Kiến thiện như bất cập
見善如不及。
Từ mới. 木本末未見(见)看示羊祥舌言善女如不否丕乃奶及
mộc 木 /mù/ = cây. Bộ thủ. 4n. Vẽ hình một cái cây.
Chữ Hán tạo thành bằng cách vẽ hình đối tượng muốn nói tới gọi là “chữ tượng hình” (TH).
Ban đầu hình chữ rất giống hình một cái cây có đủ thân, rễ, cành. Theo thời gian, hình chữ được giản hóa, cách điệu, cuối cùng thành kí tự như ngày nay, hình cái cây đã rất khó nhìn ra.bản 本 /bĕn/ = gốc cây. Bộ木 mộc. Vẽ hình cây (木) rồi đánh dấu phần dưới bằng một nét ngang nhỏ, chỉ đối tượng muốn nói. Nghĩa gốc: phần dưới của cây, gốc cây.
Chữ Hán tạo thành bằng cách vẽ hình chỉ ra sự việc muốn nói gọi là “chữ chỉ sự” (CS).mạt 末 /mò/ = ngọn, phần đầu/đuôi của sự vật. Bộ 木 mộc. CS. Đánh dấu phần ngọn cây, ngược với 本. Nghĩa gốc: ngọn cây.
vị 未 /wèi/ = chưa. Bộ 木 mộc. CS. Ban đầu hình chữ gần giống chữ mộc 木, là hình vẽ gồm một thân cây, dưới có rễ, trên có cành. Chỉ khác là cái cành được vẽ cong lên. Về sau mới vẽ thêm một nét ngang nhỏ phía trên, biểu thị cây chưa mọc thêm cành, hoặc mới nhú mầm, chưa thành cành. Khái quát thành nghĩa “chưa”. (#1)
#2. Người xưa dùng hệ thống can- chi (can: giáp, ất .. ; chi: tí, sửu, dần ..) để ghi thời gian. Người ta không đặt chữ riêng cho chúng, mà mượn một chữ có sẵn, có âm đọc giống hoặc gần giống, để biểu thị. Chi thứ tám đọc là mùi có bính âm /wèi/ giống với chữ vị vị 未 (chưa), nên đã được mượn để đặt tên cho chi này.
Mượn một chữ đồng âm để dùng theo nghĩa mới gọi là phép giả tá. Nghĩa mới không liên quan gì với nghĩa cũ.
Phân biệt. Mạt 末 (ngọn cây), vị 未 (chưa).kiến 見 (见) /jiàn/ = thấy. Bộ thủ. 7n. Chữ gồm hai bộ phận: 儿 (một dạng khác của chữ nhân 人: người) +目 (mục: mắt): hình người với con mắt. Suy ra nghĩa của chữ này là thấy. (#1)
Chữ được cấu tạo như trên đây được gọi là chữ hội ý.
Chữ Hán được tạo thành do hai (hay nhiều) bộ phận ghép lại, nghĩa của chữ mới suy ra từ nghĩa các bộ phận ấy, gọi là chữ hội ý (viết tắt: HY).
#2. Thấy thì sự vật hiện ra, tỏ rõ. Nên 見 cũng được dùng với nghĩa hiện ra, tỏ lộ. Nhưng khi dùng với nghĩa này, 見 được đọc là hiện /xiàn/.
Mượn một chữ sẵn có, đọc trại đi chút ít (có khi kèm theo thay đổi tự dạng), rồi dùng với nghĩa mới (nghĩa này có liên quan đến nghĩa cũ) gọi là phép chuyển chú. Trong phép chuyển chú, nghĩa chuyển chú và nghĩa gốc có liên quan với nhau (khác với phép giả tá)khán 看 /kàn/ = xem, ngắm, thăm hỏi. Bộ 目 mục. HY. Lấy tay (thủ 手) che trên mắt (目) để nhìn được xa. Nghĩa gốc: nhìn xa.
kì 示 /qī/ = thần đất. Bộ thủ. 5n. BT: 礻. TH. Hình cái bàn có ba chân, trên bày đồ cúng. Nghĩa gốc là cái bàn thờ, mở rộng chỉ thần linh, đặc biệt là thần đất, một vị thần gần gũi, quan trọng đối với người cổ đại. (#1)
#2. Âm thị /shì/. Cúng tế thần linh để bày tỏ nguyện vọng, và mong thần linh báo cho biết điềm tốt xấu. Nghĩa được mở rộng thành bày tỏ, báo cho biết. Và 示 được chuyển chú đọc là thị /shì/ để chỉ nghĩa này.
Về sau, 示 chủ yếu được dùng với nghĩa chuyển chú này. Còn kì 示 chỉ còn dùng làm bộ thủ. Nghĩa "thần đất" cũng đặt chữ mới.dương 羊 /yáng/ = dê, cừu. Bộ thủ. 6n. TH. Vẽ hình đầu dê với hai cái sừng rất đặc trưng để biểu thị con dê. Nghĩa gốc: con dê, cừu. (#1)
#2. Thịt dê/cừu vốn thơm ngon, thường được dùng làm lễ vật để cúng tế, mong mang lại điềm lành. Vì thế, 羊 có nghĩa mở rộng là tốt lành, điềm lành. Khi dùng với nghĩa này, 羊 được chuyển chú, đọc là tường.
Về sau, người ta đặt chữ mới riêng cho nghĩa này, cũng đọc là tường: 祥tường 祥 /xiáng/ = điềm lành. Bộ示 kì. Như trên đã nói, ban đầu người ta dùng chữ dương 羊 (dê), chuyển chú đọc tường để dùng với nghĩa "tốt lành, điềm lành". Về sau, người ta thêm 示 tạo thành chữ mới để chuyên dùng cho nghĩa chuyển chú này. Người xưa tin rằng điềm lành là do thần linh ban cho, nên dùng 示 để biểu thị ý này. Còn 羊 (chữ gốc) được dùng như yếu tố chỉ âm đọc.
Chữ Hán được tạo thành do hai (hay nhiều) bộ kiện (thành phần) ghép lại, trong đó một bộ kiện chỉ âm đọc, phần còn lại chỉ nghĩa, gọi là chữ hình thanh (HT). Bộ kiện chỉ âm đọc gọi là thanh bàng (âm phù), phần chỉ ý nghĩa gọi là hình bàng (nghĩa phù).thiệt 舌 /shé/ = cái lưỡi. Bộ thủ. 6n. TH. Hình cái lưỡi (kí hiệu hóa thành 千) thè ra ngoài cái miệng 口. Nghĩa gốc: cái lưỡi.
口舌 miệng và lưỡi; tài ăn nói; cãi cọ. 舌人 chỉ người thông ngôn.ngôn 言 /yán/ = nói, lời nói. Bộ thủ. 7n. Hình thức ban đầu của chữ này giống hình cái miệng 口 + cái lưỡi thè ra, trên có đánh dấu gạch nhỏ, là kí hiệu chỉ sự, chỉ âm thanh phát ra từ lưỡi (chứ không phải bản thân cái lưỡi như ở chữ thiệt 舌). Nghĩa gốc: âm thanh, nói năng. Về sau 言 chỉ dùng với nghĩa “nói, lời nói”. Nghĩa “âm thanh” được đặt chữ mới để phân biệt.
thiện 善 /shàn/ = tốt, việc tốt. Bộ 口 khẩu. HY. Xưa viết 譱. Tường 羊 (tốt lành) + ngôn 言 (lời nói). Nghĩa gốc: tốt lành.
nữ 女 /nǚ/ = con gái, phái nữ. Bộ thủ. 3n. TH cô gái quỳ. Nghĩa gốc: con gái.
#2. Chuyển chú, đọc nứ /nǜ/, dùng làm động từ, có nghĩa là “gả con gái”.
#3. Giả tá , đọc là nhữ /rǔ/, dùng làm đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (mày, ngươi)
Chú: (#1) mặc định chỉ nghĩa gốc, từ nay sẽ không ghi ra.như 如 /rú/ = giống như, tựa như. Bộ 女 nữ. HY. Khẩu 口 (cái miệng) hàm ý bảo ban + nữ女 (hình cô gái quỳ) hàm ý nhu thuận, vâng lời. Kết hợp lại, cho nghĩa gốc là làm theo, y theo. 如 thường được dùng với nghĩa mở rộng “giống như, tựa như”, để so sánh. Trong Hán cổ, như 如 thường được dùng làm động từ, trong Hán kim như thường dùng làm giới từ để giới thiệu một tân ngữ.
bất 不 /bù/ = không. Bộ 一 nhất. 4n. TH. Chữ này có khá nhiều thuyết về cấu tạo. Giả thuyết được chấp nhận nhiều nhất (vì có chứng cứ trong cổ văn) là thuyết cho rằng hình chữ ban đâu phía trên giống bầu nhụy của đài hoa, phía dưới giống hình nhụy hoa rủ xuống. Nghĩa gốc là đế của đài hoa. (#1)
#2. Về sau 不 được mượn (giả tá) làm phó từ, đặt trước động từ, tính từ, hoặc một số ít phó từ để biểu thị ý phủ định (không) hoặc làm trợ từ đặt ở cuối câu biểu thị nghi vấn ( .. không? … chăng?).
- 2.a Khi làm phó từ, 不 tiếp tục đọc là bất /bù/.
- 2b. Khi làm trợ từ ở cuối câu, 不 được đọc là phủ /fǒu/.
Về sau đặt chữ mới riêng cho nghĩa này: phủ 否 /fǒu/.
Sự thay đổi âm đọc có thể do sự phân hóa chức năng ngữ pháp và biến âm theo vị trí/nhấn âm.
#3. 不 còn được mượn (giả tá) để dùng với nghĩa "to lớn", và đọc là phi /pī/.
Về sau nghĩa này được tách riêng bằng chữ phi 丕phủ 否 /fǒu/ = không. Bộ口 khẩu. HY+HT. 口 nói 不 không. 不 vốn là chữ gốc, cũng được dùng làm thanh bàng. Nghĩa gốc: không, không phải vậy, không đúng như thế. 否,不也。(Thuyết văn)
否 thường được dùng làm phó từ, có nghĩa là không, thường dùng trong các từ ghép hay văn ngôn. Như phủ nhận, phủ quyết, phủ định.
否 cũng được dùng làm trợ từ đặt cuối câu để tạo thành câu hỏi có-không.
#2. 否 còn được mượn (giả tá) đặt tên cho một quẻ trong Kinh Dịch, khi đó đọc là bỉ /pǐ/. Quẻ này chỉ trời đất không giao hòa, vạn vật không thông suốt, từ đó phái sinh thêm nghĩa “xấu”. Như 否女 cô gái xấu xa.phi 丕 /pī/ = lớn lao. Bộ 一 nhất. HT, T: bất 不 (không).
不 vốn là chữ ban đầu được mượn (giả tá) dùng với nghĩa này. Sau đó người ta mới đặt 丕 để chuyên biệt hóa nghĩa.nãi 乃 /năi/ = rồi thì, mới, lại là; bèn, là. Bộ 丿 phiệt. 2n. TH. Hình thức ban đầu là 𠄎. Có khá nhiều giả thuyết về chữ tượng hình này. Một số nhà nghiên cứu cho là hình sợi dây, một số khác thì cho là hình bộ ngực phụ nữ nhìn nghiêng, gốc của chữ 奶 (nãi - vú, sữa) v.v. Dù thuyết nào thì nghĩa gốc hiện cũng bị mất, nó đã bị mượn (giả tá) thường được dùng làm phó từ (rồi thì, lại là ..), hoặc làm đại từ ngôi hai (anh, mày; của anh, của mày). Trong văn ngôn, 乃 còn được dùng làm hệ từ, có nghĩa "là".
nãi 奶 /năi/ = vú, mẹ, sữa. Bộ 女 nữ. HT, T: nãi 乃 (theo một số nhà nghiên cứ, vốn là chữ gốc). Nghĩa gốc: vú
Chú. HT, T: x = Chữ hình thanh, thanh phù là: x. Hình bàng mặc định là phần còn lại.cập 及 /jí/ = đến, kịp, bằng. Bộ 又 hựu. HY. Hình chữ ban đầu vẽ một người phía sau dùng tay (又) nắm lấy người (人) phía trước, biểu thị ý đuổi kịp. Nghĩa gốc: đuổi kịp, chạm tới.
Ví dụ. 不及 không bằng, không kịp. 不及人 chẳng bằng người.
Chú giải.
見善如不及。Kiến thiện như bất cập
Từ ngữ
見 [động từ]: thấy
善 [danh từ]: việc tốt, người tốt. Ở đây, là tân ngữ của động từ kiến 見.
如 [động từ]: như, bằng
不 [phó từ]: không. Làm trạng ngữ phủ định của động từ cập 及.
及 [động từ]: kịp.
Nghĩa: Thấy người thiện như theo chẳng kịp.
“Như theo chẳng kịp” nên phải cố gắng sửa mình, tích cực làm việc cho bằng người.
Câu trích trong sách Luận ngữ.
Nguyên đoạn: Tử viết: Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện như thám thang. Ngô kiến kì nhân hĩ, ngô văn kì ngữ hĩ. Ẩn cư dĩ cầu kì chí, hành nghĩa dĩ đạt kì đạo. Ngô văn kì ngữ hĩ, vị kiến kì nhân dã. (Quý Thị. XVI.11). Khổng Tử nói: Nhìn thấy người thiện như theo chẳng kịp, thấy kẻ bất thiện thì như lấy tay thử nước sôi. Ta đã nhìn thấy người như vậy, nghe người xưa nói như thế. Đi ở ẩn để giữ trọn cái chí của mình, làm việc nghĩa để đạt được cái đạo của mình. Ta đã nghe người xưa nói vậy nhưng chưa thấy người nào như vậy.
Luận ngữ là một trong bốn sách quan trọng (Tứ thư) của nhà Nho, do học trò và môn sinh đời sau của Khổng Tử sưu tập và biên soạn lại những cuộc vấn đáp của ông với học trò.
(Tử trong Khổng Tử có nghĩa là “thầy”, không phải tên riêng. Tuy nhiên theo tập quán, người ta vẫn viết hoa để tôn kính).
Giản thể. 见善如不及。
Ghi chú ngữ pháp
Trong Hán văn, các từ được chia làm hai loại lớn: thực từ và hư từ, mỗi loại có 6 loại nhỏ
Thực từ và hư từ. 12 loại từ tiếng Hán
Thực từ: Từ có ý nghĩa cụ thể, đảm nhiệm chức năng ngữ pháp chính trong câu. Gồm 6 loại chính:
Danh từ (viết tắt: d). Ví dụ: 木 , 子, 人心
Đại từ [đt]: 女, 子, 乃
Số từ [số]. 一, 二, 三
Lượng từ [lg]. 隻 chiếc, 本 bản (quyển sách)
Động từ [đ]. 見, 及, 乃.
Tính từ [t]. 子 tử (nhỏ, non), 木 mộc (chất phác)
Hư từ: Từ không có ý nghĩa cụ thể, chủ yếu dùng để biểu thị quan hệ ngữ pháp, liên kết hoặc nhấn mạnh. Gồm 6 loại:
Phó từ [phó]. Bổ nghĩa cho động từ/tính từ/phó từ khác, biểu thị mức độ, thời gian, nơi chốn, tần suất, cách thức, phạm vi, tình thái (khẳng định/phủ định). Làm trạng ngữ/bổ ngữ. Ví dụ. 不 bất: không, 未 vị (chưa). 又 hựu (lại nữa)
Giới từ [giới]. Giới từ là những từ kết hợp với danh từ, đại từ, hoặc cụm danh từ để tạo thành cụm giới-tân, nhằm biểu thị rõ phương hướng, đối tượng, thời gian, nơi chốn, căn cứ, nguyên nhân, mục đích... liên quan đến hành vi hay động tác.Ví dụ. 如 như: giới từ so sánh bằng.
Liên từ [liên]. Liên từ là những từ hoặc cụm từ dùng để nối các từ, cụm từ, hoặc các phân câu trong một câu phức. Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự liên kết logic và mạch lạc cho câu văn. Ví dụ. 乃 nãi (nếu, mà). 又 .. 又 vừa .. vừa ..
Trợ từ [trợ]. Trợ từ là những từ không có ý nghĩa từ vựng độc lập mà chỉ có tác dụng ngữ pháp, thường dùng để biểu thị các quan hệ ngữ pháp, ngữ khí, hoặc trạng thái của động tác. 末, 不 (trợ từ nghi vấn), 了 đứng cuối câu, chỉ sự kết thúc
Thán từ [thán].
Từ tượng thanh [t. thanh]
Trong Hán văn, sự biến đổi từ loại là khá phổ biến: danh từ có thể dùng làm động từ, và ngược lại, v.v. như có thể thấy trong các ví dụ trên. Do là ngôn ngữ không biến hình, nên việc nhận dạng từ loại của từ phải dựa vào chức năng của nó trong câu.
Chú thích: Ý nghĩa các thuật ngữ như "danh từ", "tính từ", v.v. về cơ bản không khác với tiếng Việt, tuy nhiên cách dùng trong tiếng Hán có nhiều điểm khác biệt — ta sẽ tìm hiểu dần sau.
Lục thư.
Từ thủa ban sơ nhiều dân tộc đã biết lưu, truyền thông tin bằng hình vẽ. Khi xã hội phát triển hơn, những thông tin cần lưu truyền phức tạp, việc dùng hình vẽ để biểu đạt khó khăn, hầu hết các dân tộc chuyển qua dùng chữ biểu âm. Riêng người Tàu vẫn tiếp tục dùng hình vẽ để biểu đạt ý muốn nói, bằng cách vẽ hình, ghép hình và mượn hình. Dựa trên ba phương pháp này, họ có 6 cách tạo chữ, gọi là lục thư.
1. Tượng hình (TH): Tượng, là phỏng theo, bắt chước. Tượng hình (TH) là vẽ hình dạng hoặc bộ phận đặc trưng của vật muốn nói đến. Ví dụ khẩu 口 là hình cái miệng, mục 目 là hình con mắt, dương là hình cái đầu dê 羊 .. Lúc ban đầu, chữ TH vẽ khá giống vật muốn nói đến. Về sau, hình chữ thay đổi theo hướng cách điệu, kí hiệu hóa, nên thường khó nhận ra vật gốc. Vì thế thuật ngữ “tượng hình” ngày nay chỉ mang tính lịch sử.
2. Chỉ sự (CS): Vẽ hình chỉ ra sự việc muốn nói. Ví dụ: bản 本: đánh dấu vào phía dưới hình cây 木 để chỉ gốc, mạt 末: đánh dấu phía trên hình cây để chỉ ngọn, nhất 一 : vẽ một gạch ngang chỉ một, nhị 二 : vẽ hai gạch ngang chỉ hai.
Để biểu đạt những khái niệm trừu tượng, người ta vẽ hình, hoặc đánh dấu trên một hình kí hiệu có tính cách gợi ý để người đọc "nhìn vào mà biết được, xét mà rõ ý" (Hứa Thận).
3. Hội ý (HY): Ghép hai hay nhiều chữ/kí tự đã có (gọi chung là các bộ kiện) thành chữ mới. Nghĩa của chữ mới được suy từ nghĩa của các bộ kiện thành phần. Ví dụ: chích 隻 là hình bàn tay 又 cầm một con chim 隹 → hội ý: một con chim, nghĩa suy rộng: một con, một chiếc, một mình, đơn lẻ, riêng biệt ... Song 雙 là hình tay 又 cầm hai con chim 隹隹 → hội ý: hai con chim. Nghĩa rộng: đôi, cặp, ngang hàng, tương đương, chẵn ..
4. Hình thanh (HT): Ghép hai hay nhiều bộ kiện đã có thành chữ mới, trong đó một bộ phận chỉ cách đọc, gọi là thanh bàng (hoặc âm phù, thanh phù). Bộ phận còn lại chỉ nghĩa, gọi là hình bàng (hoặc nghĩa bàng, nghĩa phù). Ví dụ: nãi 奶 (bà) = 女 là hình bàng + nãi 乃 là thanh bàng
5. Giả tá: Để biểu thị ý "lại, một lần nữa" người ta nói "hựu" /yòu/. Chưa có chữ nào để biểu thị ý này. Nhưng thay vì đặt chữ mới, người ta mượn một chữ có sẵn có âm đọc tương tự là 又 để dùng. Cách dùng chữ như thế gọi là phép giả tá.
Giả tá là mượn chữ này để ghi lại chữ kia trên cơ sở đồng âm.
Trong phép giả tá, nghĩa mới và nghĩa cũ không có quan hệ gì. Và thường thì sau một thời gian một trong hai nghĩa sẽ chiếm ưu thế, nghĩa còn lại mất đi, hoặc đặt chữ mới. Ví dụ trường hợp chữ 又, nghĩa gốc (bàn tay phải) bị mất đi.
Một ví dụ khác. Để biểu thị ý phủ định "không", người ta nói "bất" /bù/. Ý này chưa có chữ, người ta mượn một chữ cùng âm là 不 (nghĩa gốc: phần dưới của đài hoa).
Để biểu thị ý "to lớn", người ta nói "phi" /pī/. Âm này xưa khá gần với âm /bù/ của chữ 不 (nghĩa gốc: phần dưới của đài hoa) nên người ta cũng mượn chữ 不 để dùng.
Vậy là 不 được mượn hai lần: một, cho nghĩa phủ định "không", một cho nghĩa "to lớn".
Về sau, nghĩa "không" được dùng nhiều hơn, thắng thế, nên chiếm 不 làm của riêng. Nghĩa "to lớn" phải đặt chữ mới là 丕 để dùng cho khỏi lộn xộn.
6. Chuyển chú: Mượn một chữ sẵn có, dùng với nghĩa mới, thường kèm theo thay đổi âm, hoặc hình thể, và nghĩa mới có liên quan đến nghĩa gốc (khác với giả tá, trong đó nghĩa mới không liên quan đến nghĩa gốc). Ví dụ: Ví dụ nữ 女 /nǚ/ = con gái. Chuyển chú, đọc nứ /nǜ/, dùng làm động từ, có nghĩa là “gả con gái”. Lại giả tá , đọc là nhữ /rǔ/, dùng làm đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (mày, ngươi).
Thực chất của chuyển chú là hiện tượng chuyển loại từ hoặc phái sinh nghĩa từ một từ gốc. Phân biệt với giả tá là, trong phép giả tá, nghĩa gốc và nghĩa mới hoàn toàn không liên quan gì.
Phân tích kết cấu chữ Hán được chú ý từ rất sớm, thuật ngữ "lục thư" đã được dùng trong sách Chu Lễ. Nhưng phải đợi đến Hứa Thận (khoảng năm 58 – 148 dương lịch), với tác phẩm “Thuyết văn giải tự”, lục thư mới được định nghĩa tường minh. Ngày nay, cơ bản, người ta dùng lại định nghĩa của Hứa Thận. Riêng hai loại chữ chuyển chú và giả tá thực chất không phải là tạo chữ mới, mà chỉ là cách mượn chữ có sẵn rồi dùng với nghĩa khác, tức, chỉ là một cách dùng chữ, không phải tạo chữ.
Mặc dù đã có định nghĩa tương đối rõ ràng, nhưng trên thực tế, xét xếp một chữ cụ thể vào loại chữ gì không phải lúc nào cũng có sự nhất trí giữa các nhà nghiên cứu.
Ngày nay, các từ điển lớn đã thu thập được hơn 60 ngàn chữ Hán, trong đó có khoảng 2 ngàn chữ tượng hình, chiếm chừng 3%. Chữ hình thanh nhiều nhất, chiếm hơn 80%.
Tìm hiểu cấu tạo của chữ không những giúp người học hiểu sâu hơn ý nghĩa của nó, mà còn có thể giúp nhớ mặt chữ dễ hơn. Sau đây, trong phần học chữ mới, mỗi chữ đều được chỉ ra cách cấu tạo.
Tượng hình, chỉ sự, giả tá, chuyển chú hay nghĩa diễn sinh?
Mặc dù đã có định nghĩa tương đối rõ ràng, nhưng trên thực tế, việc xét xếp một chữ cụ thể vào loại chữ gì không phải lúc nào cũng có sự nhất trí giữa các nhà nghiên cứu. Ví dụ
Chữ nhị 二 số từ, có nghĩa “hai”
Thuyết văn giải tự cho rằng đây là chữ hội ý: 1 + 1 = 2. (二,地之数也。从耦一,会意。Nhị, là số của đất. gồm hai chữ nhất, hội ý.
Tuy nhiên ngày nay nhiều nhà nghiên cứu xếp 二 vào loại chữ chỉ sự, giống như 一, 三: Gạch một nét ngang, chỉ một, gạch hai nét chỉ hai ..
Chữ nãi 乃
Hình thức ban đầu của 乃 là 𠄎. Có khá nhiều giả thuyết về chữ tượng hình này. Một số nhà nghiên cứu cho là hình bộ ngực phụ nữ nhìn nghiêng, gốc của chữ 奶 (nãi - vú, sữa). Người thì cho là hình sợi dây, gốc của chữ 繩 (thằng - dây thừng). người lại cho là hình một sợi dây được ném lên không, gốc của chữ 扔 (nhưng - ném) v.v. Dù thuyết nào thì nghĩa gốc hiện cũng bị mất, nó đã bị mượn (giả tá) dùng làm đại từ nhân xưng ngôi hai, sau đó mở rộng dùng làm phó từ, hệ từ.
Chữ vị 未 phó từ phủ định, có nghĩa là chưa, chưa từng.
Theo Thuyết văn, 未 thuộc loại chữ tượng hình, tự dạng ban đầu mô phỏng một cây cành lá sum suê. Cây phát triển tươi tốt nên có "mùi vị". Tháng sáu (âm lịch) cây cối sum suê, nên tháng sáu cũng được gọi là tháng vị. Nghĩa gốc của 未 là mùi vị. Nghĩa khác là tên tháng sáu. (Thuyết văn: 味也。六月,滋味也。五行,木老於未。象木重枝葉也。)
Thuyết văn không nhắc đến nghĩa "chưa" của chữ 未. Có nhiều giả thuyết về nghĩa này
Thuyết diễn sinh. Hình chữ mô phỏng một cây cành lá sum suê nhưng chưa kết quả. Nghĩa khái quát là "chưa".
Thuyết giả tá. Nhiều tác giả cho nghĩa gốc của vị 未 là “cây có cành lá sum suê”, được mượn (giả tá) làm tên địa chi và phó từ phủ định. (象形。甲骨文形似枝葉重疊,本義為樹木枝葉繁盛,後來假借為地支和否定副詞。)
Thuyết chỉ sự. Nếu xem xét kĩ, hình chữ ban đầu (giáp cốt văn) của 未 gần giống chữ mộc 木, là hình vẽ gồm một thân cây, dưới có rễ, trên có cành. Chỉ khác là hình cành cây được vẽ cong lên. Về sau thì thêm nét ngang nhỏ trên chữ mộc. Đây là một kí hiệu chỉ sự, biểu thị đây không phải là cành như trong chữ mạt 末, mà là chỉ cây chưa mọc thêm cành, hoặc mới nhú mầm, chưa thành cành. Khái quát thành nghĩa “chưa”. Đây là chữ chỉ sự. Sau đó còn được mượn (giả tá) làm tên địa chi thứ tám
Thuyết chuyển chú. Người ta đã phục nguyên được âm Hán cổ (OC) của 未 đọc là /mɯds/, còn OC của 末 là /maːd/. Hai âm này khá gần nhau, nên có giả thuyết cho rằng 未 là chuyển chú của 末.
Chữ 不, phó từ phủ định
Thuyết văn cho rằng đây là chữ tượng hình. Nét ngang trên tượng trưng bầu trời, dưới là hình con chim bay lên không xuống. (鳥飛上翔不下來也。从一,一猶天也。象形。) Như vậy, theo Thuyết văn, nghĩa phủ định "không, chẳng" là suy diễn trực tiếp từ tự hình
Một số nhà nghiên cứu thì cho 不 vốn là hình mầm cây mới ra rễ, còn nằm dưới mặt đất (kí hiệu bằng gạch ngang 一), nghĩa gốc là mầm cây. Nghĩa gốc được khái quát hóa: "mầm cây" → "cành chưa hiện hữu" → "không có" → phủ định: không. Ngày nay chỉ dùng nghĩa suy rộng này, nghĩa gốc bị mất hẳn.
Lại có thuyết cho rằng 不 vốn là tượng hình, trên là hình bầu noãn, dưới như nhị hoa rủ xuống. Nghĩa gốc là cái đế của đài hoa, được mượn (giả tá) làm phó từ phủ định, có nghĩa là "không" (象形。甲骨文字形,上面象花蒂的子房,下面象花蕊下垂形。). Thuyết này được nhiều người ủng hộ, vì trong Kinh Thi có câu thơ dùng với nghĩa “đế của đài hoa” này
Vài ví dụ trên cho thấy nhiều chữ Hán có thể được giải thích theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận, các chứng cứ có được trong tay. Ranh giới giữa các phương pháp trong lục thư không phải lúc nào cũng rõ ràng, và nhiều chữ Hán có thể được hình thành bởi sự kết hợp của nhiều phương pháp khác nhau.
Tự dạng ban đầu của ba chữ mộc 木, mạt 末 và vị 未