29/7/25

Mộ giang ngâm

 暮江吟

一道殘陽水中,半江瑟瑟半江紅。
可憐九月初三夜,露似珍珠月似弓。

白居易

Chú giải

-          暮江: Hoàng hôn trên sông. “Mộ” () nghĩa là chiều tà, hoàng hôn.

-          : Ngâm vịnh. Nằm ở nhan đề thường để nhấn mạnh sự suy ngẫm hoặc cảm xúc dạt dào của thi nhân khi sáng tác.

-          一道 (nhất đạo): Một dải, một đường, một vệt.

-          殞陽 (tàn dương): Mặt trời lặn, hoàng hôn.

-          (phô): Trải ra, bày ra. Từ này diễn tả cách ánh nắng lan tỏa, phủ lên mặt nước như một tấm lụa, tạo cảm giác mềm mại, sống động.

-          水中 (thủy trung): Trong nước, trên mặt nước.

-          瑟瑟 (sắt sắt): Vốn là tên một loại đá quý có màu xanh biếc. Ở đây dùng gợi tả màu xanh của nước sông ở phần không bị ánh nắng chiếu.

-          可憐 (khả lân): 可愛, tính từ cảm thán: thật đáng yêu, đẹp làm sao.

-          九月初三 (cửu nguyệt sơ tam): Mồng ba tháng chín. Đầu mùa thu, trăng lưỡi liềm.

-          珍珠 (trân châu): Ngọc trai.


Âm


Nhất đạo tà dương phô thủy trung

Bán giang sắt sắt bán giang hồng.

Khả liên cửu nguyệt sơ tam dạ,

Lộ tự trân châu nguyệt tự cung.


Tạm dịch 

 Một dải nắng tà trải mặt sông,

Nửa dòng biêng biếc nửa dòng hồng.

Đêm ba tháng chín sao mà đẹp,

Sương tựa trân châu trăng tựa cung


Giản thể

一道残阳铺水中 ,半江瑟瑟半江红 。

可怜九月初三夜⑷,露似真珠月似弓




Bạch Cư Dị 白居易(772 - 846)tự Lạc Thiên, một trong những nhà thơ nởi tiếng nhất thời Đường.Ông là tác giả của Tì bà hành, Trường hận ca ..

Bài tuyệt cú trên đây cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, được đánh giá là tuyệt phẩm về thơ tả cảnh xưa nay.
Bài thơ được cho là Bạch Cư Dị sáng tác khi đang trên đường đến Hàng Châu nhậm chức Thứ sử. Trước đó, chán nản vì những đấu tranh gay gắt giữa các phe phái trong triều, ông đã chủ động xin ra làm quan địa phương. Trên hành trình rời kinh thành, trong tâm trạng nhẹ nhõm, một hôm ông dừng chân bên dòng Dương Tử. Giữa khung cảnh thanh bình của buổi chiều tà trên sông, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ, đồng thời kín đáo gửi gắm tâm tình của mình.

5/7/25

Hoa hạ

 花下

花下一壺酒,
定將誰舉杯。
雪英飛落近,
疑是故人來。
王安石
Hoa hạ nhất hồ tửu,
Định tương thùy cử bôi.
Tuyết anh phi lạc cận,
Nghi thị cố nhân lai.
Tạm dịch
Bên hoa một nậm rượu,
Nào biết cùng ai mời.
Bông tuyết rơi gần đó,
Ngỡ đâu bạn đến chơi.
Chú
Đây là một bài thơ tập cổ – thể loại thơ tài tử, trong đó người viết sử dụng nguyên văn (hoặc gần nguyên văn) các câu thơ cổ nổi tiếng, rồi kết hợp lại thành một bài mới.
Bốn câu thơ trong “Hoa Hạ” đều có xuất xứ từ những bài thơ Đường nổi danh:
+ "Hoa gian nhất hồ tửu, độc chước vô tương thân" (花間一壺酒,獨酌無相親。Trong đám hoa với một bầu rượu, Uống một mình không người thân quen. ) – Trích từ bài "Nguyệt Hạ Độc Chước" của Lí Bạch.
+ "Dục hướng Giang Đông khứ, định tương thuỳ cử bôi" (欲向江東去,定將誰舉杯?Tính đi chơi Giang Đông, Mà biết cùng ai nâng chén?) – Trích từ bài "Trùng Ức Hạ Giám" cũng của Lí Bạch.
+ "Tuyết anh phi vũ cận, yên diệp động dao thâm" (雪英飛舞近,煙葉動搖深。Hoa tuyết bay múa gần, lá cây đang đung đưa nhẹ nhàng trong làn khói sương, tạo cảm giác sâu lắng và huyền ảo. ) – Trích từ bài "Hòa Lí Đức Dụ Quan Ngọc Nhụy Hoa Kiến Hoài Chi Tác" của Thẩm Truyền Sư.
+ "Khai môn phục động trúc, nghi thị cố nhân lai" (開門復動竹,疑是故人來。Mơ hồ có tiếng động mở cửa tre, Ngờ rằng bạn thân đã tới. ) – Trích từ bài "Trúc Song Văn Phong Kí Miêu Phát, Tư Không Thự" của Lí Ích.
Tài hoa của Vương An Thạch nằm ở chỗ: ông không chỉ chọn lọc những câu thơ hay, mà còn xâu chuỗi chúng thành một chỉnh thể hài hòa từ hình thức đến nội dung. Mỗi câu thơ, dù mang dấu ấn của tiền nhân, nhưng khi đặt vào bối cảnh "Hoa Hạ" lại cộng hưởng, biểu đạt sâu sắc nỗi niềm riêng của ông.
+ Gọi “tập cổ” là phỏng theo cách gọi "tập Kiều" - còn người Tàu thì gọi là "tập cú thi" 集句詩, thơ góp câu).
Tác giả:
王安石 Vương An Thạch: chính trị gia, tư tưởng gia đời Tống, từng hai lần đảm nhận chức tể tướng, đồng thời là một nhà thơ lớn, một trong Đường Tống bát đại gia.