30/9/22

Dịch thủy tống biệt

 

易水送別             

此地別燕丹      Thử địa biệt Yên Đan

壯士髮衝冠      Tràng sĩ phát xung quan.

昔時人已沒      Tích thời nhân dĩ một,

今日水猶寒      Kim nhật thủy do hàn.

駱賓王                    Lạc Tân Vương.

Giản thể. 此地别燕丹,壮士发冲冠。昔时人已没,今日水犹寒

Nghĩa: Chia Tay trên sông Dịch.

Đây là nơi (Kinh Kha) chia tay thái tử Đan nước Yên,
Tráng sĩ giận (vua Tần) đến tóc như dựng ngược đẩy mũ lên.
Người năm xưa giờ đã mất,
Nhưng do chuyện ấy mà ngày nay nước vẫn còn lạnh căm.

Tạm dịch

Đây nơi biệt thái tử,

Tóc dựng ngược sôi gan.

Tráng sĩ nay đà mất,

Nước sông còn lạnh căm.

Chú

- 易水 Dịch thủy: sông Dịch, xưa là ranh giới phía nam nước Yên; nay ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.

- 燕丹 Yên Đan: Thái tử Đan nước Yên.

- 壯士 tráng sĩ, chỉ Kinh Kha. Thời Chiến quốc, Thái tử Đan sai Kinh Kha hành thích vua Tần. Cuộc hành thích thất bại, Kinh Kha bị giết. Còn lưu lại hai câu ca tương truyền do chính Kinh Kha ứng khẩu ngâm trong bữa tiệc chia tay bên bờ sông Dịch (đời sau gọi là Dịch Thủy Ca):

風蕭蕭兮易水寒,壯士一去兮不復還。
Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn, Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn.
(Gió hiu hiu chừ sông Dịch lạnh, Tráng sĩ một đi chừ không hẹn về).
Chữ “hàn” trong câu thơ Lạc Tân Vương Kim nhật thủy do hàn hẳn có ý nhắc lại câu thơ của Kinh Kha.
駱賓王 Lạc Tân Vương từ nhỏ nổi tiếng thần đồng, được liệt vào "Sơ Đường tứ kiệt" (Bốn nhà thơ kiệt xuất thời Sơ Đường, gồm Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương).

29/9/22

Cửu nhật

 

九日 

九日重陽節      Cửu nhật Trùng dương tiết,

開門有菊花      Khai môn hữu cúc hoa.

不知來送酒      Bất tri lai tống tửu,

若個是陶家      Nhược cá thị Đào gia.

王勃                          Vương Bột

Giản thể: 九日重阳节,开门有菊花。 不知来送酒,若个是陶家

Nghĩa. Ngày mồng 9 (tháng 9, âm lịch)

Ngày mồng 9 tiết Trùng dương, mở cửa là thấy hoa cúc.
Không biết có ai tới tặng rượu như ông Đào ngày trước không nhỉ.

Tạm dịch

Ngày chín tiết Trùng dương,

Trước sân cúc nở vàng.

Biết còn ai tặng rượu,

Như với ông Đào chăng?

Chú

重陽節 Trùng dương tiết: tiết Trùng dương, cũng gọi tiết Trùng cửu 重九, nhằm ngày 9/9 âm lịch hằng năm. Đây là ngày lễ truyền thống của người Tàu. Trong ngày này họ thường leo lên đồi, núi cao người mang cành lá hay hạt thù du ngừa bệnh trừ tà, uống rượu hoa cúc ..

tống: đưa tiễn; đưa tặng. 奉送 phụng tống: kính đưa tặng. 送酒 tống tửu: tặng rượu. 送水 tống thủy: cung ứng nước, 送電 tống điện: cung ứng điện.

nhược: như là, giống như.

陶家 Đào gia: tức Đào Tiềm 陶潛 người đời Tấn, từ quan sống ẩn dật trong cảnh thiếu đói. Có năm vào tiết Trùng dương, ông ngồi ngắm cúc khan bên hàng dậu. Hàng xóm thấy vậy, mang rượu qua tặng.

Vương Bột còn một bài thất ngôn tuyệt cú cũng viết về tiết Trùng dương rất nổi tiếng, nhan đề "Thục trung cửu nhật".

28/9/22

Biệt nhân

 別人其二                       

江上風煙積      Giang thượng phong yên tích

山幽雲霧多      Sơn u vân vụ đa.

送君南浦外      Tống quân Nam Phố ngoại,

還望將如何      Hoàn vọng tương như hà.

王勃                          Vương Bột.

Giản thể. 江上风烟积,山幽云雾多。 送君南浦外,还望将如何

Nghĩa: Chia tay bạn.

Trên sông gió thổi mạnh, bụi nước tung lên mù mịt như khói,
Núi âm u lắm mây mù.
Tiễn bạn rời khỏi Nam Phố rồi,
Còn ngoái lại nhìn nhau xem thế nào.

Tạm dịch:

Trên sông mờ khói sóng,

Trong núi mịt mù mây.

Tiễn bạn thuyền rời bến,

Còn quay nhìn bóng nhau.

Chú

- 風煙積 phong yên tích: gió và khói tích tụ. Tả cảnh trên sông gió thổi mạnh, sóng tung bụi nước mù mịt như khói. tích: chồng chất, dày đặc.

- 雲霧 vân vụ: mây mù.

- 南浦 Nam phố = bến sông phía nam, về sau thường dùng chỉ nơi chia tay. phổ: bến sông, ta quen đọc "phố"

- 還望 hoàn vọng: quay lại xem

- 將如何 tương như hà: sẽ như thế nào. tương (phó từ) sẽ, có thể.

Đây là bài thứ 2 trong chùm bốn bài “Biệt nhân” (别人四首) của Vương Bột.

27/9/22

Sơn trung

山中                      

長江悲已滯,         Trường Giang bi dĩ trệ,       

萬里念將歸.         Vạn lý niệm tương quy.       

況屬高風晚,         Huống thuộc cao phong vãn,       

山山黃葉飛.         Sơn sơn hoàng diệp phi.       

王勃                      Vương Bột.

Giản thể. 长江悲已滞,万里念将归。 况属高风晚,山山黄叶飞

Nghĩa: Trong núi

Sông Trường Giang như bị ứ nghẹn lại vì nỗi lòng buồn đau.
Ở nơi xa cách quê nhà vạn dặm chỉ mong sớm được trở về nhà.

Nhất là vào lúc chiều thu có gió từ trên núi cao thổi,
Khắp núi lá vàng bay.

Tạm dịch:

Trường Giang lòng ứ nghẹn,

Muôn dặm ngóng đường về.

Chiều gió thu lồng lộng,

Lá vàng bay bốn bề.

Chú.

- 長江 Trường Giang = tên thường gọi của sông Dương Tử, con sông dài nhất của Tàu (gần 6.5 ngàn km)

- 山中 sơn trung = trong núi. Nhan đề bài thơ, có tài liệu ghi: 思歸 tư quy = mong về nhà.

- trệ: ứ đọng.

- 萬里 vạn lí = vạn dặm; rất xa. 念將歸 niệm tương quy: tưởng đến lúc được về nhà.

- 況屬 huống thuộc = huống là. 高風 cao phong: chỉ 秋風 gió thu, thổi từ núi cao.

王勃 Vương Bột (649-675) tự Tử An 子安, hay thơ từ nhỏ, được người đời liệt vào nhóm Sơ Đường tứ kiệt (Bốn nhà thơ kiệt xuất thời Sơ Đường, gồm Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương), lừng danh với bài Đằng vương các tự (Lạc hà dữ cô lộ tề phi, Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc .. ). Tài hoa, nhưng đoản mệnh, chết khi mới 27 tuổi, trên đường đi thăm cha ở Giao Chỉ (tên nước ta bấy giờ) về bị chìm thuyền. Tương truyền xác ông được dân vớt lên chôn ở Nghệ An.

*

Chép thêm mấy bản dịch thơ trên mạng (trang thivien . net, ..) mọi người đọc cho vui

Trường giang sầu lắng đọng,
Nghìn dặm vẫn mong về.
Gió chiều tà lồng lộng,
Lá vàng khắp sơn khê.
(Cao Nguyên)

*

Sông dài buồn chậm chảy,
Vạn dặm ngóng ngày về.
Mùa thu gió đã vãn,
Núi lá vàng tái tê.
(Trọng Vũ)

*

Lang bạt chốn Trường giang
Quê hương ngút dặm ngàn
Chiều thu dào dạt gió
Khắp núi lá rơi vàng
(Nguyễn Hữu Vinh)

*

Trường Giang sầu lắng trong lòng
Đường xa muôn dặm nhớ mong ngày về
Chiều buông gió lộng lê thê
Lá vàng quanh núi bốn bề tung bay.
(Hải Đà)

----

post 11/14/21

edit: 9/27/22

Washington, rừng thu. 10/2021 (Giap Le)

24/9/22

Đăng thành xuân vọng.

 

登城春望

物外山川近      Vật ngoại sơn xuyên cận,

晴初景靄新      Tình sơ cảnh ái tân.

芳郊花柳遍      Phương giao hoa liễu biến,

何處不宜春      Hà xứ bất nghi xuân.

王勃                          Vương Bột.

Giản thể. 物外山川近,晴初景霭新。芳郊花柳遍,何处不宜春

Nghĩa. Lên thành ngắm xuân.

Đặt mình ra ngoài những lo toan cuộc sống thì thấy sông núi gần gũi,
Trời vừa tạnh những đám khói mây mới xuất hiện.
Ngoài thành thơm tho với hoa, liễu khắp nơi,
Chỗ nào không có sắc xuân?

Tạm dịch.

Ra ngoài sông núi gần,

Trời mới tạnh mây vần.

Khắp chốn thơm hoa liễu,

Chỗ nào không bóng xuân?

Chú.

物外 vật ngoại: ở ngoài mọi thứ mọi loài, ý nói ở ngoài cuộc đời, ngoài thế tục, không dính dấp với đời.

ái: khí mây, mây khói, sương mù. 煙靄 yên ái: khí mây mù như khói.

芳郊 phương giao /fāng jiāo/: ngoài thành hoa cỏ tốt tươi. phương: thơm; tốt đẹp. 流芳百世 lưu phương bách tuế: để tiếng thơm trăm đời. 芳菲 phương phi: (cỏ hoa) sum suê tươi đẹp; hương thơm của cỏ hoa. giao: ngoại thành. Xưa, chỗ cách xa nước một trăm dặm. 近郊 cận giao: khu gần thành.

biến: khắp nơi, như chữ “biến” . 朋友遍天下 bằng hữu biến thiên hạ: bạn bè ở khắp đó đây. Làm lượng từ, có nghĩa là đợt, lượt. 讀書百遍 độc thư bách biến: đọc sách trăm lượt.

16/9/22

Mẫn nông 2

Hồi nhỏ, đọc bài thơ 

Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

cứ nghĩ là ca dao. Rất lâu sau này mới biết đó là bản dịch tuyệt hay bai thơ Mẫn nông (2) của Lí Thân. (Mẫn nông 1 đã học hôm trước)

憫農 (2)

鋤禾日當午,
汗滴禾下土。
誰知盤中餐,
粒粒皆辛苦。
李紳

Giản thể

锄禾日当午,
汗滴禾下土。
谁知盘中餐
,
粒粒皆辛苦

Âm

Sừ hoà nhật đương ngọ,
Hãn trích hoà hạ thổ.
Thuỳ tri bàn trung xan,
Lạp lạp giai tân khổ.
Lí Thân.

Chú

憫 mẫn: thương xót.

鋤禾 sừ hòa: dùng cuốc làm cỏ lúa. 鋤 sừ: cuốc. Theo sách Tam thiên tự thì sừ là bừa (sừ bừa cúc cuốc chúc đuốc đăng đèn .. ), nhưng tra các từ điển của người Tàu thì đều mô tả sừ là cuốc.

當午 đương ngọ: đương lúc trưa, giữa trưa. 當 đương: ngay khi. 

汗滴 hãn tích: mồ hôi nhỏ giọt. 滴 tích: nhỏ, giọt. Ta quen đọc là "trích".

禾下土 hòa hạ thổ: đất dưới chân lúa.

盤中餐 bàn trung xan: bữa cơm trên mâm. 餐 xan: cơm, thức ăn; bữa ăn. 午餐 ngọ xan: bữa ăn trưa. 

粒 lạp: hạt (gạo, cơm).

辛苦 tân khổ: cay đắng, nhọc nhằn. 辛 tân: vị cay. 苦 khổ: vị đắng.

李紳 Lí Thân (772-846), nhà thơ thời Trung Đường

Nghĩa

Dùng cuốc làm cỏ lúa lúc trời đang trưa,
Mồ hôi nhỏ giọt rơi xuống ruộng lúa.
Ai biết rằng trên mâm cơm kia,
Từng hạt từng hạt đều cay đắng.

Tạm dịch:

Cày đồng trưa nắng to,
Giọt giọt mồ hôi nhỏ.
Bưng cơm ăn ai hay,
Hột hột bao gian khó.

Chép thêm một số bản dịch đcọ được trên trang thiviên . net

Khương Hữu Dụng:
Xới lúa, trời đứng bóng,
Mồ hôi đổ xuống ruộng.
Ai biết cơm trong mâm,
Hạt hạt đều cay đắng.

Lê Nguyễn Lưu:
Cấy lúa giữa ban trưa,
Mồ hôi ngoài ruộng đổ.
Ai hay một bát cơm,
Hạt hạt đầy tân khổ.

Thiên Thanh:
Làm cỏ giữa trưa nắng,
Mồ hôi nhỏ xuống đồng.
Ăn cơm có ai nghĩ,
Mỗi hạt khổ cực không?

Hình trên mạng


Mẫn nông

 憫農 (1)

春種一粒粟,
秋收萬顆子。
四海無閑田,
農夫猶餓死.
李紳

Giản thể:

         春種一粒粟,
秋收萬顆子。
四海無閒田,
農夫猶餓死
.

Âm Hán Việt

Mẫn Nông

Xuân chủng nhất lạp túc,
Thu thâu vạn khoả tử.
Tứ hải vô nhàn điền,
Nông phu do ngạ tử.

Lí Thân

Chú:

- 憫農 mẫn nông = thương xót nhà nông.

- 一粒粟 nhất lạp túc = một hột lúa.

- 顆子 khỏa tử = hạt

- 四海 tứ hải = bốn biển, chỉ khắp nơi.

- 閑田 nhàn điền = ruộng bỏ không.

- 猶 do = (phó từ) còn, mà còn. Do 猶 vốn là tên một loài thú có tính đa nghi, như con dự, người ta lấy tên hai loài thú này kết hợp thành từ do dự chỉ sự đa nghi lưỡng lự không có quyết định dứt khoát.

- 餓死 ngạ tử = chết đói. (Ngạ quỷ = quỷ đói). 

Lí Thân (772 - 846) quan đại thần, đồng thời là nhà thơ thời Trung Đường. Ông nổi tiếng với hai bài thơ Mẫn nông, đây là bài thứ nhất.

Nghĩa: Xót nhà nông

Mùa xuân gieo một hạt lúa, đến mùa thu thu được vạn hạt thóc.
Khắp nơi không có ruộng bỏ hoang, nông phu vẫn còn người chết đói.

Tạm dịch:

Xuân đến gieo một hột,
Thu về gặt cả hôc. 
Ruộng không thửa bỏ hoang,
Nông dân vẫn đói rộc.

Chép thêm một số bản dịch trên trang thivien . net, mọi người đọc cho vui

Khương Hữu Dụng:

Một hạt mùa xuân gieo,
Muôn hạt mùa thu hái.
Bốn biển không đất hoang,
Nhà nông còn chết đói!

Lê Nguyễn Lưu:

Một hạt mùa xuân gieo,
Muôn hạt mùa thu kết.
Bốn bể ruộng không hoang,
Nông dân còn đói chết!

Cao Tự Thanh: 

Mùa xuân gieo một hạt con,
Vào thu gặt vạn hạt tròn về tay.
Ruộng nương khắp chốn giăng bày,
Nhà nông có kẻ chết vì thiếu ăn.

Hình: trên net


14/9/22

Bộ sách của Đoàn Thêm

Đoàn Thêm (1915 - 2005), quê Hà Đông, Hà Nội, đỗ cử nhân luật trước 1945. Sau 1954 vào Nam, làm đổng lí văn phòng phủ Tổng thống. Sau 1963 ông về nhà viết văn làm báo. Năm 1983 ông được con cháu bảo lãnh qua Canada định cư, mất ở đó năm 2005, thọ 90 tuổi. 

Các tác phẩm chính:

Về kí sự biên niên
- Hai mươi năm qua (1945-1964) (1966)
- Việc từng ngày 1965, 1966, 1967, 1968, 1969, (1969)
- Những ngày chưa quên (1967)
- Những ngày muốn quên (1992)
- Lược khảo về hiến pháp các nước Á đông
- Lược khảo về chính đảng

Về văn chương, nghệ thuật
- Nhạc dế (thơ, 1960)
- Vườn mây (thơ, 1961)
- Hòa âm (thơ, 1961)
- Tìm đẹp (nghị luận hội họa, 1964)
- Tìm kiểu hội họa (1965)
- Quan niệm sáng tác thơ (theo lời thi nhân và học giả Tây phương, 1962)
- Từ Thức (thơ)
- Taj Mahal (thơ)

trong link dưới đây có các bộ sách 
- Những ngày chưa quên 1954 - 1965
- "Việc từng ngày" các năm 1965, 1968, 1969,  1971; 
- 20 năm qua 1945 - 1965
- Lược khảo các chính đảng.


Hình: Bìa và một trang trong tập Việc từng ngày 1965







10/9/22

Lâm chung thi

 

臨終詩 

生在陽間有散場       Sinh tại dương gian hữu tán trường,

死歸地府也何妨       Tử quy địa phủ dã hà phương.

陽間地府俱相似       Dương gian địa phủ câu tương tự,

只當漂流在異鄉       Chỉ đáng phiêu lưu tại dị hương.

唐寅                                      Đường Dần.

Giản thể. 生在阳间有散场,死归地府也何妨。 阳间地府俱相似,只当漂流在异乡。

Nghĩa: Thơ viết lúc lâm chung

Sống trên cõi dương thì phải có lúc kết thúc, chết về cõi âm thì có chi trở ngại?
Cõi dương hay cõi âm đều như nhau cả, chỉ là phiêu lưu hai chỗ khác nhau thôi.

Tạm dịch

Sống ở dương gian hợp lại tan,

Chết về âm phủ chẳng bàng hoàng.

Dương gian âm phủ như nhau cả,

Chỉ đến chơi nơi khác nẻo đàng.

Chú

臨終 lâm chung, như lâm tử 臨死: sắp chết. lâm (phó từ): sắp. chung: chấm dứt, kết thúc.

陽間 dương gian: cõi dương, cõi đang sống; trái với cõi âm, là cõi được tin là người sau khi chết thì về đó ở. gian: khoảng.

散場 tán tràng: lúc tan rã, kết thúc. tán: tan. tràng, thường đọc là trường, ngoài nghĩa thường gặp là chỗ đất trống, rộng phẳng hoặc nơi đông người làm việc, còn là thuật ngữ dùng trong hí kịch, có nghĩa là đoạn, cảnh, như khai tràng = cảnh mở đầu, chung tràng = cảnh kết thúc. Tác giả coi cuộc đời cũng là một vở kịch, có cảnh kết thúc, mà tác giả gọi là tán tràng.

地府 địa phủ, như âm phủ 陰府, âm ti 陰司, cửu tuyền 九泉 là nơi được cho là người chết ở.

phương: tổn hại, trở ngại.

俱相似 câu tương tự: đều giống nhau. câu: đều. tự: giống, như.

只當 chỉ đương: làm như. đương: coi như, lấy làm. 寒夜客來茶當酒 hàn dạ khách lai trà đương tửu: đêm lạnh khách đến trà coi như rượu.

漂流 phiêu lưu: lênh đênh, trôi dạt. phiêu: nổi, trôi, lềnh bềnh. lưu: trôi chảy.

異鄉 dị hương: nơi chốn khác. dị: khác, hương: phiếm chỉ khu vực, xứ sở ( hương, nghĩa thường gặp: làng, quê nhà)

唐寅 Đường Dần, tự 伯虎 Bá Hổ, là thư họa, nhà thơ nổi tiếng đời Minh. 

Tài hoa nhưng cuộc đời khá lận đận, mấy lần phải chịu tù oan, mất lúc chỉ mới 54 tuổi. Bài thơ viết khi ông sắp mất.

Đường Dần. Phong trúc đồ.


3/9/22

Biệt thân bằng . Trịnh Thục Tân



別親朋          Biệt thân bằng
畏途方萬里, Úy đồ phương vạn lí,
生涯近百年。 Sinh nhai cận bách niên.
不知將白首, Bất tri tương bạch thủ,
何處入黃泉? Hà xứ nhập hoàng tuyền.
鄭蜀賓          Trịnh Thục Tân


Chú
- 途 đồ: đường đi. 萬里 vạn lí: vạn dặm.
- 生涯 sinh nhai: chỉ phương cách kiếm sống, kế mưu sinh.
- 將白首 tương bạch thủ: sắp bạc đầu. 將 tương (phó từ) sắp.
- 何處 hà xứ: nơi đâu. 黃泉 hoàng tuyền: suối vàng.
鄭蜀賓 Trịnh Thục Tân là nhà thơ thời Sơ Đường, sở trường thơ ngũ ngôn, nhưng chỉ còn lưu lại trong sách Toàn Đường Thi một bài thơ “Biệt thân bằng” này, làm trong buổi bạn bè tiễn biệt đi nhận chức huyện úy ở Giang Tả lúc tuổi đã lớn. Ít lâu sau ông chết ở đó, lúc đương chức.


Nghĩa: Chia tay bạn bè thân thiết
Sợ thay đường xa vạn dặm, (lận đận) kế sinh nhai gần trăm năm.
Đầu sắp bạc trắng rồi, không biết rồi đây sẽ chết nơi nào.


Tạm dịch

Ngán nỗi đường muôn dặm,
Gần trăm còn chạy ăn.
Rồi mai kia tóc trắng,
Đâu chốn gởi xương tàn
.

Vài bản dịch thơ chép lại từ trang thivien . net


Đường hoạn muôn trùng nhiều hiểm trở,
Đời người trăm tuổi khổ sinh nhai.
Đành đem tóc trắng liều thân thế,
Gởi xác nơi nào thật chẳng hay.
Cao Tự Thanh


Đường quan hiểm hóc sợ muôn trùng,
Trăm tuổi vẫn còn lo khốn cùng.
Chẳng biết cái già sầm sập đến,
Suối vàng nào chốn nhập thân chung.
Lương Trọng Nhàn


Con đò nhỏ. Photo: Đơn Hùng Oai


2/9/22

Sơn trung . Vương Bột

 

山中                      

長江悲已滯,         Trường Giang bi dĩ trệ,       

萬里念將歸.         Vạn lý niệm tương quy.       

況屬高風晚,         Huống thuộc cao phong vãn,       

山山黃葉飛.         Sơn sơn hoàng diệp phi.        

王勃                      Vương Bột.

Giản thể. 长江悲已滞,万里念将归。 况属高风晚,山山黄叶飞

Nghĩa: Trong núi

Sông Trường Giang như bị ứ nghẹn lại vì nỗi lòng buồn đau.
Ở nơi xa cách quê nhà vạn dặm chỉ mong sớm được trở về nhà.
Nhất là vào lúc chiều thu có gió từ trên núi cao thổi,
Khắp núi lá vàng bay.

Tạm dịch:

Trường Giang lòng nghẹn ứ,

Muôn dặm ngóng đường về.

Chiều gió thu lồng lộng,

Lá vàng bay bốn bề.

Chú.

- 長江 Trường Giang = tên thường gọi của sông Dương Tử, con sông dài nhất của Tàu (gần 6.5 ngàn km)

- 山中 sơn trung = trong núi. Nhan đề bài thơ, có tài liệu ghi: 思歸 tư quy = mong về nhà.

- trệ: ứ đọng.

- 萬里 vạn lí = vạn dặm; rất xa. 念將歸 niệm tương quy: tưởng đến lúc được về nhà.

- 況屬 huống thuộc = huống là. 高風 cao phong: chỉ 秋風 gió thu, thổi từ núi cao.

王勃 Vương Bột (649-675) tự Tử An 子安, hay thơ từ nhỏ, được người đời liệt vào nhóm Sơ Đường tứ kiệt (Bốn nhà thơ kiệt xuất thời Sơ Đường), lừng danh với bài Đằng vương các tự (Lạc hà dữ cô lộ tề phi, Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc .. ). Tài hoa, nhưng đoản mệnh, chết khi mới 27 tuổi, trên đường đi thăm cha ở Giao Chỉ (tên nước ta bấy giờ) về bị chìm thuyền. Tương truyền xác ông được dân vớt lên chôn ở Nghệ An.


Thư pháp của 戴紹卿 (Đái Thiệu Khanh)
Hình trên internet