ nhất Cộng hòa có: Vũ Quốc Thông (Bộ trưởng Y tế) Vũ Văn Mẫu (Bộ trưởng Ngoại giao), Nguyễn Quang Trình (Bộ trưởng Giáo dục)…; thời Đệ nhị Cộng hòa có: Nguyễn Văn Tương (Phủ Đặc ủy Hành chánh, tương đương Bộ trưởng Nội vụ), Trần Văn Kiện (Ủy viên Tài chánh, tương đương Bộ trưởng Tài chánh), Nguyễn Duy Xuân (Bộ trưởng Kinh Tế), Vương Văn Bắc (Bộ trưởng Ngoại giao)… Riêng luật sư, giáo sư Vương Văn Bắc, với cương vị Ngoại trưởng những năm cuối của nền Đệ nhị Cộng hòa miền Nam, ông rất thành công qua việc thiết lập bang giao với nhiều nước châu Phi và là người khởi đầu việc đàm phán khai thác dầu khí với các nước sản xuất dầu hỏa ở Trung Đông. Ông là tiêu biểu của giới trí thức trẻ đầy năng lực của miền Nam, tri thức rộng, dạy học hay, làm chính trị nhiều sáng kiến và thành công. Riêng người viết bài này luôn say mê những giờ Chính trị học của ông tại giảng đường Học viện Quốc gia Hành chánh những năm 1962-1963, một kỷ niệm khó quên của thời đi học.
Kỳ IV: VIỆC THI CỬ
1. Trước kỳ thi
Đơn vị chính trong các kỳ thi trên toàn miền Nam trước 1975 là cấp Tỉnh. Trường trung học công lập chính thức của tỉnh là nơi trực tiếp thực hiện những thủ tục cần thiết dưới sự sắp xếp của Nha Khảo thí và các cơ quan liên hệ của Bộ Giáo dục như Nha Trung học, Nha Tiểu học, đoàn Thanh tra.
Mấy tháng trước ngày thi, các trường tư thục trong tỉnh phải nộp học bạ của tất cả thí sinh thuộc trường mình cho trường Trung học công lập tỉnh kiểm nhận, và chỉ khi nào học bạ được kiểm nhận hợp lệ, học sinh liên hệ mới được cấp số báo danh để dự kỳ thi sắp tới.
Cũng mấy tháng trước kỷ thi, các giáo sư công lập đang dạy chính môn nào thì được Nha khảo thí yêu cầu đề xuất một số đề thi thuộc môn đó (thường từ 3 đến 5 đề thi). Những đề thi này chỉ có tính tham khảo, nếu có được chọn đi nữa thì xác suất được chọn cũng rất nhỏ, so với số đề thi đề xuất trên cả nước.
2. Trước ngày thi
Việc chọn đề thi do một tiểu ban của Bộ Giáo dục gồm phần lớn là các Thanh tra trung học đảm trách. Khoảng một tuần lễ trước ngày thi, bộ phận này bị cấm trại 24/24 tại trụ sở cho đến ngày thi xong. Không một ai, kể cả Bộ trưởng Giáo dục được phép tiếp xúc với những người này. Họ có những nhiệm vụ quan trọng sau:
– Thảo luận kỹ, chọn ra những đề thi cho từng môn thi, căn cứ vào đề xuất của các giáo sư từng bộ môn đã tập trung về Bộ cách đó mấy tháng.
– Quyết định xong toàn bộ các đề thi, họ đánh máy trên giấy stencil (giấy sáp) và tự tay quay roneo các đề thi đã chọn xong. Vì trong ngày thi, đề thi được phát tận tay mỗi thí sinh, nên số đề được quay roneo vô cùng to lớn, nhiều hơn tổng số thí sinh cho kỳ thi đó. Sau khi công việc khó nhọc này hoàn tất, họ dựa vào số thí sinh do các tỉnh báo cáo, cho toàn bộ đề thi vào những thùng kín có hai ống khóa, được niêm phong cẩn thận, chờ đại diện hội đồng thi các tỉnh lên nhận về.
– Trước khi kỳ thi diễn ra, mỗi tỉnh có một Hội đồng thi tập trung tại trường trung học công lập của tỉnh, gồm phần lớn các giáo chức trong tỉnh. Một ngày trước ngày thi, Hội đồng cử người về Bộ để đưa đề thi về tỉnh, tùy mỗi địa phương mà đi bằng đường bộ hay đường hàng không. Nếu đi đường bộ, họ được xe cảnh sát hộ tống chặt chẽ. Trong suốt những năm trước 1975, chưa hề nghe có một scandal vào về việc tiết lộ đề thi, đủ biết sự bảo mật được thực hiện chặt chẽ như thế nào.
Khi về đến tỉnh, thùng đựng đề thi được đưa ngay đến trụ sở Tòa hành chánh tỉnh. Viên chức giữ chức vụ Phó Tỉnh trưởng sẽ thay mặt ông Tỉnh trưởng sở tại, chủ trì một tiểu ban tiếp nhận và bảo quản đề thi. Họ niêm phong và ký tên trên tất cả giấy niêm phong, cho hết vào một tủ sắt trong phòng Phó Tỉnh trưởng, niêm phong tủ sắt với chữ ký của các thành viên trong tiểu ban (đại diện trường trung học công lập tỉnh, đại diện Ty cảnh sát, tòa án, Hội đồng tỉnh…).
Sáng ngày thi, chỉ một khoảng thời gian ngắn đủ để mang đề thi đến mỗi trường thi, người của hội đồng thi và đại diện mỗi trường thi đến Tòa hành chánh tỉnh, phá niêm phong, nhận đề thi về các trường thi. Khi họ về đến nơi thì chỉ còn một thời gian tối thiểu để các giám thị phát đề thi đến tận tay thí sinh.
– Thường là một ngày trước ngày thi, các trường thi có thông lệ viết bằng phấn số báo danh của thí sinh trên từng bàn học trong phòng thi. Điều này không quan trọng đối với thí sinh Tú Tài, song rất cần thiết đối với thí sinh Trung học Đệ nhất cấp (cấp 2), nhất là thí sinh Tiểu học, giúp họ đến trường thi trước ngày thi, xem và biết trước sẽ ngồi ở phòng nào trong ngày thi. Trước khi có cách làm này, nhiều em gần đến giờ thi, chạy cuống quýt, không biết tìm phòng thi ở đâu, nếu tìm được phòng trễ quá, theo nội qui trường thi, sẽ không được vào phòng thi nữa. Tác giả bài viết này từng là một cậu học sinh như thế trong kỳ thi Tiểu học năm 1954.
3. Trong ngày thi
Trong phòng thi, thường ban tổ chức bố trí một bàn hai thí sinh ngồi ở hai đầu bàn, mỗi phòng có hai giám thị là giáo viên (tiểu học) hay giáo sư (trung học), thường là một nam, một nữ.
Đến giờ thi, thí sinh được phát riêng cho mỗi người:
– Đề thi in trên giấy in roneo dày, màu vàng, chữ rất rõ ràng.
– Giấy làm bài thi khổ to, có rọc phách giữa phần khai báo của thí sinh và bài làm.
– Giấy làm nháp thường có ba màu: xanh lục, vàng nhạt, hường. Thí sinh ngồi chung một bàn được phát giấy nháp khác màu nhau.
Khoảng 5 đến 10 phút trước khi hết giờ làm bài, các giám thị thông báo cho thí sinh biết để xem lại bài. An ninh phòng thi rất chặt chẽ, những người không có nhiệm vụ trong trường thi không được phép đến gần trường thi.
4. Sau ngày thi
* Việc học và thi tại miền Nam những năm 1954-1963 (và sau đó) dựa trên những ý niệm căn bản sau:
– Chỉ có ưu tiên trong học tập, hoàn toàn không có ưu tiên trong thi cử. Thành phần học sinh được ưu tiên trong học tập là con của quân nhân, công chức “hi sinh vì nhiệm vụ” (tử trận, tử nạn trong lúc thi hành nhiệm vụ, chết vì bệnh do công vụ gây nên…) hoặc của những thường dân hi sinh mạng sống để cứu người… Họ được thu nhận vào trường Quốc gia Nghĩa tử, được tạo những điều kiện học tập tốt nhất, bù đắp với sự bất lợi do thiếu cha hay thiếu mẹ so với các học sinh bình thường khác. Họ được miễn học phí, được cấp học bổng và nhiều phương tiện khác trong học tập. Với những điều kiện ưu đãi đó, họ phải cố gắng học tập như mọi người và trong kỳ thi, không được hưởng bất cứ sự ưu đãi nào.
– Tuy nhiên, có một trường hợp duy nhất được cộng điểm. Để khuyến khích học sinh rèn luyện thể lực, khoảng 2-3 tháng trước kỳ thi, Ty thể dục thể thao tỉnh tổ chức kỳ thi thể dục cho toàn thể học sinh trong tỉnh. Kỳ thi gồm nhiều môn phối hợp: chạy xa, nhảy xa, nhảy cao, ném tạ…, ai được từ 11/20 điểm trở lên thì được cộng số điểm sau khi trừ 10 vào tổng số điểm thi đã nhân với hệ số. Ví dụ một học sinh đạt điểm thi thể dục 13/20, cậu ta được cộng thêm 3 điểm vào tổng số điểm thi. Việc cộng thêm điểm này không đáng kể lắm nếu ta biết rằng tổng số điểm trung bình cần để đậu trong kỳ thi thường vượt quá con số 100, sau khi đã nhân với hệ số từ 2 đến 4, tùy theo môn thi.
– Những năm 1954-1963, tại miền Nam, bài thi được cho điểm trên cơ sở tối đa 20 điểm. Tùy theo tính cách quan trọng nhiều hay ít của các môn học và thi, mỗi môn được nhân với một hệ số khác nhau, ví dụ ở kỳ thi Tú Tài II (Tú Tài toàn phần) ban C, môn Triết học hệ số 3; Pháp văn sinh ngữ 1 hệ số 3; Anh văn sinh ngữ 2 hệ số 2; Sử Địa hệ số 2. Như vậy tổng số điểm tối đa các môn thi là 200, số điểm trung bình tối thiểu để đậu kỳ thi viết là 100/200.
– Mỗi kỳ thi Trung học Đệ I cấp, Tú Tài I và Tú Tài II đều có một kỳ thi viết và một kỳ vấn đáp. Thí sinh nào đạt điểm trung bình từ 10/20 trở lên được chấm đậu trong kỳ thi viết. Việc công bố kết quả thi viết diễn ra tại một trường học có sân rộng, loa được bắc nhiều nơi, một người trong ban tổ chức kỳ thi đọc trên loa tên và số báo danh của những người đậu kỳ thi viết, theo thứ tự từ nhỏ đến lớn, cũng là thứ tự mẫu tự của tên. Những thí sinh đậu trong kỳ thi viết mới được tham dự kỳ thi vấn đáp mở ra sau đó vài ngày.
Những người không đủ 10/20 điểm để đậu trong kỳ thi viết được chia làm hai hạng:
. Ai có từ 8 đến dưới 10/20 điểm trung bình được thi kỳ 2 mở cách kỳ 1 khoảng 2 tháng. Công việc nấu sử sôi kinh diễn ra ngay sau đó, trong kỳ nghỉ hè.
. Ai dưới 8/20 điểm trung bình không được dự thi kỳ 2, đợi sang năm sau thi tiếp
– Tùy theo số điểm trung bình trong kỳ thi, tính cả thi viết lẫn thi vấn đáp, người ta chia số người đậu theo các hạng sau:
. Hạng Thứ (passable): Từ 10 đến dưới 12/20 điểm
. Hạng Bình Thứ (Assez bien): Từ 12 đến dưới 14/20 điểm
. Hạng Bình (Bien): Từ 14 đến dưới 16/20 điểm
. Hạng Ưu (Très bien): Từ 16 đến dưới 18/20 điểm
. Hạng Tối ưu (Excellent): Từ 18 đến 20/20 điểm.
Trong kỳ thi Tú Tài, thường chỉ có hai ban A (chủ yếu các môn Lý Hóa-Vạn vật) và B (chủ yếu các mônToán-Lý Hóa) là có thí sinh đậu hạng Bình hay Ưu, vì các bài Toán, Lý Hóa, Vạn vật chấm điểm theo đúng, sai, ai làm bài đúng hoàn toàn dễ kiềm được 16-18 điểm. Riêng ban C với các môn chính: Triết học, Pháp (dissertation morale: luận đề luân lý), Anh (dịch), Sử Địa, kiếm được từ 10 đến 12/20 điểm trung bình đã rất vất vả nên hầu như chưa thấy ai học ban C mà đậu hạng Bình trở lên.
– Hàng năm, những kỳ thi tuyển vào các trường đào tạo công chức và có học bổng như Đại học Sư phạm, Quốc gia Hành chánh, Kỹ thuật Phú Thọ đều được mở ra giữa hai kỳ 1 và 2 của kỳ thi Tú Tài II, ai thi rớt kỳ 1, chờ thi kỳ 2, sẽ không có cơ hội tham gia các kỳ thi tuyển vào Đại học năm đó.
– Tỉ lệ thi đậu hàng năm của 3 kỳ thi trung học dao động từ 25% đến 45%, thấp nhất thường là ở kỳ thi Tú Tài I, chỉ khoảng 30%-35%, cao nhất là kỳ thi Tú Tài II, từ 35% đến 45%. Điều này dễ hiểu: trình độ học sinh lớp Đệ Nhị (để thi Tú Tài I) không đồng đều bằng học sinh lớp Đệ Nhất (để thi Tú Tài II) vừa đậu xong Tú Tài I năm trước.
Mặt khác, số thí sinh trường tư thường đậu thấp hơn thí sinh trường công, chiếm khoảng 70% -90% số thí sinh thi đậu của trường công. Lý do: Trình độ học sinh trường tư rất không đồng đều, phải chờ nhau, nên không tiến nhanh được. Cần nhớ là trong kỳ thi Tú Tài I, 100% thí sinh trường công đều có bằng Trung học Đệ nhất cấp, trong khi thí sinh trường tư thi Tú Tài I không cần có bằng Trung học Đệ nhất cấp. Chỉ riêng sự khác biệt này đủ làm nên sự chênh lệch về tỉ lệ thi đậu ở mỗi loại trường.
– Trong kỳ thi Tú Tài (và cả Trung học Đệ nhất cấp), có một thành phần “thí sinh tự do” là những người không có điều kiện học thường xuyên tại trường học. Họ là những quân nhân, công chức hoặc người thi rớt nhiều năm liền. Quân nhân, công chức thường ghi danh học các lớp ban đêm và ban mà họ chọn nhiều nhất là ban C. Họ được miễn điều kiện học bạ, nhưng vẫn phải thi như bất cứ thành phần nào khác, không có chuyện “chuyên tu” hay “tại chức” như sau 1975.
– Sau khi có kết quả thi cả viết lẫn vấn đáp, những thí sinh đã đậu chính thức được cấp sớm một chứng chỉ bằng một tờ giấy A4, có khi chỉ bằng nửa tờ A4. Họ sao y tờ chứng chỉ này dùng cho mọi việc cần thiết: thi tuyển, ghi danh vào đại học, xin việc làm… Phải mấy năm sau họ mới được cấp văn bằng chính thức, khổ to, viết chữ đẹp, giấy cứng, thường chỉ có tác dụng lộng kính treo trong nhà, mọi việc đều nhờ vào tờ chứng chỉ.
– Hàng năm, nhiều nước cấp học bổng cho học sinh, sinh viên Việt Nam, thường là học bổng toàn phần, gồm học phí, chi phí ăn, ở trong suốt mấy năm học. Bộ Giáo dục đăng thông báo trên các báo vài tháng trước khi có kỳ thi tuyển chọn, ai muốn đi du học nộp đơn và hồ sơ dự tuyển. Đến lúc này, thứ hạng trong kỳ thi Tú Tài mới phát huy tác dụng, thường những người đậu từ hạng Bình trở lên được du học miễn thi, có năm phải từ hạng Ưu. Những người đậu hạng Bình Thứ hay Thứ phải dự kỳ thi tuyển, thường là về môn ngoại ngữ (Anh hay Pháp) liên quan đến nước cấp học bổng. Nhiều nhân tài miền Nam nên danh từ những học bổng toàn phần này.
– Sau Đệ nhất Cộng hòa (1963), các kỳ thi vấn đáp được bỏ dần, đến giữa thập niên 1960, bắt đầu thử nghiệm việc thi trắc nghiệm, được gọi vui là “A,B,C khoanh”. Đến đầu thập niên 1970, việc thi được đẩy mạnh về mặt khoa học kỹ thuật, tiến dần đến cách chấm thi bằng kỹ thuật xuyên phiếu với sự hướng dẫn và giúp đỡ của các chuyên viên thuộc hãng IBM. Lúc đó, một ngạch công chức mới ra đời, đó là ngạch xuyên phiếu viên.
Nguồn: Trí Việt News
Trí Thức VN
03/06/2023
Nguyệt tịch
霜月夜徘徊,
樓中羌笛催。
曉風吹不盡,
江上落殘梅。
貫休
Sương nguyệt dạ bồi hồi,
Lâu trung Khương địch thôi.
Hiểu phong xuy bất tận,
Giang thượng lạc tàn mai.
Quán Hưu
Nghĩa.
Đêm trăng trời sương, ở trong gác nghe tiếng sáo Khương vẳng đến khiến lòng bồi hồi.
Sáng ra gió thổi không dứt, trên sông đầy những bông hoa rụng.
貫休 Quán Hưu (823 - 912), xuất gia từ lúc bảy tuổi, nhà thơ thời Vãn Đường.
28/05/2023
ĐÔI ĐIỀU VỀ VIỆC CHUYỂN NGỮ TIẾNG VIỆT LUẬN NGỮ Ở VIỆT NAM
Ths. TRẦN TIẾN KHÔI
Đại học Thăng Long Hà Nội
Luận ngữ là một trong những tác phẩm kinh điển lớn của Nho giáo Trung Hoa xuất hiện từ thời Xuân Thu không chỉ chi phối lĩnh vực tư tưởng và đời sống văn hóa xã hội của Trung Quốc mà còn được lưu truyền và ảnh hưởng sâu sắc ở các nước ảnh hưởng văn hóa Hán như Việt Nam, Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên. Luận ngữ xếp hàng đầu trong Tứ thư được nghiên cứu chú giải ở Trung Quốc và dịch chú ở nước ta cũng như các nước trong khu vực lưu truyền kinh điển này.
1. Về các bản dịch Việt ngữ Luận ngữ
Trước đây, Luận ngữ là loại sách hàng đầu trong chương trình cử nghiệp mà nhà Nho nào cũng phải thuộc làu. Việc nghiên cứu và giải thích ngữ nghĩa cũng như tư tưởng của Luận ngữ ở Việt Nam đã có một quá trình lâu dài, liên tục. Do được viết bằng chữ Hán nên Luận ngữ ở Việt Nam từng được chú giải bằng chữ Nôm. Sau khoa thi chữ Hán cuối cùng vào đầu thế kỉ XX bị bãi bỏ, người ta mới bắt đầu nghĩ đến chuyện dịch chú nó sang chữ Quốc ngữ để giới thiệu với người học đương thời. Đặc điểm nổi bật là các bản dịch chú này là đều chịu ảnh hưởng của các bản gốc Hán văn của các nhà Nho học thuộc các trường phái khác nhau (như huyền học, lí học, tâm học…) và yếu tố ngôn ngữ có rất nhiều điểm không thống nhất, thậm chí trái ngược nhau cần phải có sự giải thích biện luận rành mạch.
Tính đến nay, ngoài Luận ngữ trích lục diễn giải (Khổng học đăng) của Sào Nam Phan Bội Châu, có thể kể đến một số bản dịch toàn bộ Luận ngữ. Tình hình giới thiệu và dịch chú của các bản dịch có thể tóm tắt như sau:
- Khổng học đăng, tác giả Sào Nam Phan Bội Châu soạn năm 1929, được nhà Anh Minh xuất bản năm 1957. Trong Khổng học đăng có Luận ngữ trích lục diễn giải. Chương I là Khổng Tử lược truyện, 18 chương còn lại tác giả trích lục và diễn giải Luận ngữ theo chủ đề như “học”, “chí”, “nhân”… chứ không theo thứ tự các chương của nguyên bản. Cách trình bày lời dịch xen kẽ lời bình, hướng người đọc đến nhận thức luân lí đạo đức. Gọi là "trích lục" nhưng phần lớn các câu trong Luận ngữ đã được dịch và diễn giải. Sách không có chú giải riêng biệt, nhất là cách hiểu khác nhau về câu chữ cũng chưa bàn tới.
- Luận ngữ của Đoàn Trung Còn có thể xem là bản dịch Luận ngữ sớm nhất, xuất bản năm 1950, tại nhà in Trí Đức tòng thơ, Sài Gòn. Sách không có Phần dẫn luận. 20 chương được trình bày cả ba phần nguyên văn chữ Hán, phiên âm và dịch nghĩa. Sau văn bản dịch thường có lời bình và những tồn nghi của dịch giả. Ngoài ra còn có phần chú thích. Phần này tương đối ít, chủ yếu chú tên người, tên đất, chữ Hán dị tự, dị âm…
Cũng như Khổng học đăng của Phan Sào Nam, bản dịch Luận ngữ của Đoàn Trung Còn in đậm dấu vết của chữ Quốc ngữ thuở sơ khai trong sở học của các nhà Nho hồi đầu thế kỉ XX, cùng với một số từ còn mang nặng màu sắc địa phương mà ta dễ dàng tìm thấy trong bản dịch. Điều đó có khi lại tạo ra một hiệu quả bất ngờ! Cả hai sách trên dịch giả đều không chỉ dẫn bản dịch dựa trên văn bản chữ Hán nào.
- Luận ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb. Văn hóa, H. 1991, Nxb. Văn học tái bản 2003. Theo Lời giới thiệu, bản dịch hoàn thành năm 1978. Trong quá trình dịch chú, tác giả có tham khảo bản dịch của Đoàn Trung Còn. Ngoài ra, còn tham khảo Luận ngữ độc bản (sách chữ Hán) của Thẩm Tri Phương và Tưởng Bá Tiềm, Luận ngữ nhị thập giảng (sách chữ Hán) của Vương Hướng Minh. Có thể nói đây là bản dịch rất công phu và chú thích khá đầy đủ về tên người, tên đất, các trường hợp tương đồng, dị biệt... Tuy vậy, người dịch chưa so sánh với các bản dịch trong nước một cách cụ thể.
- Luận ngữ do Lê Phục Thiện dịch, Nxb. Văn học, H. 2003 là bản dịch Luận ngữ do Chu Hi tập chú. Sách dịch toàn bộ nguyên văn Luận ngữ và phần chú giải của Chu Hi, có thêm chú giải của người dịch. Phần này chủ yếu chú thích tên người, tên đất, từ đa nghĩa và khó hiểu… Người dịch có đưa ra một vài trường hợp hiểu khác về chữ nghĩa nhưng chỉ so sánh cách hiểu của Chu Hi với các tác giả Trung Quốc khác mà không so sánh với các bản dịch tiếng Việt trước đó. Lời bình của dịch giả chủ yếu xoay quanh vấn đề tư tưởng, đạo đức…
- Bản dịch Luận ngữ nằm trong bộ Ngữ văn Hán Nôm, tập 1 Tứ thư, Nxb. KHXH, H. 2002 do Phan Văn Các giới thiệu và dịch chú. Người dịch cho biết đã dựa chính vào bản dịch chú của Dương Bá Tuấn và có tham khảo Chu Hy tập chú Tứ thư, Ngũ kinh. Ngoài phần dịch và chú giải, sách còn có phần dẫn luận về Luận ngữ rất chi tiết và phần chú thích tóm tắt các thiên. Cách trình bày theo từng thiên, gồm nguyên văn và phiên âm đi kèm, kế tiếp là phần chú giải, cuối cùng là phần dịch nghĩa. Riêng phần chú giải được trình bày chiếm tỉ lệ khá lớn, nội dung chủ yếu chú giải nhân danh, địa danh, sự kiện… rất đầy đủ, song chỉ nêu trường hợp cách hiểu khác nhau của từ “thúc tu”.
- Bản dịch Luận ngữ thuộc bộ Tứ thư, Nxb. Quân đội nhân dân, H. 2003 do Trần Trọng Sâm và Kiều Bách Vũ Thuận biên dịch. Các dịch giả cho biết bản Luận ngữ được biên dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc do Vương Thành Trung chú dịch, Nxb. Nhân dân Hà Nam, 1998. Sách không in nguyên văn, phiên âm và chú giải mà chỉ có phần dịch nghĩa với lời bình. Có thể nói đây là bản dịch thuần túy Luận ngữ và lời bình của tác giả Trung Quốc hiện đại, không có sự đối chiếu so sánh hay tồn nghi nào.
- Khổng Phu tử và Luận ngữ, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2004 do Phạm Văn Khoái biên soạn dịch chú. Ngoài phần cuộc đời và học thuyết của Khổng Tử, phần dịch chú Luận ngữ được trình bày nguyên văn chữ Hán, phiên âm và dịch. Đây là bản dịch gần đây nên thể hiện tính kế thừa rõ rệt nhất. Đặt biệt là phần chú thích, tác giả đã nêu ra các cách hiểu khác nhau của 8 trường hợp, phần lớn là ý kiến của các học giả Trung Quốc, Đài Loan và châu Âu.
Như vậy, trong các công trình dịch chú Luận ngữ kể trên tuy ít nhiều có sự kế thừa nhưng việc chú giải một cách đầy đủ các trường hợp tương đồng hay dị biệt trong các bản dịch vẫn còn để trống và nhất là chưa đưa ra hướng giải quyết các trường hợp đó.
Bài viết của chúng tôi được tổng kết trên cơ sở kết quả khảo sát 5 bản dịch toàn văn Luận ngữ được lưu hành phổ biến hiện nay bao gồm: Bản dịch của Đoàn Trung Còn (Trí Đức tòng thơ, Sài Gòn, 1950), Nguyễn Hiến Lê (Văn hóa, 1991, Nxb. Văn học, tái bản 2003), Lê Phục Thiện (Văn học, 2003), bản dịch Luận ngữ trong Ngữ văn Hán Nôm (tập 1, KHXH, H. 2002), trong Tứ thư (Quân đội nhân dân, 2003). Ngoài ra chúng tôi còn đối chiếu với một số bản chú giải mới của các học giả Trung Hoa, đặc biệt là bản Luận ngữ dịch chú của Dương Bá Tuấn và Luận ngữ kim chú kim dịch của Mao Tử Thủy.
2. Cứ liệu so sánh hiện tượng tương đồng và dị biệt
Theo Chu Hi, Luận ngữ có tất cả 20 thiên, 496 chương, chúng tôi lấy chương làm đơn vị so sánh. Đồng thời, để làm cứ liệu so sánh, chúng tôi lập 4 bảng so sánh tỉ lệ tương đồng và dị biệt giữa các bản dịch trên cơ sở lấy bản dịch của Đoàn Trung Còn làm nền.
Khi so sánh các bản dịch, trong trường hợp khác nhau về từ ngữ, cú pháp nhưng không ảnh hưởng đến nội dung tư tưởng của cả chương thì cũng như trường hợp tương đồng. Trường hợp một chương, dù dài hay ngắn, có một đơn vị từ, ngữ hay câu dịch chưa thống nhất làm ảnh hưởng đến nội dung tư tưởng của toàn chương đều được xem như một trường hợp dị biệt. Kết quả khảo sát của chúng tôi thể hiện qua các số liệu bảng sau:
Bảng so sánh bản dịch của Đoàn Trung Còn với bản dịch của Nguyễn Hiến Lê
Thiên
| Tổng số chương | Số chương tương đồng | Tỉ lệ tương đồng % | Số chương dị biệt | Tỉ lệ dị biệt% |
I | 16 | 13 | 81.25 | 3 (3, 7, 10) | 18.75 |
II | 24 | 20 | 83.33 | 4 (4, 10, 19, 21) | 16.67 |
III | 26 | 24 | 92.3 | 2 (5, 20) | 7.7 |
IV | 26 | 26 | 100 | 0 | 0 |
V | 27 | 26 | 96.3 | 1 | 3.7 |
VI | 28 | 28 | 100 | 0 | 0 |
VII | 37 | 33 | 89.19 | 4 (2, 13, 16, 17) | 10.81 |
VIII | 22 | 21 | 95.45 | 1 (1) | 4.55 |
IX | 29 | 26 | 89.65 | 3 (1, 5, 7) | 10.35 |
X | 17 | 17 | 100 | 0 | 0 |
XI | 25 | 23 | 92 | 2 (17, 20) | 8 |
XII | 23 | 21 | 91.3 | 2 (1, 12) | 8.7 |
XIII | 30 | 28 | 93.33 | 2 (1, 22) | 6.67 |
XIV | 47 | 45 | 95.74 | 2 (1, 24) | 4.26 |
XV | 41 | 39 | 95.12 | 2 (1, 33) | 4.88 |
XVI | 14 | 13 | 92.86 | 1 (9) | 7.14 |
XVII | 25 | 23 | 92 | 2 (1, 9) | 8 |
XVIII | 11 | 11 | 100 | 0 | 0 |
XIX | 25 | 24 | 96 | 1 (2) | 4 |
XX | 3 | 2 | 66.67 | 1 | 33.33 |
Cộng trung bình | 496 | 463 | 92.124 | 33 | 7.876 |
Hai bản dịch này có tỉ lệ tương đồng là 92,124 %, tỉ lệ dị biệt là 7,876 %, gồm có 33 chương dị biệt.
Đây là hai bản dịch có tỉ lệ dị biệt cao nhất (7,876%). Con số này tập trung ở thiên I, II và VII. Toàn văn bản chỉ có 4 thiên dịch hoàn toàn tương đồng (IV, VI, X, XVII), số còn lại đều có từ 1 đến 3 trường hợp dị biệt.
So sánh bản dịch của Đoàn Trung Còn và bản dịch của Lê Phục Thiện có tỉ lệ tương đồng rất cao là 94,45%, tỉ lệ dị biệt là 5,55 %, gồm có 20 chương dị biệt. Toàn văn bản có tất cả 9 thiên dịch tương đồng. Thiên có tỉ lệ dị biệt cao nhất cũng chỉ có 3 chương (VII, VIII,XII), còn lại phần lớn chỉ có từ 1 đến 2 chương dị biệt. Điều đáng quan tâm là từ thiên I đến thiên VI chỉ có 2 trường hợp dị biệt.
So sánh bản dịch của Đoàn Trung Còn và bản dịch của Phan Văn Các có tỉ lệ tương đồng là 93,69 %, tỉ lệ dị biệt là 6,31%, gồm có 25 chương dị biệt. Toàn văn bản có 5 thiên dịch hoàn toàn tương đồng (III, VI, X, XVIII, XX). Các chương dị biệt tập trung ở thiên II, VII và XIX, còn lại phần lớn các thiên chỉ có 1 trường hợp dị biệt. Đây là hai bản dịch có tỉ lệ dị biệt ở mức trung bình so với các bản dịch khác.
So sánh bản dịch của Đoàn Trung Còn và bản dịch của Trần Trọng Sâm có tỉ lệ tương đồng là 96,5 %, tỉ lệ dị biệt là 3,5%, gồm có 18 chương dị biệt. Con số này cho thấy đây là hai bản dịch có tỉ lệ tương đồng cao nhất, có 8 thiên dịch hoàn toàn tương đồng. Duy nhất thiên VII có 4 trường hợp dị biệt, các thiên khác chỉ có từ 1 đến 2 chương dị biệt.
Từ các số liệu so sánh trên, chúng ta có cái nhìn tổng quát về sự “xuất nhập” trong các bản dịch Luận ngữ. Vì chúng tôi lấy bản dịch của Đoàn Trung Còn làm nền để so sánh nên số chương mà các bản dịch dịch tương đồng với bản dịch của Đoàn Trung Còn có nghĩa là số chương đó tất cả các bản dịch đều tương đồng với nhau.
Tỉ lệ tương đồng bình quân của 5 bản dịch là 94,2%. Đồng thời số chương mà các bản dịch dịch dị biệt với bản dịch của Đoàn Trung Còn chưa hẳn đã dị biệt với nhau. Bài viết lấy tỉ lệ dị biệt bình quân, con số này là 5, 8% trên tổng số 496 chương, tương ứng với 24 chương.
3. Lí giải hiện tượng tương đồng và dị biệt
3.1. Lý giải hiện tượng tương đồng
Trong 5 bản dịch trên, hai bản dịch có tỉ lệ tương đồng cao so với bản dịch của Đoàn Trung Còn là bản dịch của Lê Phục Thiện (94,45%) và bản dịch của Trần Trọng Sâm (96,5%). Sở dĩ các bản dịch có tỉ lệ tương đồng cao như vậy là do hai nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là, có cùng nguồn tài liệu dịch. Bản dịch của Đoàn Trung Còn được xuất bản lần đầu năm 1950, còn bản của Lê Phục Thiện dịch từ Luận ngữ Chu Hi tập chú, có dịch cả lời bình của Chu Hi. Từ 4 bản so sánh trên cho thấy 3 thiên đầu của Luận ngữ là có số chương dị biệt nhiều nhất (9 chương Nguyễn Hiến Lê hiểu khác Đoàn Trung Còn), bản dịch của Lê Phục Thiện và Đoàn Trung Còn chỉ có 2 chương dị biệt trong 3 thiên này.
Hai là, tính kế thừa và ưu thế số nhiều theo cách hiểu của Chu Hi. Ngoài bản dịch của Lê Phục Thiện ra, bản dịch có tỉ lệ tương đồng cao nhất so với bản dịch của Đoàn Trung Còn chính là bản dịch của Trần Trọng Sâm (96,5%). Bản dịch này được Nxb. Quân đội xuất bản năm 2003, ra đời muộn nhất so với bốn bản dịch khác, do đó sự kế thừa là không tránh khỏi. Điều quan trọng hơn, dịch giả đã biên dịch từ quyển Tứ thư do tập thể các nhà chú giải Trung Quốc là Dương Hồng, Vương Thành Trung, Nhiệm Đại Viện, Lưu Phong chú dịch, Nxb. Nhân dân Hà Nam 1998. Như trong Lời nhà xuất bản của Nxb. Văn học trong quyển Luận ngữ do Lê Phục Thiện dịch có nói: “cho đến nay, chúng tôi nghĩ rằng chưa ai vượt qua Chu Tử trong việc chú giải Luận ngữ” [Luận ngữ, tr.5]. Chính vì vậy, ở Trung Quốc phần lớn các học giả đều theo cách hiểu của Chu Hi. Điều đó cho thấy bản dịch của Trần Trọng Sâm có tỷ lệ tương đồng cao so với bản dịch của Đoàn Trung Còn là không có gì lạ.
3.2. Lý giải hiện tượng dị biệt
Trong 5 bản dịch Luận ngữ nêu trên, có 57 trường hợp dị biệt. Ở đây xin được trình bày 4 trường hợp dị biệt tiêu biểu theo cách lí giải bước đầu như sau:
3.2.1 Sự dị biệt do một bên theo Chu Hy một bên theo các nhà chú giải hiện đại Trung Quốc (chủ yếu là Dương Bá Tuấn)
j子曰:“攻乎异端,斯害也已” (Vi chính, 16) Tử viết: “Công hồ dị đoan, tư hại dã dĩ”.
Chương này có hai cách hiểu, các bản dịch thường chọn một cách hiểu.
- Đoàn Trung Còn dịch:
“Khổng Tử nói rằng: “Chuyên tâm nghiên cứu những học thuyết hoang đường, sự ấy có hại cho mình vậy.” Dịch giả bàn thêm: Nếu chọn đạo lý chơn chánh mà theo, đừng chăm học những thuyết dị đoan. Nếu theo tà mà bỏ chính, theo ngọn mà bỏ gốc, thì hại cho đức hạnh của mình vậy.” [Luận ngữ, tr.23].
- Lê Phục Thiện cũng chọn cách hiểu trên và dịch:
“Khổng Tử nói rằng: “Chuyên trị vào dị đoan, ấy là hại vậy” (Luận ngữ, tr.68). Phần chú thích của Chu Hi:
“Phạm thị (thầy họ Phạm) nói rằng: “Công là chuyên trị, như thợ sửa những đồ gỗ, đá, vàng, ngọc, gọi là công. Dị đoan là không phải đạo của thánh nhân, mà riêng biệt làm một mối, như họ Dương, họ Mặc làm cho người trong thiên hạ không biết có cha, không biết có vua. Nếu chuyên trị đạo ấy, muốn được tinh tường, rất có hại vậy.
Trình Tử nói rằng: “Lời nói của nhàPhật, so với họ Dương, họ Mặc, gần vớilẽ dị đoan hơn, càng hại nhiều nữa. Người nghiên cứu học vấn nên xem đó như tiếngdâm, sắc đẹp để tránh xa. Nếu không sẽ xăm xăm bước vào dị đoan vậy.” (Luận ngữ, tr.68-69).
- Phần chú giải của người dịch rất chí lí:
“Nếu ngày nay, chúng ta theo Tống nho mà giải nghĩa hai chữ dị đoan là “đạo trái với đạo của thánh nhân” sẽ hẹp hòi và di hại không ít. Nghĩa chữ dị đoan là trái với chính đạo tức là tà đạo (đạo quái lạ không ngay thẳng, đạo tà ma). Vậy chúng ta có thể giải nghĩa hai chữ dị đoan là đạo mê tín quàng xiên, không bổ ích cho đời sống của con người”. (Luận ngữ, tr.69)
Nguyễn Hiến Lê cũng đồng quan điểm trên (Chuyên tâm nghiên cứu những dị đoan thì có hại).
-Sách Tứ thư và Ngữ văn Hán Nôm đều chọn cùng một cách hiểu:
+ Dám mạnh dạn đấu tranh phê bình chỉ trích tệ hại thói hư tật xấu thì tự nhiên hại họa sẽ tiêu tan. [Tứ thư, tr.133]
+ Đánh vào các thuyết dị đoan thì mối hại sẽ hết. [Ngữ văn Hán Nôm, tr.247]
Đây cũng là cách hiểu của các nhà chú giải hiện đại Trung Quốc. Chúng ta có thể xem lời dịch và chú thích của Dương Bá Tuấn được dịch như sau:
“Phê phán những nghị luận mà có nội dung không chân chính thì những điều tai hại (họa hại) có thể bị tiêu diệt (tan biến).
Chú thích:
1. Công: trong Luận ngữ tất cả dùng bốn lần chữ “công”, như ba chữ “công” trong câu “Tiểu tử minh cổ nhi công chi” (Các trò đánh trống mà tấn công nó) của thiên Tiên tiến, “Công kỳ ác vô công nhân chi ác” (Phải công phá điều lỗi của mình chứ đừng công phá điều lỗi của người) của thiên Nhan Uyên đều có thể hiểu là “công kích”, ở đây cũng không ngoại lệ.
2. Dị đoan - thời Khổng Tử rõ ràng là chưa có Chư tử bách gia, vì thế mà rất khó để dịch rằng “những học thuyết bất đồng”, nhưng những chủ trương, những ngôn luận khác với Khổng Tử chưa hẳn là không có, cho nên dịch là “những nghị luận mà có nội dung không chân chính”.
3. Tư - liên từ, có nghĩa “chính là”.
4. Dĩ - nên xem như một động từ, nghĩa là chặn đứng. Vì thế mà tôi dịch là “tiêu diệt”. Nếu như giải thích chữ “công” là “trị”, thế thì chữ “tư” phải xem là đại từ chỉ thị, có nghĩa là “đây”; “dĩ dã” phải xem là ngữ khí từ. Toàn văn được dịch là: “Theo đuổi những cái nghiên cứu học thuật mà có nội dung không chân chính, điều này là có hại lắm”. Thông thường giảng theo cách này, văn tự cũng thuận”. (Luận ngữ dịch chú, tr.18)
Dương Bá Tuấn dịch văn cố gắng bám sát nguyên văn nên đã dịch thành câu ghép với hai vế câu rất rõ ràng. Thậm chí chúng ta có thể thêm những liên từ vào để tạo thành câu ghép nhân quả hoặc giả thiết đều rất hợp lí: Vì phê phán những nghị luận không có nội dung chân chính nên những tai hại có thể bị tiêu diệt; nếu phê phán những nghị luận không có nội dung chân chính thì những tai hại có thể bị tiêu diệt.
k子曰: “夷狄之有君,不如诸之亡也。”(Bát dật, 5)
Tử viết: “Di Địch chi hữu quân, bất như chư chi vong dã.”
Chương này có hai cách hiểu.
- Đoàn Trung Còn dịch rằng: “Đức Khổng Tử than rằng: “Những đoàn rợ Nam Di Bắc Địch ngoài cõi biên thùy, họ còn có vua, chẳng như những dân tộc trong cõi Trung Quốc hiện nay chẳng có vua chúa gì cả!” (Luận ngữ, tr.33)”. Bản dịch Ngữ văn Hán Nôm, Tứ thư cũng dịch như trên. Đoàn Trung Còn bình:
“Đức Khổng Tử ở nhằm thời loạn, vua chư hầu lấn quyền Thiên tử, quan đại phu đoạt quyền vua chư hầu, lại còn tiếm tới quyền Thiên tử (như những chuyện vượtlễ trong những tiết 1, 2, 6) ở chương này. Cho nên đức Khổng Tử buồn giận mà thốt ra mấy lời trên.)” (Luận ngữ, tr.33).
- Trong khi đó, Nguyễn Hiến Lê dịch:
“Khổng Tử nói rằng: “Các nước Di, Địch (ở chung quanh Trung Quốc, lạc hậu) dù: có vua cũng không bằng các nước Hoa Hạ (Trung Quốc) không có vua (vì Hoa Hạ có lễ nghi)”. (Khổng Tử và Luận ngữ, tr.294). Dịch giả Nguyễn Hiến Lê chú thích:
“Chu Hy cho hai chữ “bất như” là không giống; và nghĩa khác hẳn: Khổng Tử có ý than thở các nước chư hầu hồi đó không coi thiên tử nhà Chu ra gì, thành thử Trung Quốc cũng như không có vua. Hiểu theo hai cách đều được cả. Phải biết trong hoàn cảnh nào, Khổng Tử nói câu đó mới rõ ông muốn nói gì”. (Khổng Tử và Luận ngữ, tr.294).
Dương Bá Tuấn và Mao Tử Thủy trình bày hai cách hiểu không đồng nhất.
- Dương Bá Tuấn giải thích được dịch như sau:
“Khổng Tử nói: Những nước có nền văn hoá lạc hậu tuy là có quân chủ cũng không bằng Trung Nguyên không có quân chủ vậy”.
Chú thích:
1. Di Địch hữu quân… vong dã: Dương Ngộ Phù trong Luận ngữ sớ chứng có nói: Di Địch có quân chủ chỉ Sở Trang Vương, Ngô Vương… Quân là ông vua hiền minh. Ý của câu là Di Địch còn có vua hiền minh, không giống như các nước Trung Nguyên không có. Nói thế cũng thông.
2. Vong: giống như “vô”. Trong Luận ngữ, sau “vong” không dùng tân ngữ, sau “vô” phải có tân ngữ”. (Luận ngữ dịch chú, tr.24).
Trong quyển Luận ngữ dịch chú, Dương Bá Tuấn còn có chú thích khác về câu này như sau:
Từ “Bất như” trong sách cổ Tiên Tần nếu như làm vị từ chính trong câu thì thông thường đều được giảng là “bất cập” (không kịp, không bằng). Người xưa giảng từ “bất như” là “không giống” e rằng sai. (Luận ngữ dịch chú, tr.26).
- Mao Tử Thủy chú rằng:
Di Địch, Hoa Hạ trong chương này là phân biệt theo trình độ văn hóa chứ hoàn toàn không phải phân biệt theo chủng tộc hay khu vực. Chữ “quân” trong chương này nên hiểu là chính phủ của một nhà nước chứ không phải chỉ người đang trị vì. "Quân" theo ý của Khổng Tử là đại diện cho pháp luật và trị an. Một đất nước có nền văn hoá thấp nhưng nếu có nền pháp luật và trị an tốt thì văn hoá sẽ dần được nâng cao mà dân sinh cũng ngày càng tiến bộ. Ngược lại một đất nước có nền văn hoá cao nhưng không có pháp luật và trị an thì văn hoá tất ngày càng suy yếu mà dân sinh cũng ngày càng khốn khổ. (Khổng Tử bàn về chính trị rất coi trọng an nhân.)
Và Mao Tử Thủy dịch chương này như sau:
Khổng Tử nói rằng: “Một đất nước có trình độ văn hóa thấp nếu có chính phủ và pháp luật thì sẽ không tệ hại giống như một đất nước có trình độ văn hoá cao mà lại không có trị an!” (Luận ngữ kim chú kim dịch, tr.30).
3.2.2. Sự dị biệt do kiến giải riêng của người Việt
j Tử viết: “Quan thư lạc nhi bất dâm, ai nhi bất thương” (Bát dật, 20).
Trong 5 bản dịch, duy có bản của Nguyễn Hiến Lê là hoàn toàn thống nhất với cách hiểu của Chu Hi, Dương Bá Tuấn và Mao Tử Thủy, chủ yếu ở chữ "dâm" [淫].
“Khổng Tử nói: “Thiên Thư cưu trong Kinh Thi, vui mà không quá mức, buồn mà không thương tổn” (nghĩa là vui buồn đều đúng tiết, vừa phải)” (Khổng Tử và Luận ngữ, tr.301).
- Chu Hi chú:
Chữ "dâm" nghĩa là vui quá mà mất đi sự đúng mức. (Tứ thư chương cú tập chú, tr.77).
- Dương Bá Tuấn chú:
Dâm: Cổ nhân chỉ phàm những việc gì quá mức bình thường gọi là dâm, như “dâm tự” (Không đáng cúng tế mà cúng tế), “dâm vũ” (mưa lâu ngày) [Luận ngữ dịch chú, Tr.33]
- Mao Tử Thủy dịch chương này:
Khổng Tử nói rằng: “Chương nhạc Thư cưu khiến người ta vui mà không quá mức, khiến người ta buồn mà không đến nỗi thương tổn”. (Luận ngữ kim chú kim dịch, tr.40).
Chương này hầu hết các bản dịch tiếng Việt dịch chữ “dâm” theo nghĩa hiện nay: dâm dật, dâm đãng, buông tuồng. Đoàn Trung Còn có lời bình như sau: “Khi vua Văn vương chưa được bà hậu phi thì xốn xang bức rứt, nhưng không đến nỗi bi thương chán ngán. Đến chừng ngài được bạn vàng thì vui sướng tình cảm cầm sắt, chớ chẳng dâm dật vô độ ở chốn cấm cung” (Luận ngữ, tr.45).
Thiết nghĩ chương này nên hiểu theo Chu Hi và các nhà chú giải hiện đại Trung Quốc là thỏa đáng hơn.
k Tử Hạ viết: “Sĩ nhi ưu tắc học, học nhi ưu tắc sĩ” (Tử Trương, 13)
Chung quanh chương này cũng có những cách hiểu chưa thống nhất.
- Theo Chu Hi:
“Thầy Tử Hạ nói rằng: “Người làm quan còn thừa thì giờ, thừa sức khỏe nên học thêm. Người học giỏi còn thừa thì giờ, thừa sức khỏe, nên ra làm quan”. (Lê Phục Thiện, Luận ngữ, tr.753-754). Bản của Đoàn Trung Còn, Nguyễn Hiến Lê, Tứ thư cũng thống nhất cách hiểu này.
- Lê Phục Thiện dịch lời chú giải của Chu Hi như sau:
“Ưu là có thừa sức. Làm quan và theo học cùng có chung một lẽ nhưng khác việc làm; cho nên làm việc gì, trước hết phải làm đầy đủ công việc của mình; về sau còn dư sức mới học thêm hay ra làm quan. Nhưng người làm quan còn học thêm, việc học sẽ giúp ích cho việc làm quan rất nhiều. Người học giỏi ra làm quan lại thu được nhiều kinh nghiệm cho việc học càng thêm rộng.” (Luận ngữ, tr.754).
- Dương Bá Tuấn thống nhất với Chu Hi cho rằng "ưu" nghĩa là thừa sức.
- Sách Ngữ văn Hán Nôm có cách hiểu riêng khi cho rằng ưu nghĩa là giỏi:
“Tử Hạ nói: Người làm quan nếu là quan giỏi thì luôn học. Học mà giỏi thì ra làm quan” (Ngữ văn Hán Nôm, tr.556).
- Mao Tử Thủy dịch:
Tử Hạ nói: “Làm việc mà còn có thời gian rỗi thì nên truy cầu học vấn; học vấn uyên bác rồi thì nên ra làm việc” (Luận ngữ kim chú kim dịch, tr.293).
Trên đây là 4 trong số khá nhiều những trường hợp dịch dị biệt mà theo chúng tôi bước đầu có thể lí giải theo hai hướng trên. Bên cạnh đó, khi so sánh đối chiếu các bản dịch tiếng Việt với các bản dịch bạch thoại của các học giả Trung Quốc hiện đại, chúng ta cũng có thể tìm ra không ít những dị biệt bất ngờ thú vị. Ví dụ 2 trường hợp sau:
Trường hợp 1:
Tử viết: “Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi”. (Thái Bá, 10)
Tất cả 5 bản dịch tiếng Việt đều ngắt câu như trên và, cũng như hầu hết các bản tiếng Hán hiện đại, họ đều dịch thống nhất chương này là:
“Khổng Tử nói: Dân, thì có thể khiến họ làm theo chứ không thể khiến biết đạo lí”. (Ngữ văn Hán Nôm, tr.360).
Đoàn Trung Còn dịch và chú như sau:
“Đức Khổng Tử nói rằng: “Đối với dân, chuyện nào cần làm thì nên khiến họ làm, chớ không nên giảng giải nghĩa lý sâu xa, vi diệu với họ”. (Câu này, có phảiĐức Khổng Tử nói chăng? haylà cườnghào hậuthế gán cho đức Khổng đặng dễ sai dân?) (Luận ngữ, tr.125).
Cách lý giải của tác giả Đồng Bình trong cuốn Bán bộ Luận ngữ học tố nhân hoàn toàn mới mẻ:
Dịch văn:
Dân chúng có thể làm theo yêu cầu của quan phủ thì mặc họ; nếu không thể đi làm theo yêu cầu của quan phủ thì dạy bảo họ. (Luận ngữ bán bộ học tố nhân, tr.18).
Bình luận:
“Hầu hết các bản dịch đều dịch câu này là: Đối với dân, chỉ có thể khiến họ làm theo ý của mình, chứ không thể khiến họ hiểu tại sao phải làm như thế.
Cá nhân tôi (Đồng Bình) thấy rằng có vẻ như quan điểm ngu dân trong câu này mâu thuẫn với quan điểm đề cao hiếu học, truy cầu nhân ái của Khổng Tử.
Tư tưởng của Khổng Tử là xây dựng một xã hội lý tưởng. Chủ trương của Khổng Tử là thông qua giáo dục toàn dân để nâng cao tố chất của họ, từ đó mà phổ cập nhân ái trong toàn quốc. Điều đó chứng minh Khổng Tử là người đầu tiên đề xuất tư tưởng “hữu giáo vô loại”, đem giáo dục từ phạm vi quý tộc mở rộng ra toàn dân. Trong học thuyết của Khổng Tử, ta không hề tìm thấy quan điểm nào cấm dân thành quan, ngược lại có thể tìm thấy rất nhiều luận thuật “học nhi ưu tắc sỹ”. Vì vậy đem câu nói này hiểu ra Khổng Tử thừa nhận chính sách ngu dân thì thật hoang đường và nguy hiểm!
Tại sao lại xuất hiện “dân khả sử”? Điều này chỉ xuất hiện trong “nhân” của Khổng Tử. Trong cục diện này, mối quan hệ "quan - dân" như "phụ - tử", quan dân hòa hợp, nên dân chúng rất vui vẻ nghe theo quan chỉ dẫn. Vì thế mà hàng loạt các điều cấm kị và trừng phạt trở thành đồ thừa, và cũng không cần quản lí dân một cách nghiêm khắc, cho nên “do chi”. Nếu quan và dân không có mối quan hệ hòa hợp như thế thì dân sẽ không nghe theo sự chỉ đạo và sai khiến của quan. Cũng không thể dùng khốc hình để trừng phạt họ mà cần phải tiến hành giáo dục, chính là “tri chi”. Cũng chính trong Luận ngữ, Khổng Tử dạy Tử Du rằng “quân tử học lễ nhạc thì có thể yêu người, tiểu nhân học lễ nhạc thì dễ quản lí”. Câu này có thể chứng minh cho chủ trương của Khổng Tử “dân khả sử tri chi”.
Khổng Tử cả cuộc đời truy cầu nhân ái, Ngài không hề cho rằng nhân ái chỉ thuộc quan mà không liên can gì đến dân. Chúng ta không thể tưởng tượng ra rằng: một mặt Khổng Tử muốn toàn dân theo đuổi nhân ái, một mặt lại cường điệu không thể bảo cho dân biết tại sao cần phải nhân ái?
Sở dĩ xảy ra tình trạng hiểu sai như trên là vì: Vốn Luận ngữ không có dấu câu, dấu câu ngày nay là do người đời sau thêm vào. Vì thế mà chúng ta mạnh dạn sửa dấu câu của câu nói này thành:
“Dân khả sử, do chi; bất khả sử, tri chi”. (Luận ngữ bán bộ học tố nhân, tr.18)
- Trường hợp 2:
Tử viết: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ”.(Lý nhân, 8)
Tất cả các bản dịch tiếng Việt đều dịch chữ "đạo" [道] là "đạo lý" hoặc "chân lý":
“Buổi sáng được nghe đạo lý, buổi tối dù chết cũng được vậy” (Bản dịch của Lê Phục Thiện Luận ngữ, tr.130), và hầu như không chú giải chữ đạo ở đây là từ đa nghĩa.
Mao Tử Thủy giải thích ý nghĩa của từ "đạo" rất thỏa đáng và khác hẳn cách hiểu của Chu Hi cũng như các nhà chú giải hiện đại Trung Quốc:
Kim chú, Tập giải: “đi du thuyết đến sắp chết vẫn chưa nghe được thế chi hữu đạo (thiên hạ thái bình)”. “thế chi hữu đạo” ở đây tức là “thiên hạ hữu đạo” (thiên hạ thái bình). Tập giải đã giải thích chữ "đạo" thật là hợp với ý của "kinh"! Chữ "đạo" trong câu “Lỗ nhất biến chí ư đạo” thiên Ung dã cũng giảng theo ý nghĩa này. Chữ "đạo" trong chương kế tiếp “sỹ chí ư đạo” cũng giảng theo ý nghĩa này là hợp nhất. Những chữ “đạo” này thực tế bao hàm ý nghĩa “thiên hạ hữu đạo”, hoàn toàn không giống với chữ “đạo” trong câu “ngô đạo nhất dĩ quán chi”, “cổ chi đạo dã”! Nhưng từ đời Hán về sau, ngoài Hà Án ra, những người đọc Luận ngữ hầu như giảng sai câu nói “triêu văn đạo” của Khổng Tử. Thái bình ngự lãm 607 dẫn lời của Thận Tử: “Khổng Tử nói: “Khâu thuở nhỏ hiếu học, về sau thì nghe đạo, vì thế mà uyên bác vậy”; Trang Tử, Thiên vận viết: “Khổng Tử du thuyết đến năm 51 tuổi thì không nghe đạo nữa. Hai chữ “văn đạo” ở đây khác với hai chữ “văn đạo” trong Luận ngữ, nhưng có thể nói lại tương tự với “văn đạo” trong chương 41 (bản Hà Thương Công) của Lão Tử. Nhìn chung từ “văn đạo” mà các học giả thời Chiến quốc dùng đã khác với cách dùng ở chương này, ngay cả chữ “văn đạo” trong sách của Mạnh Tử cũng thế. Hứa Hành phê bình Thắng Văn công rằng: “Ông Thắng quả là bậc hiền tài, tuy nhiên vẫn chưa nghe đạo vậy”. (Mạnh Tử, Thắng Văn công thượng). Và cũng chính Mạnh Tử cũng nói Bồn Thành Khoát: “chưa nghe đạo lớn của ngài” (Mạnh Tử, Tận tâm hạ). Chữ "đạo" của Hứa Hành tức là đạo của phái Nông gia; đạo của Mạnh Tử cũng không ngoài nhân nghĩa. Chúng ta có thể nói từ “văn đạo” trong sách của Mạnh Tử về ý nghĩa không giống với “văn đạo” trong Luận ngữ, mà chỉ ý nghĩa nhân nghĩa. Hai chữ "triêu tịch" trong chương này của Luận ngữ không phải biểu thị khoảng cách thời gian, mà biểu thị ý nghĩa thời gian ngắn, nối tiếp. Từ hai câu nói chúng ta có thể hiểu được tình cảm ưu thế ái dân suốt cuộc đời của Khổng Tử. (Luận ngữ kim chú kim dịch, tr.48-49).
Mao Tử Thủy dịch:
Khổng Tử nói rằng: “Nếu như có một ngày nghe được tin thiên hạ thái bình thì lập tức chết đi cũng an lòng”. (Luận ngữ kim chú kim dịch, tr.49)
Tác giả Đồng Bình trong quyển Bán bộ cũng có lời bình khá thú vị: “triêu văn đạo tịch tử khả hỹ”, cho dù chữ đạo có ý nghĩa là gì đến nay vẫn chưa có ý kiến thống nhất nhưng hai nghìn năm trăm năm nay nó vẫn được nhiều người trích dẫn, cho thấy sức hấp dẫn mạnh mẽ của câu nói. Trên thực tế thì khi chúng ta trích dẫn câu nói này chúng ta thường gắn một ý nghĩa nào đó cho chữ đạo, thậm chí một chàng trai bày tỏ quyết tâm theo đuổi một cô gái cũng có thể dẫn câu nói này. Tôi nghĩ câu nói này của Khổng Tử biểu thị hai tầng ý nghĩa, một là bày tỏ quyết tâm theo đuổi một chân lý, hai là nói việc theo đuổi chân lý không phải ở chỗ sớm hay muộn, cho dù bạn đã bước vào những năm tháng cuối cuộc đời, nhưng chỉ cần có quyết tâm và hành động theo đuổi chân lý thì cũng không phải là muộn (Luận ngữ bán bộ học tố nhân, tr.193).
Chữ đạo chương dưới đây cũng cùng một ý nghĩa với chương trên:
Tử viết: “Tề nhất biến, chí ư Lỗ; lỗ nhất biến, chí ư đạo”. (Ung dã, 22)
Chương này tất cả các bản dịch tiếng Việt đều thống nhất, và dịch chữ đạo là: Đạo đức của Thánh hiền, đạo của Tiên vương, đạo của tiên vương, hoặc đạt được vương đạo… Mao Tử Thủy cho rằng:
Đạo: chính là đạo trong câu “triêu văn đạo tịch tử khả hĩ”, nghĩa là “thiên hạ hữu đạo” (Luận ngữ kim chú kim dịch, tr.49).
-Mao Tử Thủy dịch rằng:
Khổng Tử nói: “Nền chính trị của nước Tề cải biến một chút thì có thể đuổi kịp nền chính trị nước Lỗ; nền chính trị nước Lỗ cải biến một chút thì có thể đạt đến cảnh thái bình” (Luận ngữ kim chú kim dịch, tr.49).
Tóm lại, năm bản dịch có sự thống nhất rất cao, tỉ lệ tương đồng giữa chúng là 94,2 %. Con số này cho thấy các dịch giả Việt Nam đã làm việc hết sức thận trọng. Các bản dịch này xứng đáng làm cầu nối văn hóa cho đông đảo bạn đọc đến được với tinh hoa văn hóa nhân loại. Bên cạnh đó, những tài liệu này còn là tài liệu thiết thực giúp ích cho những ai muốn tìm hiểu về Khổng Tử hay nghiên cứu về Nho giáo.
Tài liệu tham khảo
·Tài liệu tiếng Việt:
1. Luận ngữ. Đoàn Trung Còn dịch Trí Đức tòng thơ, Sài gòn 1950.
2. Nguyễn Hiến Lê: Khổng Tử và Luận ngữ, Nxb. Văn học, H. 2003.
3. Ngữ văn Hán Nôm: Trần Lê Sáng (chủ biên), Nxb. KHXH, H. 2002.
4. Tứ thư. Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận dịch, Nxb. Quân đội nhân dân, H. 2003.
5. Luận ngữ. Lê Phục Thiện dịch, Nxb. Văn học, H. 2002.
·Tài liệu tiếng Trung
6. 杨伯峻 (1958) - 论语译注,古籍出版社,北京.
7. 毛子水 (1984) - 论语今注今译,台湾商务印书馆发行,台湾.
8. 朱熹 (2001) - 四书章句集注,上海古籍出版社、安徽教育出版社, 上海.
9. 佟平 (2005) - 论语半部学做人,金城出版社,北京./.
(Tạp chí Hán Nôm, Số 3 (94) 2009; Tr. 65-77)