CÓ PHẢI CHỈ NHÀ NGUYỄN TỰ XƯNG TRUNG QUỐC, GỌI NGƯỜI VIỆT LÀ HÁN NHÂN?
(Trích từ Ngàn năm áo mũ)
Triều đình Việt Nam từ xưa đã chịu ảnh hưởng từ một quan niệm, vốn tràn ngập trong các kinh điển của Trung Quốc, đó là quan niệm Hoa di. Trước thế kỷ 19, khi chưa trở thành danh từ riêng đặc chỉ một chủng tộc hay một quốc gia cụ thể, các khái niệm “Hoa”, “Hạ”, “Trung quốc”, “Trung Hạ”, “Trung châu” v.v. xuất hiện trong kinh điển thời Xuân Thu (770–476 TCN) được dùng để chỉ vùng đất, cũng có khi chỉ những người văn minh ở trung tâm, có lễ giáo, khu biệt với các sắc dân man, di, nhung, địch ở bốn phía xung quanh.
Từ quan niệm “trung tâm văn minh”, Á thánh của đạo Nho, Mạnh Tử chủ trương “dùng Hạ biến di”, đem văn minh tiên tiến của trung nguyên truyền bá ra xung quanh như một công cuộc khai hoá. Tuy nhiên, sau khi tiếp nhận một phần văn hoá Hán, hấp thu tư tưởng Xuân Thu, vua tôi các nước Việt, Triều, Nhật đều tự nhận là Trung quốc, Trung Hạ, tức chủ thể của một nền văn minh có đầy đủ lễ giáo, văn hiến không thua kém các triều đại Hán Đường.
【NHÀ LÍ】
–Đại Việt sử kí toàn thư–
(1104) “Trước đây, Lí Giác trốn sang Chiêm Thành, nói tình hình hư thực của Trung quốc…”
[Tập IV. Tr.135. Tờ 14b. Nguyên văn: 初覺亡占城,言中國虛實。]
–Cự Việt Quốc Thái uý Lí công thạch bi minh tự–
Thái uý Đỗ Anh Vũ nói: “Để bọn man di quấy Hạ là tội của thần […] Nay cấm chỉ thói mọi, chắp tay mà chịu mặc hình; trộm cắp dân ven, mất mật mà theo hoàng hoá.”
[Dẫn theo Thơ văn Lí Trần. Tập 1. Tr.464. Nguyên văn: 蠻夷猾夏,臣之罪也【…】禁止夷俗,拱手而受墨刑;盜賊邊民,喪膽而歸皇化。]
---
【NHÀ TRẦN】
–Thiền tông khoá hư ngữ lục–
Khi bàn về sự quý báu của thân người, Trần Thái Tông viết: “Người nay chẳng biết, lại quý vật mà rẻ thân, chẳng hay thân mình có ba điều khó gặp […] Một là, trong lục đạo chỉ có người là quý […] có kẻ bị đoạ xuống đạo Địa ngục, A tu la, Ngạ quỷ, Súc sinh, không được làm người […] Hai là, đã được sinh ra làm người nhưng lại có kẻ sinh ra ở nơi man di, tắm thì chung sông, nằm thì rọ chân, sang hèn ở lẫn, trai gái sống chung, chẳng đượm gió nhân, chẳng nhuần giáo hoá […] Ba là, đã được sinh ra ở Trung quốc, nhưng sáu căn không đủ, bốn thể chẳng toàn, mù điếc ngọng câm […] tuy ở trong Hoa Hạ cũng hệt như ở ngoài hoang dã. Nay đã làm người, được sinh ra ở Trung quốc, lại có đủ sáu căn, há chẳng quý lắm sao?”
[Quyển thượng - Phổ khuyến Bồ Đề tâm. Nguyên văn: 今者不識,反 貴其物而賤其身,不知其身有難逢者三,何者為三?一者六道之中,惟人為貴【…】或入地獄、阿修 羅、餓鬼、畜生之道,不得爲人【…】二者既得爲人,或生蛮夷之處,浴則同川,臥則同僢,尊卑混 處,男女雜居,不被仁風,不調聖教【…】三者既得生於中國,六根不具,四體非全,盲聾喑啞【…】雖居華夏之中若處穷荒之外【…】今既為人得生中國,又以六根全具,豈為不貴乎!]
–Văn khắc “Chinh Ai Lao kỉ công ma nhai”–
(1335) Nguyễn Trung Ngạn trên sườn núi Trầm Hương (Nghệ An) viết: “Vào thời hoàng đế thứ sáu triều Trần nước Hoàng Việt, Thái thượng hoàng đế Chương Nghiêu Văn Triết được trời ban mệnh, giữ đất Trung Hạ, khắp trong bốn bể, đâu cũng thần phục, Ai Lao cỏn con, dám chống vương hoá.”
[Văn khắc Hán Nôm Việt Nam. Tập 2. Tr.287. Nguyên văn: 皇越陳朝第六帝、章堯文哲太上皇帝,受天 眷命,奄有中夏,薄海内外,罔不臣服,蕞爾哀牢,猶梗王化。]
–Đại Việt sử kí toàn thư–
Sau khi kể cho tướng lĩnh những câu chuyện đầy nghĩa khí thời Xuân Thu, Hưng Đạo Vương viết trong Dụ chư tì tướng hịch văn: “Các ngươi là tướng của Trung quốc (chỉ Đại Việt), phụng sự tù trưởng di rợ (chỉ Nguyên Mông) mà không thấy căm phẫn?”
[Tập IV. Tr.206. Tờ 13a. Nguyên văn: 爾等為中國之將,侍立夷酋,而無忿心?]
---
【MINH THUỘC】
–Đại Việt sử kí toàn thư–
(1417) “Đối với những người hào kiệt Trung quốc (chỉ người Việt), chúng (chỉ nhà Minh) phần nhiều vờ trao cho quan tước rồi đem về an trí ở phương Bắc.”
[Tập IV. Tr.289. Tờ 1b. Nguyên văn: 凡中國豪傑之士陽假以官,安揷于北。]
---
【NHÀ LÊ】
–Đại Việt sử kí toàn thư–
(8/1426) Vua Lê Thái Tổ ban dụ cho cả nước viết: “Giặc còn ở Trung quốc, dân chúng còn chưa yên.”
[Tập IV. Tr.307. Tờ 37b. Nguyên văn: 賊在中國,民猶未定。]
(7/1479) Tờ chiếu đi đánh Ai Lao của vua Lê Thánh Tông viết: “Bậc đế vương đời xưa chế ngự di địch, phục tùng thì cưu mang bằng đức, phản lại thì sấm sét ra oai […] Trẫm nay nối công tổ tông, giữ cơ nghiệp lớn, ở đất Trung Hạ, vỗ yên ngoại di […] Huống chi, đám dân chốn man rợ này, từ lâu nhiễm mùi hôi tanh của loài chó Lão Qua, muốn khôi phục cương thường cho tục mọi.”
[Tập IV. Tr.425, tờ 20a, 21a. Nguyên văn: 古先帝王制禦夷狄,服則依之以德,叛則 震之以威【…】朕丕繩祖武,光御洪圖,莅中夏撫外夷【…】矧此蠻方之生聚久汚撾狗之腥膻,欲還夷 俗之綱常。]
Tờ chiếu đánh Bồn Man của vua Lê Thánh Tông viết: “Nước nhà ta tóm thâu bờ cõi, thống ngự Hoa di.”
[Tập IV. Tr.424. Tờ 17b. Nguyên văn: 我國家混一區宇,統御華夷。]
(12/1517), Mạc Đăng Dung tâu dâng tờ sớ lên vua Lê xin giết Lê Quảng Độ, đại ý nói: “Tam cương ngũ thường là rường cột chống đỡ trời đất, là trụ đá đặt yên sinh dân. Nước mà không có cương thường thì tuy là Trung Hạ cũng có khác nào di địch. Người mà không có cương thường thì tuy mặc xiêm áo, cũng có khác nào cầm thú.”
[Nguyên văn: 三綱五常,扶植天地之棟幹,奠安生民之柱石,國而無此則中夏而夷狄,人而無此則衣裳而禽犢。]
–Đại Việt Lam sơn Dụ lăng bi–
(1504) Tại lăng vua Lê Hiến Tông (di tích Lam Kinh) có viết: “Trung quốc vững mạnh, ngoại di khiếp hãi.”
[Nguyên văn: 中國盛強,外夷震疊。]
–“Về bức thư An Nam gửi cho Hà Lan xin Hải quân Hà Lan giúp đỡ”–
Bức thư chúa Trịnh Tráng gửi cho Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan tại Batavia (nay là Jakarta) năm 1637, có đoạn viết: “Nay ta có ý mong quý quan tiết chế của quý quốc Ô Lan (tức Hà Lan) kết giao với ta. Trên danh nghĩa chân chính, hai nước đùm bọc thương yêu, mãi đến muôn đời. Vậy cắt cử hoặc hai ba tàu, hoặc hai trăm lính thiện xạ đến Trung quốc ta, lấy đó làm tin.”
[Iwao Seiichi 岩生成一. Dẫn theo 東方学 Đông phương học. Kì 23. Tr.109-118. Nguyên văn: 茲我至意欲求烏蘭貴國節制貴官,有 欲結我。真正義名,兩國悖憐,永垂萬世。顧割或二三艚,或善射放二百人,到我中國,以為手信。]
---
【NHÀ NGUYỄN】
–Vietnam and the Chinese Model–
Học giả người Mĩ Alexander Barton Woodside chép về khái niệm “Trung quốc” được sử dụng tại Việt Nam vào thời Nguyễn: “Năm 1805, vua Gia Long coi Việt Nam là “vương quốc trung tâm” hay Trung quốc. Thuật ngữ tiếng Hán thông thường được dùng để chỉ Trung Hoa, nhưng trong tay người Việt, nó lại trở thành một khái niệm trừu tượng không có sự tham khảo địa lí nào. Nó biến đổi thành một cụm từ có khả năng được dùng để chỉ bất kì vương quốc nào được lập nên trên cơ sở những nguyên tắc kinh điển Trung Hoa, khi nhận thấy xung quanh mình bị bao bọc bởi những kẻ man di không được giáo hoá.”
–Quốc sử di biên–
Lang trung Lí Văn Phức sang Thanh, thấy người Thanh viết bốn chữ lớn “Việt di hội quán” lên vách tường, ông đã rất tức giận, trách mắng quan Quán bạn, nét mặt và giọng nói đều rất dữ, không chịu vào quán, sau đó lệnh hành nhân xé nát chữ “di” đi rồi mới vào, đoạn viết Biện di luận để trần bày. Đại lược nói: “Việt Nam vốn hậu duệ của Thánh đế Thần Nông, là Hoa, chẳng phải di vậy, đạo học noi theo Khổng Mạnh Trình Chu, pháp độ tuân theo Chu Hán Đường Tống, không vấn tết tóc, để vạt trái như người di. Đến như vua Thuấn sinh ra ở Chư Phùng, Văn Vương sinh ra ở Kì Châu, người đời còn chẳng dám coi vua Thuấn, Văn Vương là di, huống hồ dám coi ta là di ư?”
[Tập hạ. Mục ngày 10 tháng 2 năm Thiệu Trị thứ 1 (1841). Nguyên văn: 越南原聖帝神農氏之後,華也,非夷也。道學則師孔孟程朱,法度則遵周漢唐宋,未始編髮左衽為夷行 者。且舜生於諸馮,文王生於歧周,世人不敢以夷視舜、文也。況敢以夷視我乎?Lí Văn Phức làm chánh sứ đi sứ sang Yên Kinh năm 1841, toàn bộ bài Biện Di luận được chép trong Chu nguyên tạp vịnh thảo mang kí hiệu VHv.1146 Thư viện Hán Nôm.]
–Du hiên tùng bút–
Bùi Văn Dị nhận định: “Từ khi triều Thanh làm chủ Trung Quốc, bốn phương phải cạo tóc, đổi y phục. Hai trăm năm trở lại đây, tai mắt người ta đã quen cả [...] không còn nhận ra kiểu dáng Hoa Hạ ngày xưa nữa. Sứ nước ta tới Yên Kinh, đội mặc phẩm phục, có kẻ nhận ra trộm ngưỡng mộ Hoa phong. Nhưng bọn không có trí tuệ, phần nhiều túm tụm cười đùa, thấy mũ phốc đầu, võng cân, đai áo bèn chỉ trỏ cho là kiểu cách tuồng chèo. Tục rợ Hồ thay đổi con người ta đến mức phải ta thán như vậy đấy.”
[Nguyên văn: 自清朝入帝中國,四方薙髮變服,二百年來,人已慣耳目【…】不曾又識初來華夏樣矣。我國使部來京, 穿戴品服,識者亦有竊羨華風,然其不智者,多群然笑異,見襆頭網巾衣帶,便皆指為倡優樣格, 胡俗之移人,一至浩歎如此。]
–Tuyển tập Ngô gia văn phái–
Ngô Thì Nhậm từng có lời thơ thể hiện niềm tự hào là bậc kì lão đất Việt, vận áo mão chỉnh tề, thắt dây thao, đeo ngọc bội, rất văn minh, rất “Hoa”. Ông viết: “Mở mang có trước sau, đâu riêng Trung Quốc có […] May sinh ở nước Nam, đường hoàng thân áo mão. Chớ bảo ta chẳng Hoa, Việt Thường có kì lão.”
[Tập 1. Tr.614. Hoãn Nhĩ ngâm. Nguyên văn: 堂堂朱夫子,賢言甚 推透,盛稱西南番,文字多高手,必有開其先,不獨中國有【…】幸哉生南邦,儼然佩紳綬,勿謂我不華,越裳有黃耉。]
–Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ–
(1829) Vua Minh Mạng xuống dụ ban tên họ cho các thủ lĩnh người man có đoạn viết: “Ôi sửa đổi phong tục ắt phải dần dần, mà đấng vương giả dạy bảo nào có phân biệt. Lần này bọn thổ ti ấy đã theo về phong hoá, mặc xiêm áo của ta, nhưng nếu cứ để cho có tên mà không có họ, há phải là ý của trẫm coi mọi người như nhau? [...] đời đời tuân phụng, để phân rõ họ hàng, theo luân thường, đều đi đến đạo lớn, khiến ngày càng nhuốm gội Hoa phong.”
[Q.134 – Nhu viễn – Ban cấp sắc mệnh. Nguyên văn: 夫正俗必以其漸而王者有教無 類。此次該土司等既經服我衣裳之化。若聼其有名無姓,豈朕一視同仁之意者乎【…】世世遵奉以辨 族敦倫,偕之大道,俾知日染華風。]
(1834) Người Thuỷ Xá sai sứ đến cống, vua Minh Mạng có lời dụ rằng: “Thánh nhân dùng Hạ biến di, nên lấy lễ nghĩa dạy bảo, khiến dần dần đổi thành thói Hoa Hạ. Bèn thưởng cho sứ thần ấy cả bộ áo mũ trước kì hạn. Hôm trẫm ngự ở điện, đã chuẩn cho sứ thần ấy vào triều cống, tận mắt thấy bọn họ áo mũ chỉnh tề, quỳ lạy thung dung, đều hợp lễ tiết, trẫm rất lấy làm khen ngợi […] Lại thưởng cho chánh sứ lấy họ là Lĩnh, vẫn dùng tên cũ là Duyên, phó sứ họ là Kiệu vẫn dùng tên cũ là Tài, ngõ hầu biết được họ tên, ngày một nhuốm gội Hoa phong.”
[Q.133 – Nhu viễn – Tứ dữ thuộc quốc. Nguyên văn: 聖人以夏變夷,宜以禮義導之, 使日漸華俗。爰先期賞給該使臣冠服全副。本日朕御殿準該使臣朝貢,親見伊等冠服齊整,跪拜從 容,盡合禮節,朕心殊深嘉【…】賞正使姓嶺仍舊名緣,副使姓嶠仍舊名才,俾知姓名,日染華風。]
–Đại Nam Thực Lục–
Vua Minh Mạng nói: “Thánh nhân dùng Hạ biến di, có thể đem lễ nghĩa ra dạy bảo thì loài có mai vảy cũng có thể thay đổi mà biết mặc xiêm áo.”
[Chính biên - Đệ nhị kỉ - Q.132. Tr.36 (A.2772/ 27). Nguyên văn: 聖人用夏變夷,能以禮儀導之則鱗介可變而衣裳矣。]
(12/1835) Vua Minh Mạng có lời dụ: “Đất man đã lệ thuộc bản đồ của ta từ lâu, dân man cũng là con đỏ của ta, phải nên bảo ban dìu dắt, để ngày một nhiễm theo Hán phong […] Phàm những thứ cần dùng đều phải học tập Hán dân, chăm việc làm lụng. Đến như ngôn ngữ thì bảo họ dần dần tập nói Hán âm. Ăn uống và áo quần cũng dạy cho dần dần theo Hán tục. Ngoài ra, hễ có điều gì phải đổi bỏ thói hủ lậu mà làm cho giản tiện dễ dàng thì cũng tuỳ cơ chỉ bảo. Thông cảm họ dẫu là man mọi, nhưng cũng có lương tri và lương năng […] Hun đúc thấm nhuần, dùng Hạ biến di, đấy cũng là một đường lối thay đổi phong tục.”
[Chính biên - Đệ nhị kỉ - Q.163. Tr.11 (A.2772/ 32). Nguyên văn: 蠻地久隸版章,蠻民亦吾赤字,必須開誘引掖,使之日染漢風【…】凡一切常需均要學習漢民,勤於生理。以至 言語則使之漸學習漢音。飲食衣服亦使之漸從漢俗。此外尚有應革其陋而簡便易行者亦隨宜開導。 諒他雖蠻貊亦有知能【…】薰陶浸染,用夏變夷,此亦移風易俗之一道也。]
---
Nguồn: https://www.facebook.com/groups/1436664773528972/user/100004775774050/?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: chỉ cần dán link vào, không cần gõ thẻ khi post
Chèn EmoticonsHình (file có đuôi jpg, jpeg, png, bmp, gif ),
Nhạc (file có đuôi mp3 hoặc từ trang web nhaccuatui),
Video (từ Youtube)
Đổi cỡ, màu chữ:
[color="red"][size="20"] chữ cỡ 20 màu đỏ [/size][/color]
(màu dùng mã hexa hoặc tiếng Anh: red, blue, green, violet, gold ..)
Giới thiệu link: <a href="link"> tên link </a>
Chữ đậm <b> chữ đậm</b>
Chữ nghiêng: <i> chữ nghiêng </i>
Chèn Yahoo smiley (click Chèn emoticons để xem phím tắt)
Đã thêm mấy smiley nhưng chưa rảnh thêm vào bảng chèn. Phím tắt:
:-/ bối rối ;) nháy mắt ;;) đá lông nheo
:"> thẹn :X yêu thế =(( tan nát cõi lòng
Chú ý Nếu nút Trả lời ko hoạt động, xin chịu khó lên thanh địa chỉ, gõ thêm vào cuối (ngay sau html) ?m=1 rồi nhấn Enter, nút Trả lời sẽ ok. (29/11/18)