Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ chữ Hán VN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ chữ Hán VN. Hiển thị tất cả bài đăng

5/12/25

Cúng dường

 Tuệ Sỹ


供養

奉此獄囚飯

供養最勝尊

世間長血恨

秉缽淚無言

慧士

Chú

供養 cung dưỡng: cúng dường.

奉 phụng: dâng, cung kính trao cho. 獄囚飯 ngục tù phạn: bữa cơm tù

最勝尊 Tối Thắng Tôn: tiếng tôn xưng đức Phật. 

長 trường: lâu dài, dai dẳng. 

血恨 huyết hận: chỉ sự thù hận sâu đến mức máu đổ đầu rơi.

秉缽 bỉnh bát: cầm chén, bưng bát. 淚無言 lệ vô ngôn: nước mắt chảy mà không nói chi.

慧士 Tuệ Sỹ (1943 - 2013), tu sĩ, Đệ lục Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Trước 1975, là giảng viên ĐH Vạn Hạnh. Đã công bố nhiều tác phẩm chuyên khảo, dịch thuật kinh điển có giá trị. 

Năm 1978 ông bị tù cải tạo ba năm. Năm 1984 lại bị bắt và bị kết án tử hình, sau đó do vận động quốc tế, được giảm án xuống thành tù chung thân, rồi được thả năm 1998.

Trong thời gian bị tù, ông có làm một số bài thơ chữ Hán, sau thu thập lại một số cho in thành tập thơ Ngục trung mị ngữ. Bài trên đây trích từ tập thơ ấy.

.

Giản thể

供养

奉此狱囚饭

供养最胜尊

世间长血恨

秉钵泪无言

.

Âm

Cung dưỡng 

Phụng thử ngục tù phạn,

Cúng dường Tối Thắng Tôn.

Thế gian trường huyết hận,

Bỉnh bát lệ vô ngôn.

.

Nghĩa. Cúng dường

Xin dâng bữa cơm tù này, 

Cúng dường đức Tối Thắng Tôn.

Thế gian đang chìm trong hận thù máu lửa dài lâu,

Bưng bình bát chảy nước mắt không nói nên lời.

.

Tạm dịch.

Dâng bữa cơm tù ngục,

Cúng dường đức Thế Tôn

Đời chìm trong lửa hận,

Bưng bát lệ thầm tuôn.



Nguồn hình: https://thuvienhoasen.org/images/file/A8VOC1WO3AgQAMRg/nguc-trung-mi-ngu-tue-sy.pdf


2/4/25

Hàn dạ ngâm

 

寒夜吟 
寒極不能眠,起改新詩句。
奴添,奴身吟久。
席去匆,卻把奴兒
高伯适

Âm

Hàn cực bất năng miên, Khởi cải tân thi cú.

Chúc tận hoán nô thiêm, Nô ngoạ thân ngâm cửu.

Xuyết tịch khứ thông thông, Khước bả nô nhi phú.

.

-          寒極 hàn cực: lạnh hết sức. 不能眠 bất năng miên: không thể ngủ.

-          起改 khởi cải: dậy sửa đổi. 新詩句 tân thi cú: câu thơ mới làm.

-          燭盡 chúc tận: đèn đuốc hết dầu. 唤奴添 hô nô thiêm: gọi đầy tớ lấy thêm.

-          奴臥 nô ngọa: đứa ở nằm. 身吟久 thân ngâm cửu: người rên mãi.

-          敠席 xuyết tịch: nhấc chiếu lên. 去匆匆 khứ thông thông: đi vội vàng.

-          卻把 khước bả: lại đem cho. khước, phó từ: lại. bả: cấp cho, đem cho. 奴兒覆 nô nhi phú: đứa ở đắp. phú: che trùm, đắp.

Bài này từng được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học VN

Giản thể

寒极不能眠,起改新句。
奴添,奴臥身吟久。
敠蓆去匆匆,却把奴儿复

Nghĩa

Rét quá không thể ngủ được, Ngồi dậy sửa lại mấy câu thơ mới làm.

Đèn hết dầu gọi đứa ở lấy thêm, Đứa ở nằm rên rỉ hoài.

Vội vàng đi lấy chiếc chiếu, Đắp lên mình đứa nhỏ.

Tạm dịch

Rét quá ngủ không yên,

Dậy sửa thơ vừa viết.

Cạn dầu kêu tớ thêm,

Tớ nằm rên rỉ miết.

Vội vàng chạy tới xem,

Đắp cho nó chiếc chiếu.

 

7/3/25

Cảm hoài. Đặng Dung

 

感懷
世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功易
運去英雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉戴月磨
鄧容

Chú

-          感懷 cảm hoài: Trong lòng có cảm xúc. cảm: động lòng. hoài: điều ôm giữ trong lòng, nhớ nhung, tưởng niệm. Trong cổ văn, 感懷 “Cảm hoài” hoặc “Thuật hoài” thường được dùng làm nhan đề bài thơ, trong đó tác giả bày tỏ những cảm xúc sâu lắng, hoài niệm về một thời gian, một sự kiện, hay một người một cảnh nào đó.

-          世事 thế sự: chuyện đời. 悠悠 du du: dằng dặc, mênh mông. 世事悠悠 Việc đời dằng dặc, liên miên không dứt. Diễn tả nỗi ngán ngẩm trước sự biến đổi khôn lường của thế sự và dòng chảy vô tận của thời gian. 奈老何 nại lão hà: biết làm sao với tuổi già. nại: làm thế nào, đối phó ra sao.

-          無窮天地 vô cùng thiên địa: trời đất mênh mông không cùng tận. 入酣歌 nhập hàm ca: ca hát say sưa. nhập: hòa vào, thâm nhập. hàm: say sưa, đắm chìm. ca: khúc hát.

-          時來 thời lai: khi thời cơ đến. 屠釣 đồ điếu: người hàng thịt, kẻ câu cá. Ám chỉ Phàn Khoái, và Hàn Tín. Thuở hàn vi người làm nghề đồ tể, người đi câu cá kiếm sống, về sau giúp Lưu Bang lập nên nhà Hán. 成功易 thành công dị: thành công dễ dàng.

-          運去 vận khứ: vận may qua đi. 英雄 anh hùng: người tài giỏi. 飲恨 ẩm hận: nuốt hận. ẩm: uống. đa: nhiều.

-          致主 trí chủ: hết lòng phò vua, thờ chủ. trí: hết lòng, tận lực. 有懷 hữu hoài: có lòng. 扶地軸 phù địa trục: chống đỡ trục quả đất, ẩn dụ cứu đất nước. phù: nâng đỡ.

-          洗兵 tẩy binh: rửa sạch binh đao, ẩn dụ ước vọng hòa bình. 無路 vô lộ: không có đường. 挽天河 kéo sông Ngân.

-          國讎 quốc thù: thù nước. 未報 vị báo: chưa báo đáp. 頭先白 đầu tiên bạch: đầu đã bạc trước.

-          幾度 kỉ độ: bao phen. 龍泉 Long Tuyền: tên thanh gươm báu thời cổ đại, ở đây phiêm chỉ gươm báu. 戴月磨 đới nguyệt ma: đội trăng mài kiếm, mài kiếm dưới trăng.

鄧容 Đặng Dung là con trai của Đặng Tất, người theo phò vua Giản Định đế của nhà Hậu Trần, lập nhiều công lớn trong kháng chiến chống Minh, nhưng sau bị Giản Định đế giết chết cùng với tướng Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) rời đi, lập Trần Quý Khoáng làm vua (Trùng Quang) tiếp tục kháng chiến chống Minh. Có lần đang đêm ông lẻn lên đúng thuyền Trương Phụ nhưng vì không biết mặt nên để Trương Phụ trốn thoát. Sau Trương Phụ chỉnh đốn binh mã phản công. Cuộc kháng chiến kéo dài được gần mười năm, cuối cùng thất bại, vua tôi bị bắt. Nguyễn Cảnh Dị mắng chửi Trương Phụ, bị giặc giết moi gan ăn. Còn ông và Trùng Quang trên đường bị áp giải về Nam Kinh đã nhảy xuống biển tự tử.

Bài thơ trên đây đã được đưa vào chương trình trung học VN.

Âm: Cảm hoài
Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỉ độ Long tuyền đái nguyệt ma.
Đặng Dung.

Nghĩa:

Việc đời dằng dặc, già rồi biết làm sao,
Trời đất mênh mông ngồi ca hát nghêu ngao.
Khi gặp thời anh hàng thịt người câu cá cũng thành công dễ dàng,
Thời vận đã mất thì nhiều kẻ anh hùng cũng đành nuốt hận.
Thờ vua, có lòng nhận trọng trách phục hưng đất nước,
Muốn sớm vãn hồi hòa bình nhưng không có lối kéo sông Ngân xuống mà tẩy rửa giáp binh.
Thù nước chưa báo đầu đã bạc rồi,
Bao phen mài gươm báu dưới ánh trăng.

Tạm dịch:
Việc đời còn lắm, lão rồi sao,
Trời đất mênh mang, ca hát nào.
Thời đến thất phu thành việc khỏe,
Vận đi hào kiệt ngậm ngùi đau.
Cũng mong giúp chúa xoay thời thế,
Kéo nước sông ngân giặt giáp bào.
Nợ nước chưa xong đầu đã bạc,
Bao phen mài kiếm dưới trăng sao.

7/2/25

Khấp Dương Tú tài mộ

泣楊秀才墓 
清山碧水擁孤墳,
風雨千涯泣故人。
未敢盡情捐血淚,
回頭國土正沈淪。
潘週楨

Chú

1)      - khấp: khóc.
-
楊秀才 Dương Tú Tài: vị Tú Tài họ Dương.
-
mộ: mồ.

2)      -  thanh sơn: núi xanh ( thanh: xanh).
-
碧水 bích thủy: nước biếc ( bích: xanh biếc).
-
ủng: ôm, bao quanh.
-
孤墳 cô phần: phần mộ lẻ loi ( cô: đơn độc, lẻ loi. phần: ngôi mộ).

3)      - 風雨 phong vũ: gió mưa.
-
千涯 thiên nhai: nghìn phương trời, khắp chốn ( thiên: ngàn. nhai: bờ bến; khu vực).
-
khấp: khóc.
-
故人 cố nhân: người bạn cũ. Ở đây chỉ Dương Tú Tài.

4)      - 未敢 vị cảm: chưa dám ( vị: chưa. cảm: dám).
-
盡情 tận tình: hết lòng ( tận: hết, không còn gì nữa).
-
quyên: bỏ, xả. 血淚 huyết lệ: máu và nước mắt.

5)      - 回頭 hồi đầu: quay đầu (nhìn).
-
國土 quốc thổ: đất nước.
-
chánh, phó từ: đang lúc.
-
沈淪 trầm luân: chìm đắm (, cũng viết   trầm: chìm đắm. lưu lạc, chìm đắm).

潘週楨 Phan Châu Trinh (1872 - 1925), hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, tự là Tử Cán, người đề xướng phong trào Duy Tân hồi đầu thế kỉ XX với khẩu hiệu nổi tiếng "Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh". 

Tú Tài họ Dương tên là Dương Thạc 楊碩, hiệu Trường Đình, một chí sĩ hoạt động cách mạng trong phong trào Duy Tân ở Quảng Nam, bị đày Côn Đảo rồi ốm chết tại đó. Bạn bè thương tiếc, dựng mộ chí kỷ niệm. Bấy giờ Phan Châu Trinh cũng đang bị giam ở đó.

Bài thơ là tiếng khóc thương của tác giả dành cho một đồng chí, một trí thức yêu nước hi sinh trong nhà tù Côn Đảo. Còn lại đây một nấm mồ lẻ loi, được non xanh nước biếc ôm ấp, khắp nơi mưa gió như đang khóc cho người bạn cũ. Bản thân tác giả thì chưa dám để lòng mình quá bi lụy, phải giữ gìn tâm trí sáng suốt vì đất nước vẫn đang chìm đắm dưới ách đô hộ của thực dân.

Bài thơ này từng được sử dụng trong phần đọc thêm SGK Văn học 11 giai đoạn 1990-2006 với tiêu đề Điếu Dương Trường Đình, nhưng đã được lược bỏ trong SGK Ngữ văn 11 từ 2007.

Giản thể

清山碧水拥孤坟,风雨千涯泣故人。未敢尽情捐血泪,回头国土正沈沦

Tạm dịch

Non xanh nước biếc ôm mồ côi,

Khóc bạn gió mưa phủ núi đồi.

Chưa dám hết lòng tuôn máu mắt,

Nước nhà đương lúc ngã nghiêng trôi.

  

29/1/25

Xuân vãn

 

春 晚

年少何曾了色空,一春心在百花中。
如今勘破東皇面,禪板蒲團看墜紅。

陳仁宗

Chú

-          年少 niên thiếu: lúc còn trẻ, tuổi trẻ. 何曾 hà tằng: nào từng. liễu: hiểu biết, thấu hiểu. 色空 sắc không: thuật ngữ Phật giáo, đại khái là cái gì có hình tướng mà mắt thấy được thì gọi là Sắc, còn mắt phàm không thấy gì cả thì gọi là Không. Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa có câu câu: "Sắc tức thị không, không tức thị sắc", nghĩa là sắc và không không tách rời nhau, bản chất của sắc là không, và bản chất của không là sắc. Mọi sự vật là vô thường; do duyên hợp mà thành và khi duyên tan thì chúng cũng tan biến.

-          一春 nhất xuân: mỗi khi xuân đến. nhất, phó từ: hễ, mỗi khi. xuân, ở đây được dùng như động từ, có nghĩa là xuân đến. 心在 tâm tại: tâm hồn ở, lòng hướng về. 百花中bách hoa trung: trong trăm hoa, giữa muôn hoa.

-          如今 như kim: hiện tại, bây giờ. 勘破 khám phá: thấy rõ, thấu hiểu. 東皇面 Đông Hoàng diện: mặt Đông Hoàng (thần mùa xuân trong thần thoại Tàu).

-          禪板 thiền bản: tấm ván dùng trong thiền phòng. 蒲團 bồ đoàn: dụng cụ dùng lót để ngồi thiền, có hình tròn (đoàn: tròn), xưa bện bằng cỏ bồ, nay thì thường bằng vải dồn bông gòn. khán: nhìn. truỵ: rơi. hồng: (hoa) đỏ.

Gin th

年少何曾了色空,一春心在百花中。
如今勘破东皇面,禅板蒲团看坠红。

Âm

Niên thiếu hà tng liu sc không, Nht xuân tâm ti bách hoa trung.
Nh
ư kim khám phá đông hoàng din, Thin bn b đoàn khán tru hng.

Nghĩa.

Lúc tr nào tng hiu được l sc không. H xuân đến là lòng chìm đắm trong trăm hoa.
Nay th
ì đã thy được b mt ca chúa Xuân,  ngi trên đệm c trong thin phòng mà ngm hoa đỏ rơi rng.

Tm dch

Lúc trẻ nào từng hiểu sắc không,
Xuân về say đắm với muôn hồng.
Đến nay mặt mũi xuân đà rõ,
Ngồi ngắm hoa rơi chẳng bận lòng
.

23/1/25

Quy hứng

 

歸興 
老桑葉落蠶方盡,
早稻花香蟹正肥。

見說在家貧亦好,
江南雖樂不如歸。
阮忠彥

Chú

-          老桑lão tang: cây dâu già. 葉落diệp lạc: lá rụng. 蠶方盡tàm phương tận: kén tằm vừa hết. phương, phó từ: vừa, đang.

-          早稻tảo đạo: lúa sớm. 花香hoa hương: hoa tỏa hương thơm. 蟹正肥giải chính phì: cua đang béo. chính, phó từ: đang, chính lúc.

-          見說kiến thuyết: nghe nói. 在家tại gia: ở nhà. bần: nghèo. diệc: cũng. hảo: tốt

-          江南Giang Nam: vùng Giang Nam, Tàu, nổi tiếng cảnh vật thơ mộng. 雖樂tuy lạc: tuy vui. 不如歸bất như quy: không bằng trở về nhà. quy: trở về (nhà).

阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) tự Bang Trực, hiệu Giới Hiên, người Hưng Yên, 15 tuổi đỗ hoàng giáp (đời vua Trần Anh Tông, cùng khoa với Mạc Đĩnh Chi), trải qua nhiều chức vụ quan trọng như Kinh lược sứ Lạng Sơn, Nhập nội đại hành khiển, Thượng thư hữu bật, được phong tước Thân Quốc công. Từng được cử đi sứ qua triều Nguyên. Ông từng giữ chức Giám tu Quốc sử viện, cùng Trương Hán Siêu soạn sách Hoàng triều đại điển và bộ Quốc triều Hình luật.

Bài thơ trên đây làm khi ông đang đi sứ bên Tàu. Bài này đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học VN

Giản thể. 归兴 
老桑叶落蚕方尽,早稻花香蟹正肥。
见说在家贫亦好,江南虽乐不如归

Âm

Lão tang diệp lạc tàm phương tận, Tảo đạo hoa hương giải chính phì.
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo, Giang Nam tuy lạc bất như quy.

Nghĩa. Ưa về nhà

Dâu già, lá rụng, tằm vừa chín, Lúa sớm bông tỏa hương thơm, cua đang lúc béo. Nghe nói ở nhà dẫu nghèo vẫn tốt, Ở Giang Nam tuy vui nhưng cũng không bằng trở về nhà.

Tạm dịch

Dâu già lá rụng tằm vừa chín,

Lúa sớm bông thơm, cua béo phì.

Nghe nói ở nhà nghèo cũng sướng,

Giang Nam tuy thú chẳng như về.