17/3/24

Xuân giang khúc

春江曲
江水春沉沉,
上有雙竹林。
竹葉壞水色,
郎亦壞人心。
郭震

Âm

Giang thủy xuân trầm trầm, Thượng hữu song trúc lâm.
Trúc diệp hoại thủy sắc, Lang diệc hoại nhân tâm.

Nghĩa. Khúc hát sông xuân.

Sông mùa xuân nước xanh thăm thẳm, 
Trên hai bên bờ sông có rừng tre.
Lá tre làm hỏng màu nước, 
Còn chàng thì làm hỏng trái tim em.

Tạm dịch.

Xuân nước sông xanh thẳm,
Hai bờ tre lặng im.
Lá che tối mặt nước.
Chàng nhuộm tối tim em.

Giản thể.

江水春沉沉,上有双竹林。竹叶坏水色,郎亦坏人心。

Chú

沉沉 trầm trầm: nặng nề; sâu thẳm. 沉 trầm: chìm. Cũng viết 沈. 沉沒 trầm một: chìm đắm. 石沉大海 thạch trầm đại hải: đá chìm đáy biển. 深沉 sâu sắc.

壞 (坏) hoại: phá hỏng, mục nát. 破壞 phá hoại: phá hỏng. 敗壞 bại hoại: làm hỏng.

郎 lang: chàng (tiếng phụ nữ gọi chồng hay tình nhân).

郭震 Quách Chấn (656 - 713) nhà thơ thời Sơ Đường. Vốn là danh tướng, tể tướng triều Đường, về sau bị bãi chức, biếm đến Tân Châu (nay thuộc Quảng Đông) làm tư mã, bệnh chết trên đường đi nhậm chức.

15/3/24

Đề Hoa sơn xuân bích

題花山春壁

寺裏山因花得名,
繁英不見草縱橫。
裁培剪伐修勤力,
花易凋零草易生。

蘇舜欽

Giản thể

寺里山因花得名,

繁英不见草纵横。

栽培剪伐须勤力,

花易凋零草易生。

Âm

Tự lí sơn nhân hoa đắc danh, Phồn anh bất kiến thảo tung hoành.
Tài bồi tiễn phạt tu cần lực, Hoa dị điêu linh thảo dị sanh.

Chú

-          花山寺 Hoa Sơn tự: tên chùa, nay ở đâu chưa rõ. Có người cho là ở Trấn Giang.

-      蘇舜欽 Tô Thuấn Khâm (1008-1048) nhà thơ thời Tống.

Nghĩa. Đề trên vách chùa Hoa Sơn lúc xuân về

Chùa có tên Hoa Sơn tự hẳn do có nhiều hoa, 

Nhưng đến nơi không thấy hoa đâu chỉ thấy cỏ khắp nơi. 

Việc vun trồng cắt tỉa hoa phải chăm chỉ, 

Vì hoa dễ khô héo mà cỏ thì dễ mọc.

Tạm dịch

Chùa hẳn nhiều hoa nên có tên,
Hoa đâu không thấy cỏ liên miên.
Trồng hoa vun xới cần chăm chỉ.
Hoa dễ héo tàn cỏ dễ lên.



13/3/24

Ức mai

憶梅
定定住天涯,
依依向物華。
寒梅最堪恨,
長作去年花。
李商隱

Âm

Định định trú thiên nhai, 
Y y hướng vật hoa. 
Hàn mai tối kham hận, 
Trường tác khứ niên hoa.

Nghĩa. Nhớ hoa mai.

Yên yên tĩnh tĩnh đứng nơi góc trời, luôn trông về cảnh tươi đẹp.
Hàn mai thật đáng buồn đáng giận, vì thường xuyên phải làm hoa năm ngoái.

Tạm dịch

Im im một góc trời,
Ngong ngóng cảnh xuân tươi.
Mai một lòng hờn giận,
Mãi hoa năm ngoái thôi.

Chú

- 定定 định định: đứng yên, im lìm.

- 依依 y y: luôn luôn.

- 天涯 thiên nhai: chân trời, chỉ nơi rất xa quê (ở đây là Từ Châu).

- 物華 vật hoa: vạn vạt tươi như hoa, chỉ cảnh vật mùa xuân.

- 寒梅 hàn mai: mai nở hoa vào mùa đông giá rét, nên gọi hàn mai.

- 堪恨 kham hận: đáng giận. 堪 kham: chịu đựng; ở đây dùng như chữ khả 可.

- 長 trường: lâu dài. Bản khác: 常 thường.

- 去年花 khứ niên hoa: hoa năm ngoái. Vì mai nở vào mùa đông, đến xuân đã tàn, nên gọi là hoa năm ngoái.

李商隱 Lí Thương Ẩn (khoảng 813 - 858) là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất thời Vãn Đường, cùng với Đỗ Mục được người đời tôn xưng là Tiểu Lí Đỗ (gọi "tiểu" để phân biệt với cặp Lí Đỗ nổi tiếng thời Thịnh Đường - Lí Bạch - Đỗ Phủ).

Giản thể
定定住天涯,依依向物华。
寒梅最堪恨,长作去年花。


Thư họa: internet



11/3/24

Ngọc đài thể

玉臺體其十一 

昨夜裙帶解
今朝蟢子飛
鉛華不可棄
莫是稿砧歸
權德輿

Giản thể.
昨夜裙带解,今朝蟢子飞。
铅华不可弃,莫是藁砧归

Âm

Tạc dạ quần đái giải, Kim triêu hỉ tử phi.
Diên hoa bất khả khí, Mạc thị cảo châm quy.

Nghĩa

Hôm qua giải quần tự nhiên lỏng rồi rơi ra,
Sáng nay lại thấy nhện bay.
Phấn sáp không thể bỏ bê được nữa,
Chẳng phải "cái chày" sắp về đó sao.

Tạm dịch

Đêm trước giải quần rớt,

Sáng nay thấy nhện sa.

Phấn son không biếng nữa,

Chàng chắc sắp về nhà.

Chú

-          玉臺體 Ngọc đài thể: tên một thể thơ xưa, thời Hán, Ngụy, Lục triều hay làm.

-          裙帶解 quần đái giải: giải quần mở ra. Người xưa tin giải quần tự rơi ra là điềm nên duyên vợ chồng.

-          蟢子 hỉ tử: tên một giống nhện chân cao. Người xưa tin rằng thấy loài nhện này sa thì gặp điều vui. Có lẽ do  hỉ: tên loài nhện đồng âm với  hỉ: vui.

-          鉛華 diên hoa: phấn sáp.  diên: chì, một loại bột chì dùng để trang điểm.

-          莫是 mạc thị, ở đây có nghĩa 莫不是 mạc bất thị: chớ không phải là.

-          藁砧 cảo châm: chày đá, ám chỉ người chồng. Có tác giả giải thích xưa chồng đi lính xa, vợ ở nhà dùng chày đá đập vải dệt áo gởi cho chồng, nên hình tượng chày đá thường dùng như một ẩn dụ chỉ người chồng đi xa. Thật ra dùng cái hình ảnh chày đá thì không cần giải thích gì cũng hiểu ám chỉ người chồng!

權德輿 Quyền Đức Dư (759 - 818), nhà thơ thời Trung Đường. Bốn tuổi đã biết làm thơ, từng làm quan đến Lễ bộ thị lang đồng Bình chương sự (Tể tướng).

Ông có chùm 12 bài thơ Ngọc đài thể, trong đó bài thứ 11 trên đây nổi tiếng hơn cả.

9/3/24

Cúc hoa 3

菊花其三 

忘身忘世已都忘,
坐久蕭然一榻涼。

歲晚山中無歷日,
菊花開處即重陽。

玄光禪師

Âm.

Vong thân vong thế dĩ đô vong, Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật, Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.

Nghĩa.

Quên thân quên đời tất cả đều quên, Ngồi mãi trên chiếc giường thấp đơn sơ lạnh lẽo.
Năm tháng trôi qua trong núi không có lịch, Nhưng thấy lúc hoa cúc nở thì biết là đã đến tiết Trùng dương.

Tạm dịch

Quên thân quên thế thảy đều quên,

Ngồi mãi giường đơn lòng lặng yên.

Ở chốn núi non không có lịch,

Nhìn hoa cúc nở biết thu liền.

Chú

-       玄光禪師 Thiền sư Huyền Quang (1254-1334) tên thật là Lý Đạo Tái 李道載 vị tổ thứ ba dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Đây là bài thứ ba trong chùm 6 bài ngũ ngôn tuyệt cú của ông.

Giản thể

忘身忘世已都忘,坐久萧然一榻凉。
岁晚山中无历日,菊花开处即重阳

6/3/24

vÔ ĐỀ

無題

去年曾約牡丹開,
同向花前把一杯。
今日花開人不見,
對花無語却歸來.
許有壬

Âm:
Khứ niên tằng ước mẫu đơn khai,
Đồng hướng hoa tiền bả nhất bôi.
Kim nhật hoa khai nhân bất kiến,
Đối hoa vô ngữ tức quy lai.

Nghĩa
Năm ngoái từng hứa hẹn rằng khi nào hoa mẫu đơn nở,
Sẽ cùng nhau nâng chén rượu thưởng hoa.
Năm nay hoa nở mà chẳng thấy người xưa,
Ngắm hoa nở mà chẳng nói lời nào, đành lủi thủi quay về.

Tạm dịch
Năm ngoái hẹn khi hoa trỗ bông,
Cùng nhau ngồi ngắm uống vài chung
Hôm nay hoa nở người không thấy,
Lặng lẽ nhìn hoa nặng trĩu lòng

Chú
Hứa Hữu Nhâm 許有壬 (1287-1364) tự Khả Dụng 可用, sống vào thời nhà Nguyên.