8/12/23

Tai hại do không dạy tiếng Hán Việt

Vương Trí Nhàn

NHỮNG TAI HẠI DO KHÔNG NGHIÊN CỨU

VÀ GIẢNG DẠY NGHIÊM TÚC TIẾNG HÁN VIỆT
Bài cũ, đã đưa trên Fb này lần đầu ngày 18/10/2014
***
Trong buổi cà phê ở chỗ anh Dương Thụ thứ bảy 18/11/2014 sắp tới, bọn tôi sẽ được nghe ông Hoàng Dũng nói về chủ đề:
“Ứng xử của tiếng Hán Việt trong tiếng Việt hiện đại”
Đọc lời dẫn thấy diễn giả viết: “Tiếng Hán Việt rất quan trọng, không chỉ vì tiếng Việt đã du nhập một số lượng lớn từ Hán Việt, mà còn vì chúng có vai trò đặc biệt, không thể thay thế, trong việc cấu tạo các thuật ngữ khoa học và các diễn ngôn quan phương. Tiếng Hán Việt hoạt động theo quy tắc nào? Đó có phải là biệt lệ so với các ngôn ngữ Sino-xenic (các ngôn ngữ có số lượng lớn từ vay mượn tiếng Hán như tiếng Nhật, tiếng Hàn) và rộng ra là sự vay mượn phổ quát xảy ra giữa các ngôn ngữ có quan hệ tiếp xúc hay không? Thái độ đúng đắn là đề cao khuynh hướng "giữ gìn sự trong sáng" (purism) hay tôn trọng hiện thực?”
Đọc lời dẫn giải ấy, tôi hiểu đây là buổi nói về vai trò, về tầm hoạt động và ý nghĩa của tiếng Hán Việt. Tôi đã viết ngay trong email cho người bạn trẻ Linh Thoại “tiếng Hán Việt quan trọng vì nó liên quan tới sự phát triển trí tuệ của cộng đồng và là phương tiện bắt buộc để người Việt hội nhập với quốc tế. Điều đó đúng trong lịch sử lại càng đúng với xã hội hôm nay”
-------------
Trong lúc chuẩn bị để viết một bài kỹ lưỡng hơn, tôi tìm thấy đoạn ghi chép cũ ghi từ mấy năm trước:
Trong cuốn sách “Việt Nam và Pháp, bạn hay thù” của tác giả Philippe Devillers, NXB Tổng Hợp TP.HCM 2006, các trang 288-290, có một đoạn kể lại những tính toán của người Pháp sau khi chiếm được các tỉnh miền Tây, cuối thế kỷ XIX, muốn xác định nền giáo dục ở các xứ bảo hộ để phục vụ cho nền cai trị của họ ra sao.
Lúc bấy giờ đô đốc Bonard còn phân vân không biết nên dạy cho người bản xứ là chữ Hán hay chữ Quốc ngữ. Nhưng các cha cố thì kiên quyết là dạy ngay chữ Quốc ngữ vì nó rất cần cho việc giảng đạo của họ mà lại học được nhanh.
Ở chỗ này, tôi thấy Bonard là một người rất sâu sắc. Ông ta bảo rằng đúng là học chữ Quốc ngữ thì nhanh biết chữ thật nhưng chỉ tạo ra những con vẹt; có điều do nhu cầu của việc bình định, ông ta vẫn đồng ý với việc dạy chữ Quốc ngữ.
---------------------
Sau này, tôi có đọc được trong một cuốn sách của Nguyễn Văn Trung về chữ Quốc ngữ, cuốn này vì in ra từ cuối 1974 đầu 1975 nên ít người biết.
Ở đó Nguyễn Văn Trung có dẫn lại ý của một người Pháp nói rằng là từ sau khi việc dạy chữ Quốc ngữ được phổ biến thì mặt bằng đạo đức xã hội của các tỉnh miền Tây thời đó thấp hẳn xuống.
Cái lạ ở đây là sự xuất hiện của nhóm từ "mặt bằng đạo đức".
Như vậy, ngôn ngữ không phải là một công cụ vô can? Ngôn ngữ có liên quan tới sự định hình đời sống tinh thần và trình độ làm người của các dân tộc?
---------------
Đến lúc giở lại cuốn sách của Philippe Devillers, thấy ở tr 289 có chép lại những lời giảng giải của một người Pháp là Luro về sự khác nhau giữa việc học chữ Hán và việc học chữ Quốc ngữ:
“Biết đọc và biết viết, trong tiếng Trung Hoa, có nghĩa là đã để vài năm ở tuổi thanh niên của mình dừng lại trên những cuốn sách đạo lý, lịch sử, đã nghiên cứu và thấu hiểu các cuốn sách đó. Như vậy là đã nhận được cả sự học vấn và sự giáo dục (…). Còn với hệ thống của chúng ta [với tiếng Quốc ngữ mà chúng ta dạy] đứa trẻ ra khỏi trường mà chẳng có chút kiến thức về đạo lý tức là chẳng được giáo dục gì cả.”
A! Câu chuyện "mặt bằng đạo đức" hóa ra là thế.
Tôi rất thích cái ý tưởng này bởi lẽ, ngược với ý kiến nhiều người quá tự hào về chữ Quốc ngữ và việc dạy chữ Quốc ngữ từ 1945 tới nay, tôi thấy việc bỏ qua không dạy tiếng Hán Việt – dạy một cách khoa học, cẩn trọng nghiêm túc – đã là cản trở cho sự phát triển của xã hội Việt Nam, nhất là khi ta bước sang thời hậu chiến.
MỘT ĐOẠN BỔ SUNG
Trích từ bài
Việc dạy chữ Hán có những liên hệ rộng lớn hơn chứ không phải riêng trong lĩnh vực ngôn ngữ đưa trên Fb này ngày 9/9/2016
Trong các phát biểu tại Hội thảo “Vai trò của Hán Nôm trong văn hóa đương đại“ diễn ra hôm 27/8, nhiều người chủ yếu nhấn mạnh về mặt chuyên môn, đại ý là "Cần dạy chữ Hán để giữ sự trong sáng của tiếng Việt"
Nhà giáo Đoàn Lê Giang có mấy ý mới:
1/ Trong số các quốc gia thuộc khu vực đồng văn (các quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc - PV) chỉ có Việt Nam là từ bỏ chữ Hán hoàn toàn nên thế hệ sau ít hiểu biết về quá khứ dân tộc.
2/ Từ bỏ chữ Hán cũng là lý do khiến thanh niên Việt Nam [trở nên những con người –VTN thêm] đơn giản nhất, học hành hời hợt nhất, các nhà khoa học xã hội của Việt Nam cũng kém nhất so với học giả các nước và nước ta nghèo nhất, lạc hậu nhất so với Nhật, Hàn hay Trung Quốc.
3/ Ông Giang cũng cho biết, nghiên cứu của một trung tâm nơi ông được mời dạy chữ Hán Nôm cho học sinh tiểu học cho thấy, những học sinh được học chữ hán nôm hình thành và phát triển nhân cách tốt hơn những học sinh khác không được học (xem nguyên văn trên bản tin VietNamNet 29/8/16)
Tôi chỉ dẫn ra Đoàn Lê Giang vì không phải người trong giới, không dự hội thảo mà chỉ đọc VNN, nên không biết ngoài ông Giang còn có những ai trùng với ý trên, chỉ theo kinh nghiệm mà dự đoán các ý tương tự như của ông Giang thuộc loại thiểu số.
Nhưng, học theo cách sống và cách nói của Phan Khôi, hôm nay "tôi đang muốn đứng về cái đám thiểu số này".
Tôi buồn vì họ đang là thiểu số.
Mà dù các ý kiến như của ông Giang có chiếm đa số nữa cũng còn không biết bao giờ mới thực hiện được.
Nữa đây lại là thiểu số.
Ở Việt Nam, tôi biết rồi, người thiểu số bị quên đi là may, có khi họ lại còn không được làm việc nữa. Nhưng tôi vẫn thấy, nên theo ông Giang vì ông ấy đúng.
link. https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid02ohMFsPRZL4jFfyMrPnAGp6Cz15caR8umJLPAKEPHbBWUUhgGKXCJLL79StFyhtrcl&id=100007958417043&

7/12/23

Nhàn du Hoa đỉnh thượng

 

閑遊華頂上 

閑遊華頂上,天朗晝光輝。
四顧晴空裏,白雲同鶴飛。寒山

Âm

Nhàn du Hoa đỉnh thượng,

Thiên lãng trú quang huy.

Tứ cố tình không lý,

Bạch vân đồng hạc phi.

Nghĩa

Rỗi lên chơi đỉnh núi Hoa, Trời sáng tươi ánh nắng ban ngày rực rỡ.

Bốn phía trời tạnh ráo, Mây trắng và hạc cùng bay.

Tạm dịch

Rảnh lên chơi đỉnh núi,

Trời đẫm nắng vàng tơ

Bốn phía nhìn quang đãng,

Hạc cùng mây nhởn nhơ.

Chú

Núi Hoa nằm trong dãy núi Thiên Thai, nay trong huyện cùng tên Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang.

Hàn Sơn, nhà thơ thời trung Đường. Xuất thân nhà quan, thi nhiều lần không đỗ, bỏ đi tu, ẩn cu ở núi Thiên Thai.

Một thời mù chữ

 MỘT THỜI MÙ CHỮ

Trần Ngọc Cư
Tôi cắp sách đến trường ở Huế từ cấp tiểu học cho đến hết bậc đại học, rất yên chí mình là một người biết chữ. Nhưng sự tự tin này đã bị thách đố, xói mòn khá nhiều trong những lần tôi đứng trước các bia văn, các câu đối, các cổng tam quan, thậm chí cả bia mộ viết toàn bằng chữ Hán, những di sản văn hóa vẫn tồn tại rất nhiều trong và chung quanh Cố đô Huế. Nhan nhản trong hoàng thành và tại các thắng cảnh địa phương gần đó có nhiều tấm bia ghi laị các bài thơ, nghe nói là của các vị vua triều Nguyễn — những di tích văn hoá lẽ ra rất sống động và đáng tự hào của dân tộc nếu người dân bình thường có thể đọc được.
Tôi dùng từ “nghe nói” vì trước những văn bia vua chúa ấy tôi là thằng dân mù chữ một trăm phần trăm. Sẽ lúng túng, sẽ “ốt dột” biết chừng mô cho một cư dân địa phương bị người nước ngoài nhờ giải thích những câu chữ hoặc những bài thơ trên các bia văn ấy. Nhất là trong bối cảnh cố đô Huế được UNESCO bầu chọn là di sản văn hoá thế giới. Mặc dù “Huế của ta ơi, ta có Huế tự hào”, nhưng tâm trạng của người mù chữ này biết đâu cũng là mặc cảm của rất nhiều người Việt khác khi đứng trước một di tích lịch sử mà ý nghĩa của nó mình không giải mã được.
Nếu văn chương của những bài thơ văn chữ Hán trên các di tích lịch sử không đến nỗi tệ quá, thiết tưởng các trung tâm du lịch cũng nên dịch những bản văn này ra chữ Quốc ngữ hay tiếng nước ngoài và phân phối cho nhân viên hướng dẫn du lịch (tour guides) để họ tiện bề ứng xử khi được khách nước ngoài bày tỏ sự tò mò. Vì thiếu sự quảng bá ấy, trong thâm tâm của kẻ mù chữ Hán này có nỗi hoài nghi: Phải chăng những bài thơ ấy quá dở, dịch ra “sợ trẽn” vì ý nghĩa của chúng cũng chẳng thâm thúy gì, nên cứ giữ nguyên văn như vậy cho được phần bí nhiệm (mystique), như một câu văn trong bài tập đọc từ thời tiểu học mà tôi còn nhớ lỏm bỏm: “… Đây Trung Việt với miếu môn lăng tẩm, chốn đế đô nghiêm mật mơ màng…”
Ước gì vua quan nhà Nguyễn có thể để lại những ghi chú trên các di tích lịch sử như Vua Lê Thánh Tôn đã viết về “Thiếu phụ Nam Xương” bằng một bài thơ quốc âm:
Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Ngọn đèn dù tắt đừng nghe trẻ,
Dòng nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chi mượn đến đàn tràng.
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Khổ thật! Vừa trích dẫn xong bài thơ là tôi chợt thấy ngay mình mâu thuẫn chính mình, câu sau chửi câu trước. Vì mọi người đều biết, muốn viết được chữ Nôm (như vua Lê), trước hết là phải tinh thông chữ Hán, vì một từ Nôm được cấu tạo bằng cách thêm nét vào một từ Hán hay kết hợp với một chữ Hán khác để tạo ý hoặc âm cho nó – nghĩa là chữ Nôm còn phức tạp hơn chữ Hán rất nhiều. Và học chữ Nôm chắc chắn còn ì ạch hơn học chữ Hán nhiều. Đã vậy, chữ Nôm lại còn bị giới trí thức (còn gọi “kẻ sĩ”) thời trước coi thường vì nó không phải là chữ của “thánh hiền.”
Thái độ phục tùng văn hoá Trung Hoa được biểu lộ trong câu dè bỉu “Nôm na là cha mách qué”, ý nói chữ Nôm là một ngôn ngữ thiếu đứng đắn, thậm chí là một loại chữ viết dùng để xỏ xiêng. Nôm là cách đọc trẹ của Nam, tương tự Mẽo là cách đọc trẹ của Mỹ (American) với ý miệt thị. Sự thể cũng chỉ vì việc sử dụng chữ Nôm ngụ ý một tinh thần độc lập, đe dọa văn hóa chính thống, tức văn hoá phương Bắc, gây dị ứng và lo ngại không ít cho giới Nho học An Nam.
Tương phản với sự coi nhẹ chữ Nôm là thái độ thánh hoá chữ Hán không những trong giới Nho sĩ mà cả trong dân gian nói chung, thậm chí những người mù chữ. Tôi đã chứng kiến sự kiện này ngay trong cuộc đời tôi. Cha mẹ tôi không bao giờ cho phép con cái để những bao hương hay giấy gói trà có chữ Hán nằm ở những nơi bị chê là uế tạp. Tôi đã bị nhồi sọ đến nỗi có thể tưởng tượng khi chết tôi có thể về địa ngục ngay tức khắc nếu có lần đã lấy một mảnh giấy gì đó có chữ Nho để dùng sau khi đại tiện hoặc để ở những chỗ có đàn bà ngồi lên trên.
Kinh nghiệm mù chữ thứ hai mà tôi cảm nhận trên thành phố quê hương là kinh Phật chữ Hán. Phần lớn đồng bào Phật tử Huế theo Phật giáo Đại thừa (được truyền từ Trung Hoa) và kinh kệ thường được viết bằng chữ Hán hoặc về sau được phiêm âm bằng chữ Quốc ngữ. Tôi từng tham dự những buổi lễ cầu an, cầu siêu, và thú thật có rất nhiều bài kinh tôi không hiểu lấy một từ. Chỉ biết chắc một điều là giọng các nhà sư ở Huế đọc kinh nghe rất hay, nên cũng có nhiều người bình dân mê nghe kinh mặc dù không hiểu gì hết. Điều này chắc cũng giống như các cụ già bên Công giáo vẫn thích nghe kinh bằng tiếng La-tinh hơn nghe kinh tiếng Việt chăng? Chí ít trong thời tôi còn niên thiếu là như thế, bây giờ không biết thế nào.
Như mọi người đều biết, chữ Hán Việt không phát âm giống hệt như tiếng nói của người Trung Hoa. Chẳng hạn, khi người Trung Hoa dùng chữ Hán để phiên âm Montesquieu thì họ đọc gần như người Pháp phát âm tên của nhà tư tưởng Montesquieu, nhưng qua tiếng Hán Việt các nhà Nho An Nam sẽ đọc thành Mạnh Đức Tư Cưu. Napoléon đọc thành Nã Phá Luân, Rousseau đọc thành Lư Thoa… Một cách tương tự khi các nhà sư Trung Hoa dùng chữ Hán để phiên âm tiếng Phạn thì họ phát âm gần giống tiếng Phạn, nhưng qua tiếng Hán Việt những bài chú tiếng Phạn sẽ không còn phát âm trung thực bao nhiêu.
Thời niên thiếu, sinh hoạt trong Gia đình Phật tử, mấy đứa con nít như chúng tôi phải dùng phương pháp liên tưởng để nhớ những bài chú này. Như bài chú “Thất Phật diệt tội chơn ngôn… Li bà li bà đế cầu ha cầu ha đế…”, chúng tôi tinh nghịch đổi thành “Li của bà thì bà [uống] đế, của cậu Hai cậu Hai đế…” để cười vui cho dễ nhớ.
Nghi lễ Phật giáo Huế nặng nề hình thức và đầy bí ngữ. Nhất là trong các tang lễ, là lúc con cháu của người quá cố thường phải đội sớ và quì cả tiếng đồng hồ cho xong một biến kinh. Kinh nghiệm của tôi khi mẹ tôi qua đời là, trong khi quì đội sớ, một phần vì không hiểu kinh một phần vì cảm nhận cái đau từ hai đầu gối, tôi mất đi sự quán tưởng về hương linh của mẹ. Trong một biến kinh như thế, đến cả việc pha trà, thầy chủ lễ cũng trịnh trọng: “Tiến trà,” bằng giọng ngân nga. Đệ tử rót trà xong, thầy nhắc: “Lễ nhị bái.” Con cháu lạy hai lạy xong, thầy chủ lễ xướng: “Bình thân quì”. Thao tác cung kính này được lặp lại nhiều lần trong một biến kinh.
Trong các biến kinh đầy chữ Hán này, xin thú nhận, bài kinh tôi thích nhất là bài “Hồi hướng” (“Nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh thề trọn thành Phật đạo.”) Vì đây là một bài kinh tiếng Việt dễ hiểu và nhất là vì nó báo hiệu sắp kết thúc buổi lễ.
Nói vậy, nhưng tôi tin các đạo hữu của tôi ở Huế sẽ không cho tôi là một tên phản đồ hay dị giáo, vì qua trao đổi tản mạn, nhiều người cũng chia sẻ kinh nghiệm mù chữ như tôi. Tôi vẫn thấy mình theo đạo Phật, hay chí ít, văn hoá Phật giáo vẫn là văn hoá gần gũi với tâm hồn và nhân sinh quan của tôi nhất.
Xin phân bua thêm điều này: vào những năm trưởng thành của tôi, trong thập niên đầy biến động 1960-70, tôi có cơ duyên đọc được nhiều sách của nhà sư Thích Nhất Hạnh, trong đó nổi bật nhất là những tác phẩm như Đạo Phật đi vào cuộc đời, Đạo Phật hiện đại hoá, Nói với tuổi hai mươi, Hoa sen trong biển lửa…Và cũng trong thời gian này, với sự hiện diện của trên nửa triệu lính Mĩ ở miền Nam, sách tiếng Anh từ các trại lính đồng minh của Việt Nam Cộng hoà cũng tràn ra các đống rác và được con buôn lượm về bày bán trên các vỉa hè, nhờ vậy mà không hề thông qua một chế độ kiểm duyệt nào cả. (Trong khi đó các báo chí công khai phải kinh qua chế độ “cắt, đục, bỏ”, còn mệnh danh là “tự kiểm duyệt” khá khắt khe, để lại trên mặt báo những khoảng trắng nom thật buồn cười.) Và, từ các đống rác ấy, không những tôi đọc được People’s War, People’s Army by Vo Nguyen Giap, Ho Chi Minh by Jean Lacouture, mà cả những tác phẩm thiền học của D.T. Suzuki.
Cái nghịch lí là, tôi lớn lên trong chiếc nôi Phật giáo là cố đô Huế nhưng tiếp cận tinh túy của đạo Phật không phải qua những kinh kệ Hán văn do “quí ôn, quí thầy” tụng đọc, nhưng chủ yếu xuyên qua những tác phẩm tiếng Việt của thầy Nhất Hạnh, các vị sư hay cư sĩ trước thầy và sách tiếng Anh.
Đạo Phật chờ đợi con người tự mình thắp đuốt lên mà đi và có hàng vạn Pháp môn để tu tập, nên tất nhiên có hàng triệu đạo hữu không chọn hoặc thậm chí phản bác đường lối hiện đại hoá của thầy Nhất Hạnh. “Đường quan vừa rộng vừa dài”. Riêng phần mình và có liên quan đến sự trưởng thành của tiếng Việt, tôi ghi nhận công đức của những vị thầy như Thích Nhất Hạnh trong nỗ lực Việt hóa các nghi thức tụng niệm. Có hiểu kinh khi đó định lực và sự quán tưởng của người dự lễ mới tăng trưởng dễ dàng. Đương nhiên, người Phật tử cũng rất biết ơn những nhà sư và cư sĩ trước thầy Nhất Hạnh đã đóng góp cho việc dịch các kinh sách chữ Hán ra tiếng Việt, trong đó một trong những nỗ lực quan trọng phải kể đến là công đức của Cư sĩ Minh Tâm Lê Đình Thám và Tạp chí Viên Âm, mà vào thời tiểu học tôi còn mua được ở nhà sách Liễu Quán của Bác Mừng ở đầu đường Ngã Giữa (nay là Phan Đăng Lưu) tại Huế, thập niên 1950.
Tôi tin vào sức mạnh của tiềm thức (the power of the subconscious mind), một năng lượng tinh thần có sức trị liệu và giúp con người vượt qua nhiều tai ách cũng như thực hiện những việc to lớn vượt quá kích thước của mình. Đức tin đặt vào Thượng Đế, Allah, hay một năng lực siêu nhiên nào đó sẽ tác động lên sức mạnh tiềm thức này xuyên qua các lời cầu nguyện – mà phải cầu nguyện với tất cả thành tâm (“nhất tâm kính lễ” hay “nhất tâm bất loạn”) mới có hiệu ứng linh nghiệm.
Người Ki-Tô giáo tin rằng sức mạnh của lời cầu nguyện có thể di dời cả ngọn núi (mountain moving faith). Người theo Phật giáo Đại thừa tin rằng sức mạnh của lời kinh có thể đưa người tụng niệm đi qua được bão lửa, “như nhập đại hoả, hoả bất năng thiêu” (Kinh Phổ Môn).
Tuy nhiên, cái chià khoá ở đây là “một lòng kính lễ”. Nhưng khi đọc kinh mà anh chị không hiểu gì cả (như trường hợp của tôi khi nghe kinh chữ Hán) thì làm sao có được cái định lực cần thiết, phát sinh từ “nhất tâm kính lễ”?
Trừ những tôn giáo hô hào thánh chiến để trừng phạt người ngoại đạo, tôi tôn trọng mọi đức tin vì đức tin là chiếc phao cuối cùng, không thể thiếu trong biển đời giông bão. Với người Việt Nam, đó là biển đời đầy những sunami, “sợ khi sóng gió bất kì, con ong cái kiến kêu gì được oan,” Truyện Kiều.
“Tôn giáo là thuốc phiện”, nhưng thuốc phiện vẫn có thể làm giảm những cơn đau. Phương chi, càng ngày giới y học càng có nhiều bằng chứng xác nhận rằng đức tin có tác dụng rất tích cực trên sự phục hồi của bệnh nhân.
Những bi văn và kinh sách chữ Hán khiến tôi ý thức sâu sắc về nạn mù chữ của bản thân đồng thời nhắc nhở tôi sự lệ thuộc văn hoá dài hun hút của dân tộc Việt Nam. Cứ gọi là người Việt Nam có hai ngàn năm lịch sử được ghi chép (tính từ thời Sĩ Nhiếp sang “khai hoá” dân ta), thì có đến trên 19 thế kỉ giới tinh hoa của ta phải dùng chữ viết của người Trung Hoa. Tuyệt đại đa số dân chúng đã sống trong đêm dài tăm tối của nạn mù chữ, vì không có chữ viết phản ảnh ngôn ngữ mà mình đang nói.
Nạn mù chữ tước đoạt khả năng truyền thông giữa người và người với nhau, giữa địa phương này và địa phương khác, tạo sự cách li xã hội giữa các làng xã, nếu không muốn nói là sự chia rẽ, nghi kị lẫn nhau. Các làng nghề thường giữ kín một số kĩ năng trong biên giới địa phương của mình vì sợ cạnh tranh, vì lòng ích kỉ, là lẽ đương nhiên. Nhưng nếu có phương tiện truyền thông (qua chữ viết) dễ dàng, những nghề bí truyền đó cũng có lúc lọt ra ngoài và được chia sẻ cho nhiều người và cho nhiều cộng đồng khác nhau, nhờ thế kinh nghiệm sẽ được bồi đắp tinh vi và mức sản xuất được gia tăng hơn trước.
Nạn mù chữ không những gây trở ngại cho việc trao đổi kinh nghiệm giữa những người đang sống với nhau mà còn cắt đứt kinh nghiệm giữa những người đang sống với các thế hệ tiền nhân. Lịch sử Việt Nam qua các thời đại được các quan của triều đình ghi lại bằng chữ Hán, không hề coi đại khối dân chúng mù chữ như những chứng nhân lịch sử. Lịch sử mất luôn tính khách quan của một khoa học, vì sử gia cũng chỉ là cái lưỡi gỗ mà sự an sinh của ông và thân thuộc ông nằm trên nỗ lực đánh bóng chế độ ông ta đang phục vụ.
Người có đầu óc bình thường không thể không tự hỏi câu này: Vậy những điều các sử quan ghi lại bằng chữ Hán cách đây một vài thế kỉ có thể chứa đựng được bao nhiêu phần trăm sự thật? Nạn mù chữ cũng tướt đoạt quyền theo dõi thông tin về vận mệnh đất nước, và vì thế người dân không có ý kiến về việc điều hành đất nước của vua quan ở chốn cửu trùng. Nạn mù chữ không nằm chung một giường với chế độ dân chủ. Một trùng hợp tình cờ: nạn mù chữ có hệ quả nghiêm trọng tương đương với việc bưng bít thông tin của các chế độ toàn trị.
Nếu xã hội Việt Nam truyền thống là một tảng băng sơn, thì người mù chữ là khối lượng khổng lồ nằm chìm dưới mặt nước. Phần nổi nhỏ bé ở phía trên là giới Nho sĩ, những người trước là theo đuổi chữ nghĩa thánh hiền, sau nữa (phần quan trọng) thông qua con đường cử nghiệp nuôi mộng ra phò vua và hưởng ơn mưa móc. Nếu có thất bại trên đường hoạn lộ, kẻ sĩ cũng có thể trở về sinh quán, được ngồi chiếu trên ở chốn đình trung, được “ăn phần cảnh nọng” và được dân làng kính trọng.
Về lịch sử Việt Nam, nếu có ai hỏi những vị anh hùng nào là đáng kính nễ nhất, tôi sẽ không trả lời theo các sách giáo khoa mà tôi đã học, vì tôi nghi ngờ tính trung thực của những người viết chính sử (official history), là loại lịch sử viết theo mệnh lệnh của triều đình. Tôi cũng không có ấn tượng dữ dội về những vị tiến sĩ tên được khắc bia trong Văn Miếu, vì những người này chỉ là những học sĩ của một loại ngôn ngữ mà bản thân họ thậm chí không nói được, đó là chữ Hán.
Một điều chắc chắn là thậm chí các sứ giả và học giả của ta (kể cả nhà cách mạng Phan Bội Châu của Thế kỷ 20) khi sang Trung Quốc cũng chỉ có thể bút đàm với các đối tác đàn anh Trung Quốc. Bút lông và giấy bổi không cho phép đối đáp thông minh, nhanh nhạy như thường được dân gian truyền tụng qua thiên tài Trạng Quỳnh, một nhân vật láu cá mà tôi nghĩ chỉ là một phóng thể tâm lí của người phương Nam nhằm giải tỏa các mặc cảm tự ti của mình. Vả lại, “thập niên đăng hoả”, mười năm đèn sách, thời gian người xưa phải bỏ ra chuẩn bị cho đủ trình độ để đi thi, đỗ đạt và ra làm quan, gợi ý cho tôi về một trình độ tri thức quanh quẩn ở lớp 10 trong điều kiện thiếu sách vở và các phương tiện học tập khác.
Hình như lịch sử cũng đang tự lặp lại chính nó. Nếu các quan xưa phải là ông nghè, ông cống, thì điều kiện khoa bảng của các quan chức đầu ngành hiện nay cũng phải là thạc sĩ hay tiến sĩ gì đó cho xứng mặt với một nền văn hiến chứ! Tuy vậy, nhiều trí thức trong nước cũng lên tiếng than phiền tệ trạng các quan chức nhà nước, với trình độ học vấn lớp 10, bon chen làm luận án tiến sĩ, kể cả thông qua con đường gian lận—mà mục đích nhiên hậu là để nắm giữ địa vị quan trọng trong guồng máy cai trị và để nhà nước khỏi mang tiếng là đi theo chính sách “hồng hơn chuyên”.
Ông Nguyễn Tấn Dũng từng trăn trở với một quốc sách là đào tạo cho bằng được 20 ngàn tiến sĩ trước năm 2020, việc này có thể khiến cho nhiều người có ảo tưởng rằng hễ kiếm được một túc số tiến sĩ nào đó thì chất lượng giáo dục, tiến trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước đương nhiên sẽ được cải thiện nhanh chóng. Tuy nhiên, người dân không thể không thắc mắc: nếu trong 20 ngàn ông hay bà nghè đó, con số tốt nghiệp các học viện chính trị khuynh loát các ngành khoa học nhân văn và khoa học kỹ thuật, liệu như vậy có nâng cao dân trí, thúc đẩy hiện đại hóa đất nước được không?
Khi các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu than phiền công nhân Việt Nam không có đủ tay nghề, khi Vietnam Airlines phải nhập cảng các phụ tùng máy bay từ nước ngoài với giá cắt cổ, chắc người dân thích nghe nói đến việc đào tạo gấp 20 ngàn thợ tiện (machinists) hơn là 20 ngàn tiến sĩ giấy. Trong khi đó, nhìn sang nước Mỹ chẳng hạn, cũng với tâm trạng trăn trở về thực trạng giáo dục và kinh tế của đất nước, Obama chỉ biết kêu gào là cần mở thêm thật nhiều community colleges (đại học cộng đồng, thời gian đào tạo là 2 năm tiếp theo bậc trung học), nhằm cải thiện sức cạnh tranh của thị trường lao động Mĩ, quyết tâm giành lại công ăn việc làm đã mất vào tay công nhân nước ngoài trong mấy thập niên qua.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, với tất cả tâm thành và không một chút nghi ngờ như tôi đã nghi ngờ một số nhân vật lịch sử, tôi dành sự kính trọng cao nhất cho những ai đã đặt ra và phát huy loại chữ viết mà tôi đang dùng để viết bài này. Mặc dù Alexandre de Rhodes đã phát triển và sử dụng chữ Quốc ngữ vào thế kỉ 17 trong sự nghiệp truyền giáo, nhưng phải đợi đến thế kỉ 20 mới thấy được sự đại tập thành của chữ Quốc Ngữ nhờ những nỗ lực ráo riết để quảng bá nó trong đại chúng, qua Ðông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, qua Tự Lực Văn Đoàn, Tiểu thuyết Thứ bảy, qua các đóng góp của những người tâm huyết như Nguyễn Văn Tố, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Hữu Đang…
Và phải đợi đến Chính phủ Trần Trọng Kim, tiếng Việt (Quốc ngữ) mới trở thành ngôn ngữ chính trong việc giảng dạy. Với tôi, đây là một quá trình lịch sử rất thật và rất cảm động. Ngay trong thời niên thiếu của tôi, giữa thập niên 1950, ở miền Nam phong trào chống nạn mù chữ vẫn còn rầm rộ, phản ảnh qua một bài hát điệu Đăng đàn cung ở Huế mà tôi còn nhớ: “Này trai gái thuộc phái lao cần, mỗi ngày sau khi rồi việc, nên vào học các lớp bình dân. Cùng đôi mắt rạng quắc như người, tội tình chi ta mà chịu tối tăm mịt mù. Ta càng học càng khôn, càng tiến lên càng nhanh…”
Chữ Quốc ngữ giải phóng chúng ta ra khỏi những bí nhiệm do chữ Hán tạo ra. Ở Huế ngay trong thế kỉ 20, người ta vẫn trịnh trọng dùng chữ Hán trong sinh hoạt cung đình. Xin trích một đoạn trong bài “Vua Khải Định, hình ảnh và sự kiện” của Võ Hương An:
“Viên quan Bộ lễ phụ trách điều khiển chương trình bắt đầu xướng:
1 Bài ban 俳班 (chỉnh đốn hàng ngũ ngay thẳng)
2 Ban tề 班齊 (quay mặt về phía ngai vàng)
3 Cúc cung bái 鞠躬拜 (lạy năm lạy)
4 Hưng 興 (đứng lên)
5 Bình thân 平身(đứng thẳng người)
6 Hành tấn quang lễ 行晉光禮 (làm lễ đăng quang)
7 Bách quan giai quị 百官皆跪 (Tất cả các quan đều quì xuống)”.
Hình ảnh một ông vua Việt Nam dùng chữ Hán để diễn tả ý tưởng bình thường của mình đã được nhà văn Phạm Quỳnh hí họa bằng đoạn văn sau đây:
Khi dâng Hoàng thượng ta ngự phê thì thấy ngài cầm quản bút ra dáng nghĩ ngợi, các quan Tây có ý chờ đợi ngóng trông, bọn mình thì tưởng rằng chắc ngài nghĩ một bài thơ nôm hay thơ chữ Đường luật hay tứ tuyệt gì, nên mới lâu như thế. Lúc bấy giờ cử hội im phăng phắc, ai cũng để mắt vào nhìn, có cái vẻ oai nghiêm vô cùng. Tưởng chừng đức Chí tôn ta, đương khi mấy trăm con mắt ném ánh sáng vào bàn tay ngọc đó, – ngọc thật, vì ngài thường đeo nhẫn kim cương quý giá lắm, – thời:
Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu
ngay tức thì.Nhưng mà không! Cứ thấy cái quản bút quằn quại trên tay, mà không thấy viết chữ gì. Năm phút, mười phút, mười lăm phút, người đứng chung quanh đã thấy thì thào động đậy, kẻ nói nhỏ, người đưa mắt, anh em đồng bang mình thì vừa nóng ruột, vừa động lòng. Sau mới thấy ngòi bút chuyển động; ai nấy thở dài! Hỏi ra thì không phải thơ ngũ ngôn tứ tuyệt gì, chỉ có một câu chữ Hán rằng: năm ấy, tháng ấy, đức Hoàng đế Việt Nam đến ngự nhà Hội, thế mà thôi – Ấy đức Chí tôn ngài viết một chữ một câu cũng thận trọng như thế…
(Trích từ “Hoàng đế Khải Định dưới con mắt thần dân Phạm Quỳnh”, Pham Ton’s Blog)
Phạm Quỳnh ghi lại sự kiện này trên trang nhật kí đề ngày 26 tháng 6 năm 1922. Việc Khải Định dùng chữ Nho để phát biểu một ý nghĩ bình thường chứng tỏ rằng trong hầu hết lịch sử của mình, người Việt Nam gần như không mấy quan tâm đến chữ viết để kí âm ngôn ngữ họ đang nói. Hay nói cách khác, dân tộc ta đã kinh qua một lịch sử mù chữ quá lâu dài.
Trong trí tưởng của tôi, một du khách Đài Loan (vốn còn dùng chữ Hán phồn thể) có lẽ sẽ nở mũi tự hào khi đứng trước các miếu môn lăng tẩm ở Huế, mặc cảm tự tôn sô-vanh nước lớn của anh sẽ được căng phồng, chỉ vì anh nhận ra dấu ấn văn hoá Trung Hoa đã in sâu đậm như thế nào trên mảnh đất chữ S dễ thương này, chỉ vì anh đọc lưu loát các bia văn bằng tiếng mẹ đẻ cuả anh, trong khi người bản xứ chỉ là đám ngu ngơ mù chữ ngay trước di tích lịch sử của mình. Trong mắt anh, các hoàng đế An Nam bất quá cũng chỉ là những con liu điu trước những con rồng sừng sõ ở Thiên triều, như được mô tả trong câu ca dao, “Trứng rồng lại đẻ ra rồng/ Liu điu lại đẻ ra giòng liu điu.”
Sự khinh thị là mẹ của mọi hành vi tàn ác và bạo ngược. Việc “tàu lạ” ủi vào thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam và cảnh tượng có đến cả trăm công nhân Trung Quốc cầm gậy gộc đến hành hung một gia đình hàng quán Việt Nam trên đất Việt Nam là dấu tỏ của một sự khinh thị có từ trong huyết quản của các “đồng chí bốn tốt Trung Quốc” đối với bọn “Nam man”, một dân tộc mà họ cho là đã mang ơn Trung Quốc từ chữ viết (mà giới tinh hoa bản xứ đã sử dụng trong gần hết lịch sử của mình), đến đạo lí thánh hiền Khổng Mạnh, thậm chí đến cả sức người sức của trong các cuộc chiến tranh chống “thực dân, đế quốc” của Việt Nam Thế kỉ 20.
Như trên đã thú nhận, người viết bài này chia sẻ kinh nghiệm mù chữ của cá nhân mình và có thể là của đại khối dân tộc trước khi chữ Quốc ngữ được chính thức sử dụng. Những điều vừa giải toả chỉ là ý nghĩ thành thật của một người bình dân, dựa vào tri thức thường nghiệm là chính, nên nhất định có những sai lầm đáng trách, rất mong được quí học giả có trình độ văn chương và sử học về xã hội Việt Nam truyền thống chỉ giáo.
Biên tập lại một bài viết đã đăng trên Talawas Blog 2009
nguồn: https://www.facebook.com/trandong.xuyen/posts/pfbid0ExJ6swxXfPJhYqm2QxdP1aikrGEMRiohBLQ422yfB1LQKTmK5EqGxHJb8qzD1tbMl?

5/12/23

Đáp Lục Lễ

 

答陸澧
松葉堪為酒春來釀幾多           
不辭山路遠踏雪也相過           
張九齡      

Giản thể. 松叶堪为酒,春来酿几多?不辞山路远,踏雪也相过

Âm.

Tùng diệp kham vi tửu, Xuân lai nhưỡng kỷ đa.
Bất từ sơn lộ viễn, Đạp tuyết dã tương qua.

Nghĩa. Trả lời Lục Lễ

Lá thông có thể ủ rượu được, xuân về cất được nhiều ít.
Không ngại đường núi xa xôi, đạp tuyết cũng tới thăm hỏi.

Tạm dịch.

Lấy lá thông làm rượu,

Xuân về được mấy bầu.

Mặc cho đường núi hiểm,

Đạp tuyết tìm thăm nhau.

Chú.

陸澧 Lc L: không rõ là ai, theo miêu t trong bài thơ thì là mt v n sĩ, mời tác giả đến nhà uống rược. Tác giả viết bài thơ đáp lại lời mời.

: 即可以,能夠。kham: có thể làm được. 不堪 bt kham: chng chu được. 難堪 nan kham: khó chu, không chu được. 堪稱佳作 kham xưng giai tác: có th gi là mt tác phm hay.

nhưỡng: ct rượu.

幾多 k đa, như 多少 đa thiu: nhiu ít, hi v s lượng. 

:意即拜訪、探望。quá: qua li, thăm hi.

Cũng có nơi ghi tác giả bài thơ là 朱放 Chu Phóng.

Thư pháp: Diêu Văn Trường. Hình trên mạng





29/11/23

Ẩn giả tưởng

 

隱者想

小隱高山非可奇, 大居鬧市也兮希。
絕塵籠裏真甚事, 無物無人無所為。
慧士

Âm

Ẩn giả tưởng

Tiểu ẩn cao sơn phi khả kỳ, Đại cư náo thị dã hề hy.
Tuyệt trần lung lý chân thậm sự, Vô vật vô nhân vô sở vi. Tuệ Sỹ

Nghĩa. Nghĩ về chuyện ở ẩn.

Ở ẩn nơi núi cao chỉ là tiểu ẩn, không đáng coi là kì lạ,
Ở ẩn nơi chợ búa ồn ào là đại ẩn, cũng đáng gọi là hiếm hoi.
Để dứt bỏ bụi trần, thì ở trong tù mới là nơi chân thực nhất,
Ở đó không còn có vật, không còn có người, đúng thật là vô vi.

Tạm dịch.

Lên non ở ẩn chuyện bình thường,
Vào chợ ẩn cư có hiếm hơn.
Nhưng ở trong tù mới thật tuyệt,
Vật, người, vạn sự chẳng còn vương.

Chú.

-          隱者想  Ẩn giả tưởng: Nghĩ về người/chuyện ở ẩn. tưởng: suy nghĩ.

-          小隱高山 Tiểu ẩn cao sơn, ý xưa: 小隱在山林 tiểu ẩn tại sơn lâm (Tiểu ẩn thì ẩn cư nơi núi rừng). 非可奇 không đáng gọi là lạ.

-          大居鬧市 đại cư náo thị, ý xưa: 大隱於市朝 đại ẩn ư thị triều (bậc đại ẩn là ẩn cư nơi chợ búa hay triều đình). 也兮希 cũng là hiếm.

-          絕塵 tuyệt trần: dứt hết bụi bặm, trần duyên

-          真甚事 chân thậm sự: một việc cực kì yên vui. thậm, tính từ: 异常安乐 dị thường an lạc.

Thích Tuệ Sỹ (1945 - 2023),  nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với Chính phủ Việt Nam. Từng bị kết án tử hình, sau đổi thành án tù chung thân, bị giam tù hai lần (1978 - 1981) và (1984 - 1998).

Bài thơ trên đây trích trong tập Ngục trung mị ngữ, ông làm trong thời gian bị tù.
Ở ẩn là muốn dứt bỏ những dính líu với đời. Người xưa coi trốn lên non ở chỉ là tiểu ẩn. Bậc đại ẩn là ẩn cư ngay giữa chợ búa hay chốn triều đình, giữa nơi tranh lợi đoạt danh mà không dính mắc. Đấy là hình ảnh của người thỏng tay vào chợ. Lại nhớ hồi xưa lăng mộ của Đông Hồ trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ghi là Đại Ẩn Am.
Nay thì tác giả nhận ra lao tù là nơi ở ẩn còn chân thực hơn những nơi xưa nay cho là đại ẩn.

27/11/23

CÁI PHI LÍ CÓ LÍ

Nguyễn Văn Hiệp

[Ngôn ngữ học Đồng đại chỉ chấp nhận một quan điểm duy nhất, đó là quan điểm của người bản ngữ - Ferdinand de Saussure]
o
Gần đây, trên một tờ báo điện tử có đưa các câu hỏi trắc nghiệm, yêu cầu độc giả lựa chọn một đáp án (được coi là đúng) cho những biến thể thành ngữ (thường là 2). Thí dụ, câu hỏi: “Theo bạn, đâu mới là thành ngữ đúng: 1. râu ông nọ cắm cằm bà kia; 2. dâu ông nọ chăn tằm bà kia”.
Thành ngữ này, hẳn mọi người chúng ta đã quá rõ, nó được dùng để “ví việc chắp vá, gán ghép bộ phận của cái này vào một cái khác một cách khập khiễng, hoàn toàn không phù hợp”, ví dụ: Bài văn viết lộn xộn chẳng đâu vào đâu. Đúng là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Ngữ nghĩa như thế hẳn không có gì để bàn cãi. Cái mà nhiều người cho rằng không ổn là chuyện “râu của một ông nào đó lại đem cắm vào cằm một bà nào đó”. Quả là vô lí và điều này không thể có trong hiện thực. Râu là “lông cứng chỉ mọc ở cằm đàn ông”, đàn bà không bao giờ có. Vì vậy, chuyện nhổ râu “chàng” đem cắm vào mặt “nàng” là không thực tế. Câu này đúng ra phải là “dâu ông nọ chăn tằm bà kia” mới hợp lí (dâu nhà ông này không dùng nuôi tằm nhà mình lại đem cho một bà khác nuôi tằm của bà ấy).
Tương tự, ta còn thấy nhiều người lên tiếng về việc xem xét tìm ra nguyên gốc của một số thành ngữ. Chẳng hạn, các thành ngữ:
- “ra ngô ra khoai” phải là “ra môn ra khoai”, vì môn ở đây chỉ “khoai môn”, một cây cùng họ với ráy, có củ gần giống với củ khoai (khoai sọ hay khoai dọc mùng chẳng hạn). Vì hai loại củ này na ná nhau, dễ bị nhầm lẫn, chứ ngô và khoai khác nhau rõ ràng thì làm sao có chuyện nhầm (để từ đó mà hình thành nên ngữ nghĩa “làm cho rõ ràng, rành mạch, không nhập nhằng lẫn lộn”)?
- “ướt như chuột lột” (ướt sũng, ướt từ đầu đến chân) đúng ra phải là “ướt như chuột lội” hay “ướt như chuột lụt”, vì có ai thấy chuột lột bao giờ? Thực tế chỉ có chuột ướt sũng, bơi lóp nga lóp ngóp khi bị lụt lội thôi.
- “vênh váo như bố vợ phải đấm” (chỉ thái độ kiêu ngạo, không coi ai ra gì) phải là “vênh váo như bố vợ cậu ấm” (được làm bố vợ cậu ấm nào đó thật đáng lên mặt, coi thường người khác) hoặc “vênh váo như khố rợ phải lấm” (khố rợ - một loại khố vốn là một mảnh vải dài và hẹp, đàn ông xưa thường đóng để che bộ phận sinh dục, khi lấm bùn đất khô đi thì lớp bùn đất đó làm cho cái khố “vênh váo” khó coi), v.v.
Những lập luận như thế nghe rất có lí và đã có không ít người lên tiếng đòi “trả lại tên cho em”, như thế tiếng Việt mới đúng, mới thực sự trong sáng.
Những thành ngữ ấy, nếu phân tích máy móc ta cảm thấy không ổn, vì đó là kết hợp vô lí, không logic với thực tế tiếng Việt thông thường. Tuy nhiên, chúng ta phải thấm nhuần một điều, thành ngữ tục ngữ là sản phẩm của dân gian được hình thành và tồn tại qua lịch sử. Thành ngữ là các từ kết hợp với nhau, là là tổ hợp cố định đã quen dùng mà nghĩa của nó không thể giải thích đơn giản bằng các từ tạo nên nó. Đó là các đơn vị “định danh bậc hai” mà nghĩa biểu trưng mới là nghĩa cơ bản. Khi nghe, người ta nhận ra nghĩa chung làm nên thông điệp chứ không bị lệ thuộc vào cấu trúc làm nên nó, có khi là những kết hợp bất quy tắc. Các kết hợp đó có thể có ngay từ khi hình thành, cũng có khi bị “tam sao thất bản” trong quá trình sử dụng và bây giờ thành một tổ hợp cố định, “đóng đinh” qua thời gian. Vì vậy, chúng ta đừng cố gò những câu này thành một biến thể do ta cho là hợp lí. Đừng bắt chuyển câu “vắng chúa nhà gà mọc đuôi tôm” thành “vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm”, với lí giải “chỉ có lũ gà nhân cơ hội chủ nhà đi đâu đó “vọc” vào niêu tôm (để ăn vụng) chứ trên đời này có con gà nào lại tự nhiên mọc ra một cái đuôi con tôm (loài giáp xác sống ở dưới nước)”. Chính những sự phi lí (chuột lột chứ không phải chuột lội, chân nam đá chân xiêu chứ không phải chân đăm đá chân chiêu, con ông cháu cha chứ không phải con cha cháu ông, nhường cơm sẻ áo chứ không phải sẻ cơm nhường áo…) lại ngồ ngộ, tạo nên ấn tượng, tăng giá trị biểu cảm. Chất “folklore” làm nên cái thú vị của cuộc sống ngôn từ.
Cái phi lí dùng đã quen sẽ được cộng đồng chấp nhận và trở thành có lí. Ta có thể tìm hiểu ngọn ngành xuất xứ để hiểu cho thấu đáo chứ không phải vì thế mà bắt phải thay đổi. Biết cái hôm qua để hiểu cái hôm nay chứ không bắt cái hôm nay quay trở về cái hôm qua.
“Nghĩa cả gói” mới là hay
Cái hôm qua để hôm nay rõ ràng.
link: https://www.facebook.com/tinh.phamvan.712/posts/pfbid0qnnZVSzbWiwMCGuCTcMFtXgQ2PdRGxmUpg15owUAtXt7AxmUmAZ7XaywhSTz9DpFl?



26/11/23

KHẢO CỨU THI CA CỦA HOÀNG ĐỨC LƯƠNG

 



TS. NGUYỄN THỊ THANH CHUNG

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Hoàng Đức Lương không chỉ để lại danh tiếng khi biên soạn Trích diễm thi tập, ông còn là thi nhân với nhiều tác phẩm có giá trị về nội dung và nghệ thuật. Từ khi bài Tựa của tập thơ được biên soạn vào cuối thế kỷ XV được đưa vào nhà trường phổ thông(1), ngày càng nhiều người đặt câu hỏi về sự nghiệp và vẻ đẹp thi ca của nhân vật trí thức đóng góp to lớn cho lịch sử văn học dân tộc. Trong bài viết này, chúng tôi cố gắng khảo sát văn bản và khai thác một số đặc điểm nổi bật trong những sáng tác thi ca của ông.

1. Khảo cứu văn bản thi ca của Hoàng Đức Lương

Theo khảo sát của chúng tôi, thơ của Hoàng Đức Lương hiện còn trong 3 thi tuyển gồm Trích diễm thi tập (từ đây gọi tắt là Trích diễm), Toàn Việt thi lục (từ đây gọi tắt là Toàn Việt), Hoàng Việt thi tuyển (từ đây gọi tắt là Hoàng Việt). Phần đầu của bài viết hướng đến xác định một số vấn đề văn bản học của những thi phẩm này.

Trích diễm, thi tuyển xuất hiện cuối cùng trong cả một hệ thống những công trình sưu tập thơ văn Lý - Trần ở thế kỉ XV, được Hoàng Đức Lương biên soạn và hoàn thành vào năm 1497. Tham khảo thành quả của một số nhà nghiên cứu về văn bản Trích diễm, chúng tôi có thể khái quát tình hình văn bản như sau: Văn bản gốc hiện đã bị thất lạc. Đến năm 1957, Vụ Bảo tồn Bảo tàng mới sưu tầm được một bản chép tay ký hiệu HN.279. Thư viện Quốc gia đã chụp lại bằng máy pilôrit, văn bản mang kí hiệu R.2248-50. Thư viện Khoa học xã hội đã chép tay thành bản VHv.2573 và Viện Văn học chép tay thành bản HN.290. Hai kí hiệu sách HN.279 và HN.290 vốn được được lưu giữ ở thư viện nhưng hiện nay đã thất lạc. Vì vậy, chúng tôi khảo sát thơ của Hoàng Đức Lương trong Trích diễm, văn bản mang kí hiệu VHv.2573 tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN). Sách gồm 6 quyển, thơ của Hoàng Đức Lương tại quyển 1 và quyển 6. Trong quyển 1, thơ của ông tại trang 10, 11, 12, gồm 18 bài, bắt đầu ghi chữ Chuyết tác phụ(2), Ngũ ngôn tuyệt cú (những tác phẩm vụng về chép thêm, Ngũ ngôn tuyệt cú). Trong quyển 6, thơ của ông tại trang 68, 69, 70, gồm 6 bài, bắt đầu ghi chữ Chuyết tác phụ, Thất ngôn tuyệt cú (những tác phẩm vụng về chép thêm, Thất ngôn tuyệt cú). Số bài thơ của Hoàng Đức Lương trong Trích diễm gồm 24 bài, tính chi tiết là 27 bài.

Toàn Việt, bộ hợp tuyển thơ chữ Hán của Việt Nam do Lê Quý Đôn (1726 - 1784) biên tập, được hoàn thành năm 1768, chưa được in, hiện nay còn biết được 13 bản. Chúng tôi khảo sát thơ của Hoàng Đức Lương trong 3 bản đã được nhóm nghiên cứu về thi tuyển chữ Hán Việt Nam khẳng định là những bản “quan trọng nhất”(3), gồm các kí hiệu A.3200, A.132, A.1262. Trong 3 văn bản này, thơ của Hoàng Đức Lương đều ở quyển 14. Đối với phần thơ của Hoàng Đức Lương, chúng tôi chọn bản mang kí hiệu A.3200 là văn bản cơ sở vì bản A.1262 chữ viết thảo khó đọc, bản A.132 còn nhầm lẫn nhan đề và nội dung tác phẩm(4). Trong bản A.3200, thơ của Hoàng Đức Lương gồm 25 bài, tính chi tiết là 28 bài. 25 bài thơ này được chia thành 2 phần: Cổ thể thi ngũ thủ (thơ cổ thể, 5 bài) và Cận thể thi nhị thập thủ (thơ cận thể, 20 bài).

Hoàng Việt(5), tuyển tập thơ Việt Nam do Bùi Huy Bích biên tập, được hoàn thành vào năm 1788, được khắc in vào năm 1825. Chúng tôi đã khảo sát sách mang kí hiệu VHv.1477, VHV.1451, A.2857, A.608, VHc.1103, VHc.1104 tại VNCHN và nhận định những văn bản này đều được in từ 1 ván khắc. Trong đó, thơ của Hoàng Đức Lương thuộc quyển 4, gồm các tờ 21, 22, 23. Số bài thơ của Hoàng Đức Lương được tuyển chọn là 10 bài. Những bài này trùng khớp với các bài thơ của Hoàng Đức Lương trong Trích diễm và Toàn Việt. Bài Du Phật Tích sơn Thiên Phúc tự trong Hoàng Việt cũng gồm 2 bài như Toàn Việt.

Trên cơ sở khảo sát thơ của Hoàng Đức Lương trong 3 thi tuyển trên, chúng tôi nhận định như sau:

Thơ của Hoàng Đức Lương trong Trích diễm là 24 bài (tính chi tiết 27 bài), trong Toàn Việt là 25 bài (tính chi tiết 28), trong Hoàng Việt là 10 bài. Phần khảo sát cụ thể cho thấy Hoàng Việt chỉ tuyển chọn, không phân loại, các bài đều trùng với Trích diễm và Toàn Việt. Sự chênh nhau giữa tổng số 24 bài trong Trích diễm và 25 bài của Toàn Việt do 1 bài Thôn cư trong Trích diễm được tách thành 2 bài trong Toàn Việt. Từ góc độ nội dung và thể loại, 2 bài Thôn cư gồm 1 bài thuộc cổ thể và 1 bài thuộc cận thể trong Toàn Việt là hợp lý. Dựa vào sự khác biệt ở mục lục và chính văn của Trích diễm và nội dung tác phẩm, có thể tách nhan đề gồm 1 bài Lâm cư (viết về cuộc sống thanh tĩnh nơi núi rừng), 1 bài Thôn cư (viết về khung cảnh sinh hoạt ở nông thôn). Ngoài ra, bài Du Phật Tích sơn Thiên Phúc tự gồm 2 bài theo Toàn Việt và Hoàng Việt (bổ sung thêm 1 bài so với Trích diễm).

Như vậy, thơ của Hoàng Đức Lương gồm 25 bài (19 bài ngũ ngôn tuyệt cú và 6 bài thất ngôn tuyệt cú), chi tiết là 28 (22 bài ngũ ngôn tuyệt cú và 6 bài thất ngôn tuyệt cú). Cụ thể như sau: 1/ 下觀書 (Thụ hạ quan thư - Xem sách dưới bóng cây). 2/ 春光睡覺偶成 (Xuân quang thụy giác ngẫu thành - Ngẫu hứng làm thơ khi ngủ dậy vào ngày xuân). 3/ 道上 (Đạo thượng - Trên đường). 4/  (Lâm cư - Cuộc sống nơi núi rừng). 5/  (Thôn cư Cuộc sống nơi thôn quê). 6/ 蟋蟀 (Tất suất - Tiếng dế). 7/ 長信宮二絕 (Trường Tín cung nhị tuyệt - Hai bài tuyệt cú về cung Trường Tín). 8/ 風雨夜 (Phong vũ dạ Đêm mưa gió). 9/ 題野寺(Đề dã tự - Đề vào chùa nơi hoang dã). 10/ 遊敬主山寺 (Du Kính Chủ sơn tự - Thăm chùa trên núi Kính Chủ). 11/ 舟過求官江 (Chu quá Cầu Quan giang - Thuyền qua sông Cầu Quan). 12/ 遊佛跡山天福寺 (Du Phật Tích sơn Thiên Phúc tự- Thăm chùa Thiên Phúc trên núi Phật Tích). 13/ 冬興 (Đông hứng - Cảm hứng mùa đông). 14/ 自嘲 (Tự trào - Tự cười mình). 15/ 坡疊驛偶作 (Pha Điệp dịch ngẫu tác - Ngẫu hứng làm thơ ở trạm Pha Điệp). 16/ 安慶曉寒 (An Khánh hiểu hàn - Sớm lạnh ở An Khánh). 17/ 楊子江閑步 (Dương Tử giang tử nhàn bộ - Dạo bước bên sông Dương Tử). 18/ (Bệnh Tỉ Khâu ni - Thăm bệnh Tỉ khâu ni). 19/ 秋江送別二絕 (Thu giang tống biệt nhị tuyệt - Hai bài tuyệt cú về cảnh tiễn biệt bên sông mùa thu). 20/ 客中 (Khách trung - Trong cảnh lữ khách). 21/ 黃塘夜泊 (Hoàng Đường dạ bạc Đêm đỗ thuyền ở Hoàng Đường). 22/ 題釆石謫仙樓 (Đề Thái Thạch Trích Tiên lâu - Đề lầu Trích Tiên ở Thái Thạch). 23/ 題准陰廟 (Đề Hoài Âm miếu - Đề vào miếu Hoài Âm). 24/ 歌風臺 (Ca Phong đài - Đài Ca Phong).25/ 曉立偶成 (Hiểu lập ngẫu thành - Ngẫu hứng viết xong thơ vào sáng sớm).

Khảo sát văn bản cho thấy các bài thơ trong các thi tập dị biệt về văn tự do hình thể văn tự gần giống nhau ( -  -  -  - ), từ đồng nghĩa, gần nghĩa ( -  -  -  - ), từ đồng âm ( - ), dị biệt làm thay đổi nghĩa (陰簿 - 無人夢忽 - 與人夢勿驚)… Việc khảo dị, và xác lập văn bản, dịch chú 28 bài thơ chúng tôi đã hoàn thành trong 1 bài viết khác(6). Trong bài viết này, chúng tôi hướng đến khai thác giá trị thơ của Hoàng Đức Lương.

2. Giá trị thơ ca của Hoàng Đức Lương

Thơ chữ Hán của Hoàng Đức Lương khẳng định một gương mặt thi ca của thế kỉ XV, góp phần thúc đẩy sự phát triển thơ ca của dân tộc. Gần ba mươi bài thơ đong đầy vẻ đẹp thanh tĩnh, sinh động của thiên nhiên tạo vật cùng cuộc sống con người, kí thác tâm sự thi nhân về đời tư và nhân tình thế thái. Tất cả được thể hiện bằng tài năng nắm bắt linh hồn cảnh vật, nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, ngòi bút giàu suy tưởng triết lý… Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu 3 giá trị có sự kết hợp đặc sắc cả nội dung và nghệ thuật gồm: Tình yêu cuộc sống kí thác vào ngôn từ và hình tượng; Nỗi cô đơn hiện hữu trong bức tranh thơ cô quạnh, tĩnh lặng; Khát vọng trở về hàm ẩn chất triết lý sâu xa.

2.1. Tình yêu cuộc sống kí thác vào ngôn từ và hình tượng

Khi viết lời tựa cho Trích diễm thi tập, Hoàng Đức Lương bày tỏ quan niệm về thơ ca: “Đối với thơ ca, người xưa thường ví von với nem chả hoặc gấm vóc. Nem chả là vị tuyệt ngon ở đời, gấm vóc là mầu tuyệt đẹp trong thiên hạ. Phàm là người có miệng, có mắt thì biết quý trọng, không vứt bỏ khinh thường. Tuy nhiên, sắc đẹp của thơ lại ở ngoài mọi sắc đẹp, mắt thường không thấy được; vị ngon của thơ lại ở ngoài mọi vị ngon, miệng thường không nếm thấy. Chỉ có thi nhân mới có thể thấy được sắc đẹp đó, nếm được vị ngon đó”(7). Cái đẹp của thơ khác với những cái đẹp thông thường dễ nhận, dễ biết. Cảm nhận cái đẹp vượt lên cái đẹp thông thường ấy cũng cần nhiều tố chất, năng lực cảm thụ văn chương, đến mức tác giả khẳng định: chỉ có thi nhân mới làm được điều đó. Nhưng quan niệm này là một phần trong cách nhìn nhận của Hoàng Đức Lương về thơ. Vì trong thực tiễn sáng tác, ông mong muốn dùng thơ của mình để dạy bảo con cháu trong gia đình (dụng vi gia đình chi huấn). Ông đã đề cao chức năng, khả năng bồi tài, hướng thiện, nâng đỡ tâm hồn con người của thi ca. Sự khiêm tốn của thi nhân cùng mục đích vừa cao quý vừa giản dị mà ông hướng tới đã in dấu vào thơ. Những giáo huấn trong thơ ông không phải lời lẽ khô khan cứng nhắc mà bằng cách tế nhị và hiệu quả hơn nhiều. Người đọc cảm nhận rõ nét một tâm hồn đôn hậu, chân thành, dung dị hiện hữu trong thơ. Thi nhân vui vẻ bày tỏ những sở thích cá nhân, đặc biệt thú vui làm thơ viết trong bài Tự trào (Tự cười mình):

性癖殊堪笑,

吟多亦不工.

夜深纔得句,

猛起急呼童.

(Tính tích thù kham tiếu/Ngâm đa diệc bất công/Dạ thâm tài đắc cú/Mãnh khởi cấp hô đồng - Thói quen thành tính riêng đáng cười/ Ngâm nga nhiều nhưng thơ chẳng khéo/ Đêm khuya vừa mới được câu thơ/ Bật dậy vội vàng gọi trẻ nhỏ). Chất đời thường trong câu chuyện gửi vào ngôn từ nghệ thuật, trở thành thế mạnh đem đến sự sinh động cho thơ. Lời thơ giản dị như bạn kể cho bạn, bố kể cho con, ông kể cho cháu. Chúng ta làm một phép so sánh: Phan Ngọc thống kê trong Đường thi tập I không có chữ hồ (), có 4 chữ chi (), 7 chữ giả (), 4 chữ  (). Vậy mà, bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt hai mươi chữ Tự trào có hư từ xuất hiện ở hấu hết các câu thơ như thậm (), diệc (), tài (). Phan Ngọc nhận định: trong thơ Đường, “tất cả mọi hư từ chỉ những thao tác của tư duy đều bị loại trừ hết như kì (), cái (), tắc (), phù (), phàm (), cố (), hựu ()… (vì) thơ Đường chấp nhận làm tiền đề cho cái mã của nó là tính đồng nhất của những hiện tượng mà giác quan cho là mâu thuẫn(8). Theo chúng tôi, hư từ vốn để diễn đạt nội dung, tư tưởng, ý tứ được tường minh. Các mối quan hệ được xác lập càng minh bạch thì chất khẩu ngữ, đời thường càng rõ nét. Ngôn từ đời thường trong thơ biểu hiện mối tương quan giữa hình thức, nội dung, nhất là ý thức về quan niệm nghệ thuật. Có lẽ, đây là một bước tiếp nối dòng thơ ca thế sự thời Lý - Trần, góp phần đánh dấu quan niệm về một con người đời thường đã nảy mầm trong thơ ca Việt Nam thời trung đại. Những xúc cảm, trạng thái trong cuộc sống thường nhật như vui buồn, ngạc nhiên, hoảng sợ, vội vàng… trở thành đối tượng thẩm mĩ của thơ ca. “Cái được biểu đạt” này cần “cái biểu đạt” là ngôn từ đời thường, thậm chí là khẩu ngữ. Nền văn học Việt Nam do đó mà từng bước thay đổi…

Hoàng Đức Lương luôn trân trọng cuộc đời, khát khao sự sống. Thơ của ông tươi tắn, sinh động, căng tràn sinh khí. Nói như Lưu Hiệp trong thiên Thể tính sách Văn tâm điêu long: “Văn chương mỗi người khác nhau như mây trời biến hóa, bút pháp của mỗi người thay đổi đa dạng tựa sóng xô. Văn chương nhất nhất gắn liền với tài năng, phong cách không thể tách rời khí chất (…) Mỗi người sáng tác theo tâm tính của mình tạo thành những phong cách như từng khuôn mặt”(9)Cảnh thôn quê trong bài Thôn cư là một minh chứng:

正眠,

.

,

.

(Tang ám tàm chinh miên/ Thiềm đê yến sơ nhũ/ Lực quyện hà sừ quy/ Trú vĩnh cưu thanh ngọ - Cây dâu ngả bóng tằm đang ngủ/ Mái nhà thấp chim yến bắt đầu được mớm mồi/ Người làm sức mệt nên vác bừa trở về/ Đẫy buổi, tiếng chim cưu đã giữa trưa). Làng quê tràn đầy năng lượng trong giấc ngủ no nê của tằm nương bóng dâu, trong vẻ háo hức của chim non bắt đầu được mớm mồi, trong tiếng cưu thong thả cất tiếng ban trưa. Ngay cả chữ quyện (mệt mỏi) cũng đồng nghĩa với sự thảnh thơi của người nông dân vác cày bừa trở về khi xong việc ruộng đồng. Hình tượng nghệ thuật mang thông điệp của một trái tim luôn hòa nhịp cùng làng quê gợi nhớ đến những vần thơ của Đào Uyên Minh, một phong cách thi ca mẫu mực. Nhà thơ điền viên của Trung Hoa cũng có nhiều tứ thơ vui tươi, như bài Vị Xuyên điền gia, (Trĩ cẩu mạch miêu tú/ Tàm miên tang diệp hi/ Nông phu hà sừ lập/ Tương kiến ngữ y y - Chim trĩ kêu lúa mạch trổ bông/ Tằm ngủ lá cây dâu thưa dần/ Người nông phu vác bừa đứng/ Gặp nhau nói chuyện xôn xao)…

Như vậy, phong cách giản dị hồn hậu trong thơ của Hoàng Đức Lương biểu hiện nhân sinh quan luôn hướng đến sự sống, tấm lòng trân trọng những niềm vui bình dị, đời thường và được biểu hiện bằng một nghệ thuật thi ca điêu luyện từ ngôn ngữ đến hình tượng. Những bài thơ như Thôn cư, Tự trào… trở thành tác phẩm khởi nguyên cho dòng mạch thơ ca hướng đến cái thực rất đời thường của thơ ca chữ Hán Việt Nam thời Trung đại.

2.2. Nỗi cô đơn hiện hữu trong bức tranh thơ cô quạnh, tĩnh lặng

Trái với với niềm tin yêu cuộc sống ùa vào thơ, Hoàng Đức Lương bày tỏ niềm cô đơn vô hạn gửi trong những bức tranh thơ cô quạnh, tĩnh lặng. Cô đơn như lúc thi nhân tiễn biệt bên dòng sông thu (bài Thu giang tống biệt), khi đêm đỗ thuyền ở Hoàng Đường (bài Hoàng Đường dạ bạc), thời điểm tỉnh dậy vào buổi sáng (bài Hiểu lập ngẫu thành). Nỗi cô đơn ẩn trong những sự vật đơn lẻ, riêng biệt, cô độc. Một cánh chim hồng lạc lõng trĩu nặng bóng chiều: Vãn đạp cô hồng ảnh (Ánh chiều muộn trĩu nặng bóng chim hồng cô quạnh). Một con thuyền lặng lẽ trong đêm vắng: Giang thượng cô chu khách dạ trì (Con thuyền cô đơn trên sông, khách thả thuyền nhè nhẹ trong đêm). Một áng mây lẻ loi trên bầu trời vô định: Du du thiên tận bất tri xứ/ Vọng đoạn cô vân nhất bán gian (Vời vợi bầu trời vô tận, không biết ở chốn nào/ Hút trong tầm mắt là mây cô đơn, một áng nhẹ trôi)…

Nỗi cô đơn còn bộc lộ trong ý thức về sự vắng bóng con người như: cửu bệnh vô nhân vấn (bệnh lâu mà không người hỏi han), vô nhân mộng hốt kinh (không người chợt giật mình trong giấc mộng), ngư nhân vô tứ lân (nhà chài không xóm làng). Cảnh ngộ không cùng ai (vô nhân cộng) luôn để lại niềm bâng khuâng khôn tả (bài Xuân quang thụy giác ngẫu thành):

門庭風雨過,

睡覺無人共.

深院靜陰陰,

寒簾辰自動.

(Môn đình phong vũ quá/ Thụy giác vô nhân cộng/ Thâm viện tĩnh âm âm/ Hàn liêm thìn tự động - Cổng nhà, gió mưa qua/ Ngủ dậy, chẳng ai cùng/ Chốn sâu kín yên tĩnh, xa xăm/ Rèm lạnh thỉnh thoảng tự lay động). Những từ vô nhân, vô nhân cộng, vô tứ lân chứa đựng khát vọng tìm kiếm tri âm khi người thơ cất tiếng: có ai biết chăng? (hữu thùy tri). Sự ngóng vọng càng da diết bao nhiêu, nỗi khắc khoải càng day dứt tâm can nhường ấy. Người đi tìm hồn đồng điệu nhận ra chẳng mấy người hiểu mình (bài Trường Tín cung):

体弱霜應覺,

衿寒秋亦悲.

不辭雙淚盡,

心事有誰知.

(Thể sấu sương ưng giác/ Khâm hàn thu diệc bi/ Bất từ song lệ tận/ Tâm sự hữu thùy tri - Cơ thể hao gầy sương xuống là biết rõ/ Chăn lạnh mà thu cũng buồn/ Chẳng nói nên lời hai hàng lệ cạn khô/ Nỗi niềm này có ai thấu tỏ). Bài thơ Trường Tín Cung diễn tả chuyển biến nội tâm của cung nữ nơi cung điện lộng lẫy nhưng lạnh lẽo: 粧成凝曉/更欲洗鉛 (Ân đoạn do nghi mộng/ Đăng hàn bất tác hoa/ Trang thành ngưng hiểu tọa/ Cánh dục tẩy diên hoa - Ân huệ hết còn ngờ là giấc mộng/ Đèn lạnh không thành những đốm lửa/ Trang điểm xong ngồi yên trong sáng sớm/ Lại muốn tẩy sạch phấn son). Sự bàng hoàng đến chán chường được gửi trong hàng loạt hành động: nghi mộng, ngưng hiểu tọa, dục tẩy diên hoa… tất yếu sẽ thành nỗi vô vọng đầy vơi. Thi nhân tinh tế nắm bắt cảm xúc và tâm lý nhân vật trữ tình vì ông đồng cảm mãnh liệt với sự tuyệt vọng của họ (bài Hoàng Đường dạ bạc):

江上孤舟客夜遲,
一般心事少人知.
無端睡起憑高枕,
月淡風輕細細吹.

黃堂夜泊

(Giang thượng cô chu khách dạ trì/ Nhất ban tâm sự thiểu nhân tri/ Vô đoan thụy khởi bằng cao chẩm/ Nguyệt đạm phong khinh tế tế xuy - Con thuyền cô đơn trên sông, khách thả thuyền chậm rãi trong đêm/ Một bầu tâm sự ít người thấu hiểu/ Vô cớ tỉnh giấc tựa gối cao/ Trăng mờ gió nhẹ hiu hiu thổi). Cô đơn nhất là khi người ta tận cảm sự đơn độc mà không tìm được lối thoát. Ý thức này hiện hữu trong hình ảnh một con người giữa không gian tĩnh lặng (bài Dương Tử giang nhàn bộ):

柳下柴扉靜,

漁家無四鄰.

日斜江上路,

何處獨歸人.

(Liễu hạ sài môn tĩnh/ Ngư gia vô tứ lân/ Nhật tà giang thượng lộ/ Hà xứ độc quy nhân - Dưới liễu cửa liếp vắng /Nhà chài không láng giềng/ Tà dương chiếu trên con đường bên sông/ Ở chốn nào người trở về một mình). Không gian yên tĩnh được tái hiện trong một bài thơ giàu chất họa và suy tưởng. Ba câu đầu hiển hiện trước mắt người đọc sự vật hữu hình: sài môn (cửa liếp), ngư gia (nhà thuyền chài), nhật tà (mặt trời xế bóng). Nhưng câu cuối là một bóng người cô độc ở chốn bất định trong tâm tưởng. Sự đối lập giữa những cái thực và không thực đã nhấn mạnh nỗi đau có thật. Bài thơ gợi nhớ đến cuộc chia tay của Lưu Trường Khanh khi tiễn ngài Linh Triệt (bài Tống Linh Triệt Thượng nhân): 蒼蒼竹林寺杳杳鐘聲晚荷笠帶斜陽青山獨歸遠 (Thương thương Trúc Lâm tự/Diểu diểu thanh chung vãn/ Hà lạp đới tà dương/ Thanh sơn độc quy viễn - Xanh xanh chùa Trúc lâm/ Mênh mang tiếng chuông chiều/ Nón sen vương tà dương/ Núi xanh một mình trở về trên đường thẳm)…

Trong thơ Hoàng Đức Lương, cảnh tĩnh vắng được gọi tên bằng những từ tĩnh, vô tứ lân và bằng nghệ thuật dĩ động tả tĩnh. Âm thanh của đêm, tiếng gió, tiếng mưa, tiếng côn trùng rả rích càng làm cho cảnh thêm tĩnh, người thêm sầu khổ (bài Phong vũ dạ):

風雨三更夜,

螿四壁秋.

淒涼吟况,

獨掩小窗幽.

(Phong vũ tam canh dạ/ Cung tương tứ bích thu/ Thê lương ngâm huống vị/ Độc yểm tiểu song u - Mưa gió đêm canh ba/ Tiếng dế trong bốn vách tường chính là tiếng thu/ Thê lương ngâm ngợi ý vị tình cảnh này/ Một mình vén cửa sổ nhỏ thấy vắng vẻ cô tịch). Hai câu đầu xác định thời gian canh ba, đêm, mùa thu và không gian bốn vách tường. Gió, mưa, dế mèn đều trở nên vô hình trong đêm nhưng âm thanh của chúng lại vang động, rền rĩ. Tác giả không sử dụng động từ như xuy, kiếu, trích, minh mà động từ hóa danh từ vũ, phong, cung tương. Để những hành động thuộc về con người ngâm (ngâm thơ trước cảnh thê lương), yểm (che song cửa nhỏ) trực tiếp xuất hiện trong hai câu cuối mang sức ám ảnh về nỗi đơn độc, vô vọng.

Thi nhân gửi lòng mình vào bức tranh thơ tĩnh lặng, cô quạnh. Nỗi cô đơn tưởng như đối lập với tâm hồn tin yêu sự sống nhưng dù vui hay buồn, lạc quan hay bi quan vẫn là tấm lòng luôn tha thiết với cuộc đời. Và tâm hồn ẩy còn mang khát vọng trở về được gửi vào thơ hàm ẩn chất triết lý sâu xa…

2. 3. Khát vọng trở về hàm ẩn chất triết lý sâu xa

Xưa, Đào Tiềm từ chức Bành Trạch lệnh vì chán cảnh quan trường đã viết khúc Quy khứ lai từQuy khứ lai hề, điền viên tương vu, hồ bất quy! Ký tự dĩ tâm vi hình dịch, hề trù trướng nhi độc bi ? Ngộ dĩ vãng chi bất gián, tri lai giả chi khả truy. Thực mê đồ kỳ vị viễn, giác kim thị nhi tạc phi (Về đi thôi hề, ruộng vườn sắp hoang vu, sao không về? Đã tự đem lòng cho thân hình sai khiến, sao còn một mình đau thương? Hiểu rằng chuyện đã qua thì không thể thay đổi, biết tương lai có thể theo đuổi. Quả là, đường mê ta chưa đi xa, hôm nay phải còn hôm qua trái)(10). Nguyễn Trãi cũng viết trong Côn Sơn caVấn quân hà bất quy khứ lai? Bán sinh trần thổ trường giao cốc/ Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên/ Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc. (Hỏi ngài sao chẳng về đi, nửa đời bụi trần mãi đeo đuổi/ Muôn chuông chín đỉnh đâu là chuyện tất nhiên/ Uống nước lã ăn rau tùy phận mình mà thấy đủ)(11). Nhiều nhà Nho đã rời bỏ hoạn lộ để trở về khi bất lực với thời cuộc, đó là một con đường quen thuộc.

Khát vọng trở về trong thơ Hoàng Đức Lương gợi mở từ hình ảnh con người trăn trở, bất an. Khi đậu thuyền đêm ở bến Hoàng Đường (bài Hoàng Đường dạ bạc): /(Vô đoan thụy khởi bằng cao chẩm/ Nguyệt đạm phong khinh tế tế xuy - Vô cớ tỉnh giấc tựa gối cao/ Trăng mờ gió nhẹ hiu hiu thổi). Khi nghe tiếng dế kêu rầu rĩ trong đêm (bài Tất suất): 月下長鳴訴令人枕未安更秋意苦/霧濕草窗寒(Nguyệt hạ trường minh tố/ Lệnh nhân chẩm vị an/ Tam canh thu ý khổ/ Lộ thấp thảo song hàn - Dưới trăng mãi kêu than/ Khiến người ngủ chẳng an/ Canh ba niềm thu thật thê lương/ Mù làm ướt cỏ bên song lạnh). Ngay cả khi Du ngoạn ở chùa Thiên Phúc trên núi Phật Tích, con người cũng gặp phải giấc mộng kinh hoàng giữa không gian tĩnh đến độ chỉ nghe tiếng lá cây rơi: 簷下枕石眠樹老秋陰簿無人夢忽驚空庭山葉落(Thiềm hạ chẩm thạch miên/ Thụ lão thu âm tỗn/ Vô nhân mộng hốt kinh/ Không đình sơn diệp lạc - Mái nhà thấp, gối đầu lên đá ngủ/ Cây già bóng thu mỏng manh/ Không người trong giấc mộng chợt giật mình hoảng sợ/ Sân vắng lá cây trên núi rơi)…

Tại sao ông bất an đến vậy? Phải chăng, trạng thái xúc cảm nảy sinh từ chiêm nghiệm thâm trầm về kiếp người (bài Đạo Thượng):

路遠無盡頭,

古今長歸去.

今人未肯休,

古人在何處.

(Lộ viễn vô tận đầu/ Cổ kim trường quy khứ/ Kim nhân vị khẳng hưu/ Cổ nhân tại hà xứ - Đường thẳm chốn vô tận (chẳng biết điểm bắt đầu và nơi kết thúc)/ Xưa nay (người ta) vẫn mãi trở về rồi ra đi/ Người nay chưa chịu dừng bước/ Người xưa ở chốn nào?). Bài thơ gợi nhớ nỗi cô đơn vượt không gian và thời gian của Trần Tử Ngang trong Đăng U Châu đài ca(Tiền bất kiến cổ nhân / Hậu bất kiến lai giả /Niệm thiên địa chi du du / Độc thương nhiên nhi thế hạ - Trước không thấy người xưa/ Sau chẳng thấy người sau/ Ngẫm trời đất thật vô cùng/ Một mình xót xa mà rơi lệ)(12). Khi nhận xét về thơ ca phương Đông, nhà văn hóa học Will Durant đã viết: “Thơ phải cho ta thấy cả bức tranh trong một vài nét, phải diễn tả một triết lí trong một vài hàng, một ý nghĩa sâu sắc trong một vài chữ… (Và mang những khoảng trống ngữ nghĩa) chỉ người phương Đông mới bổ sung được”(13)Hoàng Đức Lương đã gửi chiêm nghiệm trong bài thơ ngũ ngôn cổ thể vần trắc mang âm hưởng trầm mặc, trang nhã, cổ kính, kinh điển. Trong câu hỏi “người xưa bây giờ ở chốn nào?” ẩn chứa nỗi hoang mang, lo sợ, mất niềm tin, không phương hướng về con đường mình đã chọn và đang đi.

Vị quan triều Lê này từng đỗ Nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất (1478) dưới triều Lê Thánh Tông, được bổ chức quan đến Tham nghị. Năm 1489, ông được cử làm Phó sứ sang Trung Quốc giao thiệp với nhà Minh, trở về được thăng Tả Thị lang Bộ Hộ. Như vậy, ông từng đỗ đạt, làm quan, được trọng dụng. Nhưng ông quan niệm thế nào về đường công danh? Thi nhân nói rõ cảnh làm quan khiến ông không thể chủ động thực hiện sở nguyện của mình. Khi thăm chùa trên núi Kính Chủ (bài Du Kính Chỉ sơn tự), ông viết:

勝地遊雖遍,

關山合有詩.

官身無定跡,

未敢與僧期.

(Thắng địa du tuy biến/ Quan sơn hợp hữu thi/Quan thân vô định tích/Vị cảm dữ tăng kỳ - Cảnh đẹp rong chơi nhiều/ Về chốn quan san thấy ưa chuộng mà có thơ/Thân làm quan nên không ở nơi yên định/ Cho nên chẳng dám hẹn cùng sư). Thời đại cũng cho ta hiểu hơn về tâm sự này của ông. Có nhà nghiên cứu đã nhận định: “Hoàng Đức Lương hình như không gửi gắm trong thơ mình một ý tưởng gì cao xa, kể cả những bài thơ sứ trình. Có lẽ vì ông sống trong một giai đoạn thịnh trị và cuộc đời xung quanh đủ làm ông yên tâm với nó”(13). Năm sinh năm mất của Hoàng Đức Lương hiện vẫn chưa minh xác, nhưng chúng ta còn biết được một số mốc thời gian trong cuộc đời ông. Ông đỗ đạt năm 1478, đi sứ năm 1489, được thăng Tả nghị phu sau khi đi sứ về, hoàn thành bộ Trích Diễm thi tập năm 1497. Như vậy, ông làm quan vào lúc nhà nước phong kiến Lê Sơ đang trên đà suy thoái, biến loạn, sụp đổ. Càng về sau sự khủng hoảng càng lớn, đặc biệt sau khi Lê Thánh Tông mất năm 1497, Lê Uy Mục tàn bạo lên ngôi năm 1504. Trong hoàn cảnh này, người mang lòng yêu đời, đam mê sự sống bình yên tự tại giữa thiên nhiên bắt đầu cảm thấy chốn quan trường đầy gượng ép và bất lực trước thời cuộc. Thậm chí, ông còn nuối tiếc vì không “sớm biết công danh chẳng phải đất lành”. Tâm sự day dứt trong niềm cảm thương danh tướng vô địch thiên hạ được Hán Cao Tổ ca ngợi “nắm trong tay trăm vạn quân đã đánh là thắng". Hàn Tín từng giúp Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên cơ đồ nhà Hán, nhưng cuối cùng lại bị hãm hại thảm thương. Khi đi sứ qua miếu Hàn Tín, Hoàng Đức Lương xúc động (bài Đề Hoài Âm miếu):

項王不用寧非命,

漢祖施恩豈是心.

早識功名非善地,

只應垂釣老准陰.

(Hạng Vương bất dụng ninh phi mệnh/ Hán Tổ thi ân khởi thị tâm/ Tảo thức công danh, phi thiện địa/ Chỉ ưng thùy điếu lão Hoài Âm - Hạng Vương không dùng, đâu vì không mệnh/ Hán Cao Tổ thi ân, há phải là tâm/ Nếu sớm biết công danh chẳng phải là nơi đất lành/ Thì chỉ cần buông câu đến già ở đất Hoài Âm). Thi nhân tìm thấy sự đồng điệu trong cuộc đời vị anh hùng cái thế. Nhân vật Hàn Tín trực tiếp khơi dậy nguồn xúc cảm của tác giả, trở thành đối tượng để nhà thơ gửi gắm tình cảm, chiêm nghiệm, triết lý. Dù không trực tiếp bộc lộ cái tôi cá nhân nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra tâm sự và suy tưởng của nhà thơ ẩn chứa trong nhân vật trữ tình, bởi vì tự biểu hiện cái tôi tác giả thuộc giá trị tự thân của thơ ca.

Cuộc quan trường gò bó, chuyện công danh chẳng phải đất lành nên ông mang khát vọng trở về sống giữa thiên nhiên. Trong bài Lâm cư, thi nhân dùng từ “đam” (đam mê, say đắm, đắm chìm) và gọi sự ưa chuộng này là “tính tích” (tính đã thành cái tật cố hữu, không thể thay đổi):

性癖耽幽靜,

閑軒近薜蘿.

風波往來路,

晴卷綠陰多.

(Tính tích đam u tĩnh/ Nhàn hiên cận bệ la/ Phong ba vãng lai lộ/Tình quyển lục âm đa - Thói quen thành bản tính là ưa sự thâm u tĩnh mịch/ Hiên nhàn gần nơi đám cỏ bệ la/ Mưa gió trên con đường qua lại/ Trời tạnh thu gom hết gió mưa chỉ có bóng cây xanh). Tính ưa u tĩnh nên ông hướng đến cuộc sống nhàn dật. Bệ la tức bệ lệ và nhữ la, cây hoang dã thường bám vào vách núi, cây rừng, vách tường nhà. Trong Sơn quỷ thuộc Cửu ca của Sở từ có hình ảnh quỷ trong núi mặc áo bệ lệ trông như người. Vì vậy, từ bệ lệ cũng dùng để chỉ trang phục của cao sĩ hoặc người ở ẩn. Về sau, thơ ca còn dùng từ bệ la để chỉ chỗ ở của cao sĩ, người ở ẩn. Trong Hán ngữ có từ bệ la y (chỉ trang phục của người ở ẩn), bệ la tử (người ở ẩn)… Ở đây, Hoàng Đức Lương viết nhàn hiên cận bệ la, gần chốn ẩn dật mà chưa phải chốn ẩn dật. Nhưng khát vọng sống giữa núi rừng thiên nhiên của một đời người chẳng thể nguôi ngoai khi ông đã nhìn rõ nẻo thanh vân chẳng phải chỉ toàn mây xanh… Chẳng biết trong đời có chặng nào ông được thỏa nguyện hay không? Hy vọng là có bởi ông vẫn xem mình mang mối lương duyên tiền kiếp với thiên nhiên (bài Chu quá Cầu Quan giang)林壑前緣有青山認昔人此辰初識面他日已相親(Lâm hác tiền duyên hữu/ Thanh sơn nhận tích nhân/ Thử thìn sơ thức diện, Tha nhật dĩ tương thân - Thú lâm tuyền vốn là tiền duyên/ Núi xanh nhận rõ người xưa/ Lúc này bắt đầu biết mặt/Ngày khác đã trở thành người thân của nhau)…

Thi ca cho ta hiểu hơn về con người và tài năng Hoàng Đức Lương. Ông trân trọng, tin yêu cuộc sống nhưng đơn độc bởi không người tri kỉ giữa buổi suy vong của thời đại. Trái tim chất chứa ưu tư tìm về con đường nhiều nhà Nho đã chọn với khát vọng được tự do tự tại nơi sơn thủy điền viên. Nhà thơ đã gửi nhân sinh quan, tâm sự, hoài bão trong những bài thơ hàm súc, đúng như Lê Quý Đôn nhận định: 詞章清麗情景兼到 (Từ chương thanh lệ, tình cảnh kiêm đáo - Lời thơ trong sáng đẹp đẽ, cảnh và tình đều sâu sắc)!

 

Chú thích:

1. Lời đề tựa cho tập thơ được đưa vào giảng dạy ở chương trình Trung học phổ thông. Bài 21, sách Ngữ văn 10, tập 2, Nxb. Giáo dục, H. 2010.

1.Khi viết lời tựa cho Trích diễm thi tập, Hoàng Đức Lương đã viết: Ở cuối cùng các quyển ấy, mạn phép phụ thêm những bài vụng về do tôi làm cốt để làm sách dạy trong gia đình.

2.Tham khảo bài Tổng quan thực trạng văn bản và hướng nghiên cứu hệ thống thi tuyển chữ Hán Việt Nam trên trang web: nguvan.hnue.vn

3.Bài thơ nhan đề Đông hứng (dưới chữ Đông hứng có hai chữ nhỏ hơn ghi Trần sự, hai chữ đầu tiên của bài Đông hứng) nhưng văn bản thuộc bài Tự trào.

4.Hoàng Việt thi tuyển có tên lúc đầu là Thi saohay Hoàng Việt thi sao, được làm xong vào mùa thu năm Mậu Thân (1788) dưới triều Lê Chiêu Thống. Năm 1825 dưới triều Minh Mạng, học trò Bùi Huy Bích là Phạm Hy Văn đem khắc in, mới lấy tên là Hoàng Việt thi tuyển. Theo bài tựa và bài tiểu dẫn in trong sách, thì đây là một tuyển tập thơ chữ Hán của các thi gia Việt Nam từ đời Trần đến cuối đời  (từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII) do Bùi Huy Bích tuyển chọn trong các tập thơ cổ, trong đó có sách Việt âm thi tập của Phan Phu TiênThi gia tinh tuyển của Dương Đức NhanTrích diễm thi tập của Hoàng Đức LươngToàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn. Ngoài ra, trong sách còn có phụ thêm thơ riêng của người biên tập là Bùi Huy Bích.

5.Bài viết được in trong cuốn Nghiên cứu thi tuyển chữ Hán Việt NamNxb. Đại học Sư phạm, H. 2013, tr.299-322.

6.Nguyên văn là: - Cổ nhân ư thi hữu dĩ khoái chá dụ chi, hữu dĩ cẩm tú dụ chi. Khoái chá thiên hạ chi tuyệt vị, cẩm tú thiên hạ chi tuyệt sắc. Phàm hữu khẩu nhãn giả giai tri quý trọng, bất khinh tiết việt. Chí như thi giả, nãi sắc ngoại chi sắc, bất khả dĩ thường mục thị, vị ngoại chi vị bất khả dĩ thường khẩu thường. Duy thi nhân vi năng đổ nhi cam chi.

7.Phan Ngọc: “Thử tìm hiểu tứ thơ Đường”, Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt thời Đường, Nxb. Văn học, H. 2007, tr.328.

8.Khâu Chấn ThanhLí luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc(Mai Xuân Hải dịch), NxbVăn học, H. 2001, tr.258.

9.Nguyên văn: 兮,歸!役, , 

10.Nguyên văn: 來、半然、飲

11.Nguyên văn: 人,後悠,獨

12.Will Durant: Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1990, tr.160.

13.Nhiều tác giả: Từ điển văn học bộ mới, Nxb. Thế giới, H. 2004, tr.614.

Tư liệu tham khảo chính

1. , kí hiệu VHv.2573, VNCHN

2. , kí hiệu A.3200, A.132, A.1262, VNCHN.

3. , kí hiệu VHv.1477, VHv.1451, A.2857, A.608, VHc.1103, VHc.1104, VNCHN.

4. kí hiệu A.2171; kí hiệu VHv.2392, VNCHN.

5. 1994.

6. Nguyễn Huệ Chi: Tìm hiểu Trích diễm thi tập bộ sách kết thúc cho một giai đoạn nghiên cứu, sưu tập thơ văn Lý - TrầnTạp chí Văn học, 1972, số 4, tr.122-136.

7. Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Nxb. KHXH, H. 1990.

8. Lại Văn Hùng: Hoàng Đức Lương - Quan niệm thi học, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, năm 2007, số 4, tr.51-61.

9. Hà Minh - Nguyễn Thanh Tùng: Tổng quan thực trạng văn bản và hướng nghiên cứu hệ thống thi tuyển chữ Hán Việt Nam trên trang web: nguvan.hnue.vn./.

(Tạp chí Hán Nôm, số 5 (120); tr. 36-47