31/8/24

THU NHẬT NGẪU THÀNH

 Nguyễn Tử Thành

---

秋日偶成  

千村木葉盡黃落,

獨立西風拂鬢絲。

歲月堂堂留不得,

昨非今是只心知。

阮子成


Âm

Thiên thôn mộc diệp tận hoàng lạc,

Độc lập tây phong phất mấn ti.

Tuế nguyệt đường đường lưu bất đắc,

Tạc phi kim thị chỉ tâm tri


Nghĩa

Khắp các thôn xóm lá cây đều vàng và rụng hết,

Đứng một mình, ngọn gió tây thổi bay mấy sợi tóc mai.

Năm tháng lừng lững qua không giữ được,

Trước sai nay đúng chỉ lòng mình biết.


Tạm dịch

Khắp xóm lá vàng rơi lả tả,

Một mình gió thoảng tóc bay bay.

Tháng năm lừng lững lưu không đặng,

Phải quấy chuyện đời lòng tự hay.


Giản thể

千村木叶尽黄落,

独立西风拂鬓丝。

岁月堂堂留不得,

昨非今是只心知。


Chú. 

阮子成 Nguyễn Tử Thành (? - ?), sống vào đời Trần.

25/8/24

THƯ TRAI MẠN HỨNG 1

Ông Thừa Tán

---
書齋漫興其一
池塘四五尺深水,
籬落兩三般樣花。
過客不須頻問姓,
讀書聲裏是吾家。
翁承贊
Âm.
Trì đường tứ ngũ xích thâm thủy,
Li lạc lưỡng tam ban dạng hoa.
Quá khách bất tu tần vấn tính,
Độc thư thanh lí thị ngô gia.
Nghĩa.
Ao nước sâu bốn năm thước, Hàng rào hoa có hai ba loài. Khách đi qua không cần hỏi tới hỏi lui tên họ. Nhà nào trong có tiếng đọc sách thì đó là nhà của tôi.
Tạm dịch
Trong ao nước khoảng bốn năm thước,
Ngoài giậu hoa chừng ba bốn cây.
Khách tới thăm nhà khỏi cần hỏi,
Nghe đâu ngâm ngợi cứ vào ngay.
Giản thể
池塘四五尺深水,篱落两三般样花。
过客不须频问姓,读书声里是吾家。
Chú
籬落 như 籬笆: hàng rào, giậu. 落 danh từ: hàng rào.
Ông Thừa Tán 翁承贊 (859-932) tự Văn Nghiêu 文堯, nhà thơ thời Vãn Đường.

16/8/24

Thư đường tức sự

 書堂即事

月影穿窗淡,燈花照鬢明。
詩懷吟未穩,何處曉鐘聲。
黎蘇

Âm:

Nguyệt ảnh xuyên song đạm, Đăng hoa chiếu mấn minh.
Thi hoài ngâm vị ổn, Hà xứ hiểu chung thanh. 
Lê Tô

Nghĩa:

Ánh trăng mờ xuyên qua cửa sổ, Hoa đèn chiếu sáng tóc mai. Bài thơ đang nghĩ, đọc lên chưa thấy ổn, Từ đâu vang lên tiếng chuông sớm.

Tạm dịch

Bóng nguyệt mờ qua cửa,
Hoa đèn sáng tóc mai.
Thơ làm chưa thấy ổn,
Chuông sớm đâu ngân dài.

Chú

Lê Tô 黎蘇 tự Minh Phục, sống dưới triều Lê Sơ, làm quan đến chức Hàn lâm viện Hiệu thảo.

15/8/24

Sến hay không sến

 

Lê Hữu: Nhạc vàng boléro, sến hay không sến?

“Nhạc boléro có là nhạc sến?” Người bạn hỏi, trong một buổi họp mặt bạn bè có màn phụ diễn karaoke.

“Có sến và không sến,” tôi nói.

Người bạn có vẻ không thỏa mãn câu trả lời vắn tắt và tôi cũng không tiện dông dài. Chỉ có viết xuống, tôi nghĩ, mới nói thêm cho rõ được.  

“Nhạc vàng boléro” hay “dòng nhạc boléro” trong bài là cách gọi ở trong nước, không chỉ dành cho những bài nhạc Việt thể điệu boléro mà gồm cả các thể điệu khác như slow rumba, ballad, habanera và cả slow, slow rock đôi khi. Những người yêu chuộng “dòng nhạc” này gọi đấy là “nhạc trữ tình” hay “nhạc quê hương”, những người không yêu cũng chẳng ghét gọi là “nhạc đại chúng”, những người không yêu nổi gọi là “nhạc sến”. 

Sến Là Sao, Sao Gọi Là Sến?

“Nhạc sến” là cách gọi chung chung, ngụ ý rẻ rúng, xem thường, hạ thấp giá trị. Nhiều người chỉ quen miệng gọi khơi khơi như vậy chứ cũng chẳng nói rõ là sến ở chỗ nào, vì sao gọi là sến. 

Sến ở thể điệu boléro chăng? 

Trước hết, nói về nhạc boléro, chiếm phần lớn trong số “dòng nhạc” này và cũng là tiêu biểu cho dòng “nhạc vàng” miền Nam.

Nói nhạc boléro là nhạc sến kể cũng oan cho thể điệu nhạc này. Thứ nhất, một thể điệu nhạc tự nó không sến, cũng chẳng sang. Boléro là một thể điệu nhạc, được “Việt hóa” khi du nhập vào làng tân nhạc Việt với tiết tấu chậm rãi, nhịp phách kéo lơi ra, nghe xập xình, rỉ rả, khá phù hợp với tai nghe nhạc của người mình, vốn quen thuộc với điệu hát câu hò miền Nam, với dân ca và làn điệu cổ nhạc dân tộc. 

Thứ hai, nếu có sến thì cũng tùy bài, không phải bài nào cũng sến. Nhiều bài boléro ở thời kỳ đầu của thể điệu này, như “Nắng chiều” (Lê Trọng Nguyễn, 1953), “Các anh đi” (Văn Phụng, 1954), “Trăng rụng xuống cầu” (Hoàng Thi Thơ, 1956), “Xóm đêm” (Phạm Đình Chương, 1957), “Chiều hành quân” (Lam Phương, 1958), “Trăng soi duyên lành” (Trịnh Hưng, 1958), “Thuyền trăng” (Nhật Bằng & Thanh Nam, 1958), “Bến giang đầu” (Lê Trọng Nguyễn, 1959), hoặc những bài ở đầu thập niên 1960s như “Mười thương” (Phạm Đình Chương), “Giã từ đêm mưa” (Văn Phụng), “Cánh hoa xuân” (Nguyễn Hữu Thiết), “Ai lên xứ hoa đào” (Hoàng Nguyên), “Tôi trở về thành phố” (Y Vân & Hoàng Huy) và cả những bài “nhạc lính” như “Biệt kinh kỳ” (Minh Kỳ & Hoài Linh), “Chiều biên khu” (Tuấn Khanh & Châu Ngân), “Mười sáu trăng tròn” (Trần Thiện Thanh), “Trăng tàn trên hè phố” (Phạm Thế Mỹ)… được yêu thích một thời, và thời ấy không nghe ai gọi những bài này là “sến” cả. 

Vậy thì, nhạc boléro bắt đầu “sến” từ lúc nào? Vì sao lại được/bị dán nhãn là “nhạc sến”? 

Sến ở người chuyên viết nhạc boléro chăng?

Nếu không hẳn bài boléro nào cũng sến thì cũng không hẳn bài nào được các nhạc sĩ sở trường thể điệu boléro viết ra cũng đều sến cả. Những bài như “Nỗi lòng người đi” (Anh Bằng), hoặc “Cho em quên tuổi ngọc” (Lam Phương), hoặc “Chiều trên Phá Tam Giang” (Trần Thiện Thanh & Tô Thùy Yên) vẫn được nhiều ca sĩ chọn hát trong các chương trình nhạc “sang”, khiến người yêu nhạc phải thay đổi cái nhìn về các nhạc sĩ “chuyên trị” sáng tác nhạc boléro này.

Du Tử Lê là một trong những nhà thơ có nhiều bài thơ được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc nhất, nhưng chỉ ít bài phổ biến. Hai bài phổ thơ ông được yêu chuộng nhất, theo nghĩa được nhiều người hát nhiều người nghe nhất, một bài trước năm 1975 là “Trên ngọn tình sầu” của Từ Công Phụng, một bài sau năm 1975 là “Khúc thụy du” của Anh Bằng, vẫn được biết đến như tác giả nhiều bài boléro quen thuộc. 

Những nhạc sĩ như Y Vân, Nguyễn Hiền, Tuấn Khanh viết nhiều thể điệu nhạc, gồm cả những bài boléro được yêu thích và phổ biến, cho thấy sến, sang gì cũng có cả, cứ món nào được ưa chuộng là dọn ra.

Nếu không phải sến ở thể điệu nhạc hay ở người viết nhạc, hẳn sến ở lời ca, giọng hát.

Sến ở ca từ bài boléro chăng?

Người Việt mình có khuynh hướng nghe nhạc là nghe lời ca hơn là điệu nhạc, thế nên khi nghe những lời ca sên sến thì gọi là “nhạc sến”. Những bài nhạc này thường là những lời kể lể than van, nỉ non ai oán. Nếu không là chuyện chúng mình, chuyện đôi ta, hoàng hậu quân vương, thiệp hồng nhẫn cưới, pháo hồng xe hoa thì cũng là chuyện tình dở dang, duyên phận lỡ làng, thề non hẹn biển, lỗi hẹn bội thề, kiếp này kiếp sau, tình đời đen bạc, thân phận nghèo hèn… cũng từa tựa cách gọi những “tiểu thuyết ba xu”, những “báo lá cải” để chỉ loại sách báo rẻ tiền, dành cho giới độc giả bình dân.

Đại để, những câu hát trong ít bài boléro quen thuộc,

Anh ơi! Nếu mà sau này giấc mộng không thành

Thì đành đôi ngả chia ly / chớ đừng ưu sầu làm… chi

(“Đôi ngả chia ly”, Khánh Băng), hoặc 

Tình mình chia phôi nhưng tình đầu làm vơi / nên từ đó em… buồn

(“Từ đó em buồn”, Trần Thiện Thanh), hoặc

Thời gian bôi xóa áo anh nhạt phai / chớ không phai nhạt… tình 

(“Kể chuyện trong đêm”, Hoàng Trang), hoặc 

Nếu duyên không thành, Điệp ơi Lan cắt tóc quên đời vì… anh 

(“Truyện tình Lan và Điệp”, Mạc Phong Linh & Mai Thiết Lĩnh)

Những chỗ xuống giọng ở cuối câu nghe mướt như xuống câu vọng cổ mùi rệu vẫn được người miền Nam yêu chuộng, chỉ thiếu tràng pháo tay lộp bộp tán thưởng.

“Nhạc vàng boléro” từng được/bị gọi là “nhạc sến” một phần cũng từ những chỗ mùi mẫn này. Lời ca điệu nhạc gần gần những bài vọng cổ, cải lương. Những bài hát này thường được biên soạn, giao lưu với làn điệu cổ nhạc thành bài “tân cổ giao duyên”, một hình thức phối hợp nghệ thuật.

Sến ở giọng ca “chuyên trị” nhạc boléro chăng? 

Liệu có những giọng ca, mỗi khi cất giọng là nghe sến sền sệt? Giọng sến dễ nhận ra, thường là giọng kém tự nhiên, nhừa nhựa, rền rĩ như băng nhạc bị nhão, ngân nga luyến láy tùy tiện và thường biểu diễn những kiểu rên xiết, những cú nấc nghẹn não nùng. Khi trình diễn, lúc thì vung vẩy tay chân, lúc thì nhắm tịt mắt lại.

Một bài hát sến đúng điệu là sến từ giọng hát đến lời ca. 

Lại có khi, cùng một bài boléro ấy, ca sĩ này hát nghe sến, ca sĩ kia hát lại không nghe sến hoặc bớt sến hơn, cho thấy một bài nhạc sến ở giọng hát hơn là lời ca.

Nhớ nhớ thuở nào, anh (đây) làm công, em (thì) gánh rong

miếng trầu cau nên đôi vợ chồng / đôi vợ (ừ) chồng

Bài “Tình nghèo” của Phạm Duy (phổ thơ Hồng Nam) cũng nói về cuộc tình duyên của những lứa đôi thuộc tầng lớp lao động nghèo khó nhưng lại không nghe “sến”, do không được những giọng ca “sến” trình diễn.

Những bài boléro được yêu thích thường là những bài buồn buồn, ít có bài nào vui vui. Nếu những bài hát có lời ca não nuột, than thân trách phận đều là sến cả thì không chỉ boléro mà các thể điệu khác lắm khi cũng sến, có khi còn sến hơn cả nhạc boléro nữa. 

Slow, slow rock cũng sến, 

Anh/em ơi, nếu mộng không thành thì sao?…

(“Duyên kiếp”, Lam Phương)

Boston cũng sến,

Nếu biết rằng tình là giây oan…

Nếu biết rằng yêu là đau khổ / thà dương gian đừng có chúng mình 

(“Sang ngang”, Đỗ Lễ)

Tango cũng sến,

Em ơi! Lệ ướt hoen mi / còn ước mong chi

Kiếp sau chờ nhau em nhé / thôi sầu biệt ly

(“Nếu đừng dang dở”, Hoài Linh)

Đến cả những bài chachacha, hoặc chơi với thể điệu chachacha, cũng sến,

Nhiều đêm chăn gối / bên người không quen biết

sao tim em cảm thấy như cô đơn

Tại em không nói / hay tại anh không biết

mà tình ta tan vỡ theo thời gian

(“Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi”, Lam Phương)

Chỉ kể ra một vài. “Nhạc vàng” nói chung, có khi ca từ “sến” nhưng cất lên từ giọng ca nào đó lại không thấy sến, hoặc bớt sến, như Thái Thanh, Lệ Thu hát Thôi nín đi em, lệ đẫm vai rồi (“Sang ngang”, Đỗ Lễ) hay Anh Ngọc, Sĩ Phú hát Lòng vẫn biết nếu yêu rồi một ngày / là đến với đớn đau / nhưng sao trong ta cứ vẫn yêu vẫn nhớ (“Nỗi lòng”, Nguyễn Văn Khánh). Hoặc, cũng những giọng ca này,

Em ơi tình duyên lỡ làng rồi / còn đâu nữa mà chờ

Anh đi lòng vương vấn lời thề / nhớ kiếp sau chờ nhau

(“Gợi giấc mơ xưa”, Lê Hoàng Long) 

Cũng khổ vì yêu, cũng thề non hẹn biển, cũng duyên phận lỡ làng, cũng kiếp này kiếp sau nhưng không gọi là “sến” và còn được cho vào các chương trình… nhạc sang.

Thể điệu boléro tự nó không sến, chỉ sến khi được viết bằng giai điệu lóc ca lóc cóc lồng vào lời ca sướt mướt, nỉ non và được “biểu diễn” bởi những giọng ca mùi mẫn. Cần hội đủ những yếu tố này mới được gọi là “tuyệt đỉnh nhạc sến”, như cách gọi ở trong nước. 

Tên Gọi Khác Cho “Nhạc Vàng Bolero”

Người Việt mình, như nói ở trên, khi nghe nhạc là nghe ca từ của bài nhạc, khi thích bài nhạc nào là thích những tình ý trong câu hát lời ca của bài nhạc ấy. Điều này càng rõ nét trong những bài “nhạc vàng boléro”.

Thể điệu boléro Việt thích hợp với những câu chuyện kể, mang tính tự sự, những bài hát nếu không có cái tựa “Chuyện hai người”, “Chuyện hẹn hò”, “Chuyện tình đầu”, “Chuyện một người đi”… thì cũng là những câu hát bắt đầu bằng “Người ơi” hoặc “Ngày xưa”…

Người ơi, tôi kể lại chuyện xưa / bao kỷ niệm êm ái lúc tuổi còn thơ…

(“Nhớ một người”, Hoài Linh & Mạnh Phát)

Người ơi, nếu thương rồi chớ để nhạt màu son trên đôi môi…

(“Chuyến đi về sáng”, Mạnh Phát)

Người ơi, khi cố quên là khi lòng nhớ thêm… 

(“Sầu lẻ bóng”, Anh Bằng)

Ngày xưa, tôi có quen một người em gái nhỏ…

(“Ngày sau sẽ ra sao?”, Vân Tùng)

Ngày xưa anh nói “Anh thương có em thôi, không ai ngoài em nữa”… 

(“Ngày xưa anh nói”, Thúc Đăng & Thanh Tuyền)

Vào chuyện ngày xưa, nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai…

(“Những đồi hoa sim”, Dzũng Chinh, ý thơ Hữu Loan)

“Màu tím hoa sim” của Hữu Loan là một trong những bài thơ được các nhạc sĩ miền Nam phổ nhạc nhiều nhất. Tác giả bài thơ từng bộc lộ, trong số những bài nhạc phổ cùng bài thơ ấy, bài “Những đồi hoa sim” của Dzũng Chinh gần với tâm tình của ông hơn cả. Giai điệu nghe man mác, vời vợi chứ không bi lụy, khá phù hợp với giọng thơ. Bài hát phổ biến rộng rãi, là một trong những bài boléro được yêu thích nhất, cũng cho thấy thể điệu boléro là thích hợp hơn hết để kể lại câu chuyện tình thời chiến ấy.

Một số ca sĩ được yêu chuộng ở những thể điệu nhạc khác, vẫn hát nhạc boléro, tuy không phải sở trường, như Anh Ngọc hát “Các anh đi” (Văn Phụng); Sĩ Phú hát “Biệt kinh kỳ” (Minh Kỳ & Hoài Linh), “Tuyết trắng” (Anh Chương); Duy Trác hát “Thuyền trăng” (Nhật Bằng & Thanh Nam), “Múc ánh trăng vàng” (Hoàng Thi Thơ); Lệ Thu hát “Đò chiều” (Trúc Phương), “Sầu lẻ bóng” (Anh Bằng), “Cho tôi được một lần” (Bảo Thu); Khánh Ly hát “Chiều cuối tuần” (Trúc Phương), “Hoa biển” (Anh Thy), “Hai sắc hoa Tigôn” (Trần Thiện Thanh); Thái Thanh hát “Xóm đêm” (Phạm Đình Chương), “Ngày tạm biệt” (Lam Phương), “Chiều biên khu” (Tuấn Khanh & Châu Ngân), “Chuyện tình TTKH” (Song Ngọc)… Riêng tôi vẫn thích nghe một bài boléro, qua giọng nhấn, vuốt, láy lượn mượt mà của Thái Thanh, kể về niềm thương nỗi nhớ của người ở lại, mòn mỏi đợi chờ một người biền biệt đi xa, đi mãi không về.

Gửi về anh một lá thư / em viết bên đèn khuya

Thời gian len lén đi mãi không ngừng / đêm tối mơ hồ…

(“Gửi về anh”, Đỗ Thu)

Có khi người ta thích bài nhạc nào chỉ vì thích câu hát nào trong bài nhạc ấy. Một cô bạn tôi thích câu hát trong một bài boléro, chỉ câu ấy thôi và cũng chẳng biết tên bài hát, tên tác giả. Hẳn cô có nỗi niềm tâm sự nào đó gửi vào trong câu hát,

Từ giã thơ ngây em đi lấy chồng

Người ấy hay tin có buồn lắm không? *

Trong những bài boléro, ta nghe được những lời thật đẹp như,

Tình yêu như nụ hoa
chỉ nở một lần thôi / chỉ đẹp một lần thôi
(“Chuyến đi về sáng”, Mạnh Phát), hay

Tìm nhau trong mầu hoa pensee tím chơi vơi

Tìm nhau trong mơ / dắt nhau sang bờ yên vui

(“Cánh hoa yêu”, Hoàng Trọng & Vĩnh Phúc) 

Những câu hát như lời tình tự ngọt ngào dẫn người nghe đi vào những câu chuyện lòng qua giai điệu dặt dìu, để lại chút bâng khuâng. Có thể nói không người Việt yêu nhạc nào mà không từng buột miệng hát vu vơ một vài câu hát boléro.

Thường thì khi mới tập tành chơi nhạc Việt, ai cũng chọn đàn hát những bài bản nếu không là boléro thì cũng ballad, habanera…, vừa là những thể điệu xập xình dễ đàn dễ hát, vừa mượn những câu hát để trang trải nỗi lòng, như là Thôi hết rồi người đã xa tôi / quên hết lời thề ngày xa xôi (“Tình yêu trả lại trăng sao”, Lê Dinh) hay là Anh sẽ đi tìm trong lãng quên / nhưng cố quên lại càng nhớ thêm / vì trót yêu rồi (“Đoạn tuyệt”, Phượng Linh)… 

Người ta thích nghe, thích hát “nhạc vàng boléro” như thích đọc, thích xem những câu chuyện, bài thơ, bức tranh dễ hiểu, dễ gây cảm xúc. Những câu hát đi thẳng vào lòng người, chạm ngay vào trái tim, không phải vòng vèo bóng gió xa xôi. Những lời ca bình dị, ai nghe cũng hiểu, không cần bóp trán suy gẫm cho mệt óc, như là

Không biết đêm nay vì sao tôi buồn!? 

(“Đèn khuya”, Lam Phương)

Nhạc boléro còn được gọi là “nhạc đại chúng”, tùy cách hiểu mỗi người, có điều “nhạc đại chúng” được yêu thích rộng rãi không phải là ai cũng sáng tác được, và hẳn là nhiều tác giả hoạt động trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật vẫn chỉ mong tác phẩm của mình đến được với đông đảo quần chúng. 

Ngày trước người ta cũng chẳng xếp hạng, phân loại “nhạc sến”, “nhạc sang” (chữ “sang” chỉ để phân biệt với “sến”, nhiều bài không “sến” nhưng cũng chẳng “sang”), người yêu nhạc tùy nghi chọn “món” nào mình yêu chuộng.

Một cô ca sĩ trẻ ở hải ngoại khi được hỏi thích thể loại nhạc nào, trả lời, “Em thích hát nhạc thính phòng”, như một kiểu tạo dáng, và khi hát thì chẳng nghe ra chỗ nào là “thính phòng” cả. Nhiều bài boléro vẫn được cho vào các chương trình nhạc “sang” ấy, như “Giã từ đêm mưa” (Văn Phụng), “Xóm đêm” (Phạm Đình Chương), “Mùa đông của anh” (Trần Thiện Thanh)… Nhạc thính phòng, rốt cuộc chỉ là cách gọi những bài bản mà người hát, người nghe có chọn lọc, không dành cho đối tượng bình dân, ít học, và đối tượng này cũng chẳng hứng thú gì để mà thưởng thức. 

Thực tế, những bài nhạc “sang” không làm người hát, người nghe “sang” hơn.

Dù yêu hay ghét, dù thích hay không thích, cũng phải nhìn nhận rằng “nhạc vàng boléro” vẫn gắn bó, gần gũi trong những sinh hoạt đời thường của người Việt mình hơn bất kỳ dòng nhạc nào khác. Không thấy ai làm thống kê, nhưng có vẻ hơn một nửa người yêu nhạc Việt đều yêu chuộng “dòng nhạc” này và gạt bỏ ngoài tai những khen chê, dè bỉu. Như thế, “sến” thì đã sao! Ai không thích hát thì vẫn có nhiều người hát, ai không thích nghe thì vẫn có nhiều người nghe.

Gần đây ở trong nước có nhiều ca sĩ trẻ trung hát “nhạc vàng boléro” được yêu thích với giọng trong trẻo, ngọt ngào tự nhiên, không uốn éo lê thê, không có những thủ pháp rên xiết, nấc nghẹn đầy “kịch tính”.

Có thể ví “nhạc vàng boléro” như những món ăn ngon, dân dã trong những quán ăn bình dân ven đường hay trong những hẻm hóc nào mà thực khách vẫn chịu khó lùng sục để thưởng thức.

Nói cho cùng, người Việt trong và ngoài nước yêu chuộng những bài nhạc boléro của miền Nam tự do thì cũng tốt thôi, như một sở thích, thú vui lành mạnh và cũng là một cách lựa chọn như tự chọn người mình yêu, vẫn hơn là phải yêu những cái bị gán ghép, ép uổng. Khi người ta cùng yêu, cùng chia sẻ sự yêu thích về điểm chung nào trong âm nhạc thì cũng dễ tìm được sự đồng cảm, gần gũi.

Người Việt gặp nhau, gần nhau trong tiếng nhạc boléro.

Gọi “nhạc vàng boléro” là nhạc đại chúng, nhạc trữ tình hay nhạc quê hương đều là những cách gọi chung chung, không “chuẩn” lắm. Thay cho chữ “nhạc sến” dễ đụng chạm, dễ làm tổn thương những ai yêu thích dòng nhạc này, có thể gọi là “Nhạc mùi”, vừa dễ nghe hơn lại vừa nêu bật tính “đặc trưng” của dòng nhạc này. Hoặc, cách gọi khác, “Nhạc đường phố”, kể từ khi “dòng nhạc boléro” tuôn chảy tràn lan từ trong nhà ra ngoài phố. 

“Nhạc đường phố”, sao không? “Nhạc vàng boléro” đã xuống đường. Thật vậy, như một chiều nào tạt ngang quán cà-phê vỉa hè, nghe tiếng đàn guitar bập bùng, tiếng vỗ tay theo nhịp, tiếng muỗng gõ lách cách hòa cùng giọng hát ngọt ngào của một ca sĩ đường phố.

Tình người sau cơn mê vẫn xanh

dù bao tháng năm đau thương dập vùi

Trường quen vắng ta mai ta lại về

cùng theo lũ em học hành như xưa **

Nghe, thấy tâm hồn như trẻ lại, muốn lẩm nhẩm hát theo.

Lê Hữu

———–

* “Từ giã thơ ngây” (Minh Kỳ & Nguyễn Hiền)

** “Qua cơn mê” (Trần Trịnh & Nhật Ngân)



link: https://diendantheky.net/le-huu-nhac-vang-bolero-sen-hay-khong-sen/?fbclid=IwY2xjawEpzU1leHRuA2FlbQIxMAABHTS4GfaJuiJZlhKAbIKTsSaGWvQjbnt9VOYiQ8xHHPHKjoINEOHfLBOAmA_aem_zi94dK473zawgEXzDGjYBA

“Gửi về anh” (Đỗ Thu), boléro, tiếng hát Thái Thanh:

https://youtu.be/0AJr8L1402s?si=SaVB5StFZH-fXdXc



14/8/24

Vọng Thiên Môn Sơn

 

望天門山 

天門中斷楚江開,碧水東流至此迴。
兩岸青山相對出,孤帆一片日邊來。
李白

Âm

Thiên Môn trung đoạn Sở giang khai,

Bích thuỷ đông lưu chí thử hồi.

Lưỡng ngạn thanh sơn tương đối xuất,

Cô phàm nhất phiến nhật biên lai.

Nghĩa

Thiên Môn Sơn bị chia cắt từ giữa tựa như do sông Sở xẻ ra, nước biếc chảy mạnh về phía đông đến đây thì quay ngang. Hai bên bờ hai tòa núi xanh cao vút đứng đối diện nhau hiện ra, trên mặt sông một chiếc thuyền cô độc như từ phía mặt trời tiến đến.

Tạm dịch

Con sông xẻ núi hóa Thiên Môn,

Nước vẫn xuôi đông bỗng ngoặt dòng.

Núi dựng hai bờ hai cánh cửa,

Từ bên trời đến cánh buồm con.

Giản thể

天门中断楚江开,碧水东流至此迴。
两岸青山相对出,孤帆一片日边来。

Chú

天門山:Thiên Môn Sơn: Nằm ở hai bên bờ sông Trường Giang thuộc tỉnh An Huy ngày nay, phía đông là núi Đông Lương (còn gọi là núi Bác Vọng), phía tây là núi Tây Lương (còn gọi là núi Lương). Hai ngọn núi đối diện nhau qua sông, giống như một cánh cửa trời, do đó có tên là Thiên Môn. Theo “Giang Nam Thông Chí” ghi lại: “Hai ngọn núi có hình dáng đá kỳ lạ, đối diện nhau từ đông sang tây, kẹp ngang sông lớn, đứng đối diện như cánh cửa. Dân gian gọi núi Lương là Tây Lương Sơn, gọi núi Bác Vọng là Đông Lương Sơn, gọi chung là Thiên Môn Sơn.”

中斷:Trung đoạn: Nước sông từ giữa chia cắt hai ngọn núi. 楚江:Sông Sở: Đoạn sông Trường Giang chảy qua vùng đất cũ của nước Sở. Khu vực Thiên Môn Sơn trong thời Chiến Quốc thuộc nước Sở, do đó đoạn sông Trường Giang chảy qua đây được gọi là Sông Sở. 開:Khai: Chẻ ra, tách ra.

至此回:Đến đây quay: Nghĩa là nước sông chảy về phía đông đến đây thì chuyển hướng chảy về phía bắc. 至此,có bản viết “直北lại có bản viết “至北。回 hồi: Quay lại, xoay chuyển. Chỉ đoạn sông này do địa thế hiểm trở mà dòng chảy thay đổi hướng và trở nên dữ dội hơn.

兩岸青山:Hai bờ núi xanh: Chỉ Đông Lương Sơn và Tây Lương Sơn. 出: đột xuất, xuất hiện.

日邊來:Đến từ phía mặt trời: Chỉ chiếc thuyền lẻ loi từ nơi xa xôi chỗ trời và nước gặp nhau tiến đến, nhìn từ xa như thể đến từ phía mặt trời.

Theo nhiều nhà nghiên cứu, bài thơ “Vọng Thiên Môn Sơn” được sáng tác vào khoảng cuối xuân đầu hè năm Khai Nguyên thứ 13 (725) thời Đường Huyền Tông, khi Lý Bạch 25 tuổi, lần đầu tiên rời khỏi Ba Thục, đi thuyền đến Giang Đông qua Đương Đồ (nay thuộc An Huy) và lần đầu tiên đi qua Thiên Môn Sơn.

 

12/8/24

Khẩu hào

口號
中夜忽自起,
汲此百尺泉。
林木含白露,
星斗在青天。
賈島

Âm.

Trung dạ hốt tự khởi, Cấp thử bách xích tuyền.
Lâm mộc hàm bạch lộ, Tinh đẩu tại thanh thiên.

Nghĩa. Thơ ứng khẩu

Nửa đêm chợt tự thức giấc, đến lấy nước nơi dòng suối cách nhà trăm thước này.
Lá cây trong rừng đọng móc trắng, sao vẫn còn trên trời xanh.

Tạm dịch.

Nửa đêm chợt thức giấc,
Lấy nước suối bên nhà.
Sương trắng long lanh lá
Trời xanh lấp lánh sao.

Chú

口號 khẩu hiệu: ứng khẩu (làm thơ, văn). (Khẩu hiệu còn nhiều nghĩa khác: lời hô to (trong đám biểu tình); mật khẩu nhận dạng, .. )
賈島 Giả Đảo, nhà thơ thời Trung Đường, nổi tiếng với điển tích "thôi xao"

Giản thể. 
中夜忽自起,汲此百尺泉。林木含白露,星斗在青天。

9/8/24

Mộ xuân tức sự

 暮春即事

雙雙瓦雀行書案,點點楊花入硯池。
閒坐小窗讀周易,不知春去幾多時。葉採

Âm

Song song ngõa tước hành thư án, Điểm điểm dương hoa nhập nghiên trì.
Nhàn tọa tiểu song độc Chu Dịch, Bất tri xuân khứ kỉ đa thì.

Nghĩa

Bóng đôi chim sẻ trên mái ngói di động trên bàn sách, Tơ liễu lấm tấm bay vào nghiên mực.
Thư thả ngồi bên song cửa nhỏ đọc Chu Dịch, Không biết mùa xuân đã qua được bao lâu.
Một học giả say mê làm việc, chỉ khi tình cờ thấy bóng đôi sẻ trên bàn viết, hoa dương rơi trong nghiên mực mới chợt giật mình không biết xuân đã về bao lâu rồi.

Tạm dịch

Án thư đôi bóng chim qua lại,

Nghiên mực một vài tơ liễu bay.

Bên cửa thảnh thơi ngồi đọc Dịch,

Xuân qua không biết đã bao ngày.

Giản thể

双双瓦雀行书案,点点杨花入砚池。
闲坐小窗读周易,不知春去几多时。

Chú

-          即事 tức sự: thấy cảnh hay sự việc mà xúc cảm viết thành thơ.

-          瓦雀: chim sẻ trên mái ngói. 行書案: ở đây chỉ bóng những con chim sẽ di động trên án sách. 書案,書桌 án sách, bàn nhỏ để đọc sách, viết lách.

-          楊花:柳絮 hoa dương, chỉ tơ liễu. : bay vào. 硯池: nghiên mực.

-          周易:còn gọi 《易經》 hay 《易》,một trong năm kinh điển trọng yếu của nhà Nho.

-          去:離去。幾多時:多少時間。

葉採 Diệp Thái (? - ?), đỗ tiến sĩ năm 1141, quan đến Xu mật viện kiểm thảo 樞密院檢討, Hàn lâm viên học sĩ kiêm thị độc, là nhà lí học, học trò của Chu Hi, và nhà thơ thời Nam Tống.




8/8/24

Tức cảnh

即景 

竹搖清影罩幽窗兩兩時禽噪夕陽
謝卻海棠飛盡絮困人天氣日初長
朱淑真                             

Nghĩa.

Những cây trúc đu đưa, in bóng mát lên ô cửa tĩnh lặng. Chốc chốc tiếng chim hót vang trời trong ánh chiều tà. Bông hải đường tàn, tơ liễu bay hết, tiết trời làm người ta cảm thấy mệt mỏi, ngày bắt đầu dài hơn..

Tạm dịch.

Bóng tre phơ phất cửa im lìm,
Chốc chốc trong chiều rộn tiếng chim.
Cánh cánh hải đường theo gió lượn,
Oải người ngày hạ đã dài thêm.

Chú

diêu (dao): lay động.

罩幽窗: che phủ cửa sổ yên tĩnh

兩兩: từng đôi; chốc chốc, thỉnh thoảng.

謝卻: rụng, tàn. 

海棠 hải đường là loài hoa đẹp, nở vào mùa xuân, qua hè thì tàn héo.

: bông, thường chỉ bông/tơ của cây dương liễu, ra bông vào mùa xuân, qua hè cũng hết.

困人天氣: thời tiết làm người ta mệt mỏi

日初長: ngày bắt đầu dài ra.

朱淑真 Chu Thục Chân (1135 - 1180 ?) nhà thơ nữ thời Tống, thanh danh không kém Lí Thanh Chiếu

Giản thể.

竹摇清影罩幽窗,两两时禽噪夕阳。
谢却海棠飞尽絮,困人天气日初长。

6/8/24

Thu giang ngẫu hứng

 

秋江偶興
眾水東歸日夜流,江汀鷗鷺自忘憂。
可憐波浪相隨逐,纔到秋來盡白頭。
范貴適

Âm.

Chúng thủy đông quy nhật dạ lưu, Giang đinh âu lộ tự vong ưu.
Khả liên ba lãng tương tùy trục, Tài đáo thu lai tận bạc đầu.

Nghĩa. Ngẫu hứng trên sông thu.

Những con sông ngày đêm chảy về biển đông, Trên bãi sông bầy cò quên đi những lo lắng.
Khá thương những con sóng đuổi nhau mãi, Vừa mới chớm thu đầu đã bạc trắng hết.

Tạm dịch

Miệt mài dòng nước chảy về đông,
Thanh thản bầy cò ngủ bãi sông.
Con sóng can chi tranh đuổi mãi,
Chớm thu đầu đã bạc như bông.

Chú

-          江汀 bãi sông. đinh: bãi thấp, bãi sông.

-          鷗鷺 cò biển và cò trắng; chỉ loài cò nói chung. Có thành ngữ chữ Hán "鷗鷺忘機" Âu lộ vong cơ ( cơ: cơ tâm, lòng giảo hoạt tính toán bon chen), ý là làm bạn với cò thì cần bỏ đi những tính toán thiệt hơn trong lòng. Về sau thành ngữ này dùng ẩn dụ tâm thái thanh thản, nhẹ nhàng của người không còn bon chen việc đời. Trong bài này tác giả dùng hai chữ “âu lộ” ý hẳn muốn nhắc đến thành ngữ này. 

-          tài, phó từ: vừa mới.

范貴適 (1760 - 1825), đỗ tiến sĩ thời nhà Lê, từng làm quan đến chức Thị trung học sĩ, tước Thích An hầu. Sau cáo quan về quê dạy học, học trò ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan ... Ông từng đứng ra cho khắc in Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du với bài đề từ nổi tiếng “ .. Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ, Tân thanh đáo để vị thuỳ thương.”

Giản thể.

众水东归日夜流,江汀鸥鹭自忘忧。
可怜波浪相随逐,纔到秋来尽白头

 

4/8/24

Sơn trung

 

山中
荊溪白石出,天寒紅葉稀。
山路元無雨,空翠溼人衣。王維

Âm.

Kinh khê bạch thạch xuất, Thiên hàn hồng diệp hi.
Sơn lộ nguyên vô vũ, Không thúy thấp nhân y.

Nghĩa. Trong núi
Dòng nước ở suối Kinh ít đi, lòng sông lộ ra những hòn đá trắng, Trời lạnh, lá đỏ trên cành thưa thớt.  Đường núi vốn không có mưa, nhưng trời mù làm ướt quần áo của người đi đường.

Tạm dịch

Suối trong đá trắng lộ,
Trời lạnh lá hồng thưa.
Đường núi sương mù mịt,
Áo quần như ướt mưa.

Giản thể.

荆谿白石出,天寒红叶稀。山路元无雨,空翠湿人衣。

Chú thích:

-          荊溪 Kinh Khê: tức Trường Thủy, còn gọi là Kinh Cốc Thủy, bắt nguồn từ phía tây bắc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, chảy từ tây bắc, qua đông nam huyện Trường An rồi nhập vào sông Bá. (荊溪:即長水,又稱荊谷水,源出陝西藍田縣西北,西北流,經長安縣東南入灞水。參見《水經注·渭水》《長安志》卷一六。Nguồn: fanti.dugushici.com)
Một số nơi giảng
荊溪 là con suối hiểm trở.

-          元:原,本來。nguyên: vốn là.

-          空翠:指山間嵐氣。chỉ sơn lam chướng khí trong núi, sương mù ở núi rừng.

 

1/8/24

Nhàn cư sơ hạ ngọ thụy khởi

 

閒居初夏午睡起  1

梅子流酸濺齒牙
芭蕉分綠上窗紗  
日長睡起無情思
閒看兒童捉柳花  
楊萬里                               

Âm.

Mai tử lưu toan tiễn xỉ nha,
Ba tiêu phân lục thượng song sa.
Nhật trường thụy khởi vô tình tứ,
Nhàn khán nhi đồng tróc liễu hoa.

Chú

梅子 mai tử: trái mơ, vị chua.

濺齒牙 tiện xỉ nha, bản khác 軟齒牙 nhuyễn xỉ nha: chỉ vị chua của mơ ngấm vào răng. tiễn: thấm ướt. nhuyễn: ôn hòa, mềm mỏng.

芭蕉 ba tiêu: cây chuối.

無情思 vô tình tứ: không có tình ý gì.

捉柳花 tróc liễu hoa: bắt tơ liễu. 柳花 hoa liễutức 柳絮 liễu nhứ: tơ liễu.

楊萬里 Dương Vạn Lí (1127 - 1206), nhà thơ thời Nam Tống.

Bài trên đây là bài đầu trong chùm hai bài thơ của ông.

Nghĩa. Đầu hè rảnh rỗi ngủ trưa dậy.

Mơ chua ngấm vào tận chân răng, màu xanh của mấy cây chuối ánh lên màn cửa. Ngày dài ngủ dậy chẳng có suy nghĩ gì, rảnh rỗi ngồi nhìn mấy đưa con nít đuổi bắt tơ liễu.

 Tạm dịch

Trái mơ chua ngấm tận chân răng,
Lá chuối xanh in trước cửa màn.
Ngủ dậy ngày dài không có việc,
Ngồi nhìn con nít chạy loăng quăng.

Giản thể

梅子流酸溅齿牙,芭蕉分绿上窗纱。日长睡起无情思,闲看儿童捉柳花