Vạn sự khởi đầu nan
萬事起頭難。
Từ mới. 屮艸萬(万)毛竹筆(笔)史吏使事走己已巳起豆頁(页)頭(头)難(难)
triệt 屮 /chè/ Bộ thủ. 3n. TH. Nghĩa gốc: cây cỏ mới mọc.
thảo 艸 /căo/ Bộ thủ. 6n. HY hai chữ 屮 triệt, chỉ cây cỏ nói chung.
Khi làm bộ kiện tham gia tạo chữ, 艸 thường viết dưới dạng 艹 hoặc ++.
Chú. 艸 nay chỉ còn là bộ kiện, chữ thảo (cỏ) được đặt mới.
vạn 萬 (万) /wàn/ = một vạn. Bộ 艸 thảo. TH. Nghĩa gốc là con bọ cạp, mượn (giả tá) chỉ số mười ngàn.
一萬 một vạn. 萬一 một phần vạn; chỉ sự việc khó xảy ra.
duật 聿 /yù/ Bộ thủ.
TH. Hình bàn tay cầm bút. Nghĩa gốc: bút (Từ đời Tần về sau dùng chữ 筆).
mao 毛 /máo/ = lông, tóc, lông mày, lông thú. Bộ thủ. 4n. TH. Nghĩa gốc: lông, tóc.
trúc 竹 /zhú/ = tre, trúc. Bộ thủ. BT: 𥫗.TH
hình hai lá tre. Nghĩa gốc: tre.
bút 筆 (笔) /bǐ/ = bút viết, nét chữ Hán. Bộ 竹 trúc. HY. Duật 聿 (vốn là chữ gốc) + trúc (cán bút làm bằng tre). Giản thể thay chữ duật bằng chữ mao 毛 lông: xưa người ta dùng lông vũ của chim làm ngòi bút.
sử 史 /shĭ/ = sử sách, chức quan, Bộ 口 khẩu. HY.
Hình tay 又 cầm 中 được cho là một dụng cụ để bói toán, hoặc một cây bút. Nghĩa gốc là sử quan, người trông coi việc bói toán thời xưa. Mở rộng chỉ các chức quan như ngự sử là viên quan chuyên về việc xét hặc tội các quan và can ngăn vua; thứ sử là viên quan làm giám sát một địa phương.
lại 吏 /lì/ = quan chức nhỏ. Bộ 口 khẩu. HY. Ban đầu, 吏 và 史 là một chữ, về sau thêm nét ngang để phân biệt. Nghĩa gốc: quan chức, người cai trị dân chúng.
Mẹo nhớ: Lại 吏 = tay 又 cầm roi 一 , miệng 口 ra lệnh.
sử 使 /shĭ/ = sai khiến. Bộ 人 nhân. HT, T: lại 吏. HY: Người 亻 làm quan 吏 → được sai khiến người khác. Nghĩa gốc: sai khiến, ra lệnh.
#2. âm sứ = đi sứ; sứ giả.
sự 事 /shì/ = việc, công việc, chức vụ; làm việc, thờ phụng. Bộ quyết 亅 (nét sổ có móc). HY. sử 史 (người ghi chép) + duật 聿 (cây bút - ghi chép): sự việc được ghi chép. Nghĩa gốc: sự vụ, chức vụ.
Chú. Giáp cốt văn, bốn chữ 史, 吏, 使, và 事 vốn là một, về sau người ta thêm vào các bộ kiện vào chữ gốc 史tạo các chữ mới để chuyên biệt hóa nghĩa.
+ 史 (sử): Là người ghi chép sự việc, tạo nên sử sách. Đây là khái niệm nền tảng.
+ 吏 (lại): Thêm nét ngang vào chữ gốc 史, biểu thị cây roi quyền lực, trở thành quan lại - người cai trị dân.
+ 使 (sử): Thêm bộ kiện nhân (亻) vào "quan lại" (吏), nhấn mạnh người làm quan thì có thể sai khiến ra lệnh dân chúng.
+ 事 (sự): Thêm bộ kiện 聿 (bút) hoặc 又 (tức kí hiệu 彐: tay cầm); là sự việc, nội dung ghi chép.
tẩu 走 /zǒu/ = chạy; đi bộ (nghĩa dùng hiện nay). Bộ thủ. 7n.
TH người đang chạy. Nghĩa gốc: chạy.
kỉ 己 /jǐ/ = bản thân mình, tên can. Bộ thủ. 2n. TH sợi dây thắt nút, xưa dùng ghi nhớ công việc, nghĩa gốc là đầu mối, mượn (giả tá) chỉ bản thân. Tự dạng hiện dùng 己 trông rất giống hình một người ngồi tay chân co lại vào mình. 己 cũng được giả tá, làm tên can thứ 6
dĩ 已 /jǐ/ = đã, rồi; thôi, ngừng. Bộ 己 kỉ. Giáp cốt văn tượng hình con rắn cuộn mình, biểu ý thôi, dừng lại (cuộn mình tức nằm lại, không bò nữa -- dừng). Nghĩa gốc: dừng lại.
tị 巳 /sì/ = tên chi thứ 6: Tị. Bộ 己 kỉ. TH. Giáp cốt văn vẽ hình đứa trẻ trong bụng mẹ. Nghĩa gốc: bào thai. Mượn (giả tá) đặt tên chi.
Phân biệt: kỉ 己 (mình), dĩ 已 (đã), và tị 巳 (chi Tị).
Mẹo nhớ: Tị thò, kỉ thụt, dĩ lửng lơ.
khởi 起 (khỉ) /qǐ/ = dậy, thức dậy, bắt đầu. Bộ 走tẩu. HT, T: kỉ 己 (mình). Nghĩa gốc: dậy
Vốn đọc là khỉ, ta quen đọc khởi.
đậu 豆 /dōu/ = đậu, bát gỗ dùng đựng thức ăn. Bộ thủ. 7n. TH. Giáp cốt văn là hình một bát đựng thức ăn có chân cao. Nghĩa gốc: đồ đựng thức ăn để cúng tế ngày xưa. Giả tá, chỉ hạt đậu.
hiệt 頁 (页) /yè/ = đầu, trang, tờ (giấy, sách). Bộ thủ. 9n.
Giáp cốt văn vẽ hình người với cái đầu to, rõ mắt và tóc. Từ kim văn hình chữ biến đổi đến mức không nhìn ra hình gốc ban đầu. Nghĩa gốc: đầu.
đầu 頭 (头) /tóu/ = đầu. Bộ 頁 hiệt. HT, T: đậu 豆 (hạt đậu). Nghĩa gốc: đầu người. Nghĩa mở rộng: đầu người, vật, sự vật nói chung; đỉnh, chóp.
nan 難 (难) /nán/ = khó. Bộ 隹 chuy. HT. Phần bên trái có âm đọc là /hàn/ làm thanh phù. Nghĩa gốc là tên một loài chim. Giả tá dùng với nghĩa khó khăn. Giản thể thay phần trái chữ viết khá phức tạp bằng 又 hựu (tay). Mẹo nhớ: Dùng tay không 又 bắt chim, hẳn là khó rồi.
#2. âm nạn /nàn/ [d] tai họa. [đ] cặn vặn, biện bác.
Chú: Góc trên trái viết là 廿 , người Nhật thường viết là 艹 . Tổng cộng chữ 難 truyền thống có 19 nét, người Nhật viết chỉ 18 nét.
萬事起頭難 vạn sự khởi đầu nan
萬事 [d]: vạn sự, mọi việc.
萬事 là danh từ ghép cố định do 萬 [số] + 事 [d]
起頭 [đ]: khởi đầu, bắt đầu. 起 [đ] + 頭 [d]
Giản thể. 万事起头难。
Ghi chú ngữ pháp
Câu là đơn vị ngôn ngữ, gồm các từ tổ chức theo cấu trúc ngữ pháp để biểu đạt trọn vẹn một ý.
Theo chức năng, câu được chia thành 4 loại chính:
Câu trần thuật: Dùng để kể, tả, trình bày sự việc hoặc phán đoán.
Câu nghi vấn: Dùng để hỏi.
Câu cầu khiến: Dùng để ra lệnh, yêu cầu.
Câu cảm thán: Dùng để bộc lộ cảm xúc.
Theo cấu trúc, câu được chia thành 3 loại:
萬事起頭難: [chủ]萬事起頭 + [vị]難
見善如不及: [chủ]見善 + [vị]如不及
三人行必有我師焉: Ba người cùng đi tất có người làm thầy ta được vậy.
Đây là một câu phức loại điều kiện – kết quả, với phó từ 必 làm trạng ngữ, nhấn mạnh sự tất yếu của kết quả, nối hai phần điều kiện và kết quả.
我不見人, 我只見一羊: Tôi không thấy người nào, tôi chỉ thấy một con dê.
Hai vế của câu này về nghĩa có ngụ ý quan hệ đối lập-chuyển ý, nhưng về hình thức là hai mệnh đề độc lập.
Văn
Chữ Hán xuất hiện muộn nhất là vào đời nhà Thương bên Tàu, cách đây hơn ba ngàn năm. Những hình thức ban đầu của chữ Hán được tìm thấy trên yếm rùa và xương thú (gọi là giáp cốt văn), sau đó, trên đồ dùng bằng đất nung, kim loại (gọi là kim văn hoặc chung đỉnh văn). Gọi là văn vì chúng là những hình vẽ với các nét vẽ khá tự do, tùy tiện, , chưa theo một quy tắc nghiêm ngặt nào.
Thư.
Đến thời Chiến Quốc (thế kỉ V – III trước Công nguyên), người Tàu bắt đầu dùng bút để viết. Ban đầu là một que có đầu nhọn, thân rỗng chứa mực, sau thay bằng bút lông; viết trên thẻ tre, da thú hay lụa. Từ đó, chữ được gọi là thư: triện thư, lệ thư … với nghĩa chữ đã có lề lối, được quy phạm hóa về một số nét cơ bản (chấm, phẩy, mác, sổ, móc,...) và được kí hiệu hóa thống nhất trong cộng đồng.
Trong quá trình phát triển của chữ Hán, cũng có trường hợp phức tạp hóa: từ chữ đơn giản ban đầu, người ta thêm thắt vào để làm rõ ý nghĩa hơn. Nhưng xu thế chung vẫn là giản hóa. Đặc biệt đến lệ thư, tự dạng bị biến đổi đến mức nhiều trường hợp khó nhận ra mối liên hệ với hình thức ban đầu. Tình trạng này về sau được gọi là lệ biến (sự biến đổi khi chuyển qua thể chữ lệ).
Nhà Tần thống nhất nước Tàu, triện thư (cụ thể là tiểu triện) được chọn làm chữ viết chính thức trong cả nước, chuẩn hóa tự dạng, loại bỏ dị thể (trước đó, nước Tàu chia thành nhiều nước nhỏ, nên nhiều chữ mỗi nước viết một kiểu). Mặc dù không được chọn làm chữ viết chính thức, lệ thư vẫn được giới thư lại dùng nhờ đơn giản và viết nhanh hơn. Đến thời nhà Hán (206 TCN - 220 CN) giấy được phát minh, ba thể chữ mới là khải thư, thảo thư và hành thư phát triển từ lệ thư xuất hiện, phù hợp hơn với chất liệu mới này, được dùng rộng rãi.
Khải thư (còn gọi chân thư), là thể chữ dùng phổ biến cho đến nay.
Thảo thư và hành thư là lối chữ viết tháu.
Chữ thảo quá tháu nên khó đọc, chỉ dùng viết nháp hoặc trong nghệ thuật thư pháp. Chữ hành ít tháu, dễ đọc hơn, nhiều người hiện vẫn dùng khi viết tay.
Bảy loại chữ Giáp cốt văn, kim văn, triện thư, lệ thư, khải thư, thảo thư và hành thư được gọi là Hán tự thất thể. Trong đó triện thư có hai dạng là đại triện và tiểu triện.
Vào thập niên 1950–1960, nhằm xóa nạn mù chữ, chính quyền Mao Trạch Đông tiến hành cải cách chữ Hán, giản hóa khoảng 2500 chữ, gọi là chữ giản thể; để phân biệt với dạng chữ gốc gọi là phồn thể.
Ngày nay, giản thể được dùng chính thức ở Trung Hoa đại lục, Singapore, Malaysia; còn Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao vẫn giữ phồn thể. Do ảnh hưởng kinh tế và dân số của Trung Hoa đại lục, số người học và sử dụng giản thể chiếm đa số. Đặc biệt, tài liệu trên mạng internet phần lớn cũng viết bằng giản thể, nên dù học phồn thể để nghiên cứu cổ văn thì việc biết giản thể vẫn rất cần thiết.

Chữ 事, 史 và 吏 giáp cốt văn là hình bàn tay cầm một công cụ dùng bói toán hay viết