31/1/25

Đăng thành xuân vọng

登城春望
物外山川近, 
 晴初景靄新。
芳郊花柳遍, 
 何處不宜春。 
 王勃

Chú.

-          物外 (vật ngoại): Bên ngoài sự vật, vượt khỏi thế giới trần tục. 山川 (sơn xuyên): Núi non và sông ngòi, núi sông, thiên nhiên. (cận): gần.
Chú ý ở câu này, “vật ngoại” có thể hiểu là (núi non) “bên ngoài thành”. Tuy nhiên tác giả dùng từ “vật ngoại” thay vì “thành ngoại”

-          晴初 (tình sơ): Lúc trời vừa quang đãng, mới tạnh mưa. 景靄 (cảnh ái): Cảnh sắc mờ ảo, có sương mù nhẹ bao phủ. ái: khí mây, mây khói, sương mù. (tân): mới.

-          芳郊 (phương giao): Vùng ngoại ô thơm ngát, chỉ nơi có hoa cỏ tươi tốt, hương thơm ngào ngạt. 花柳 (hoa liễu): Hoa và liễu. (biến): khắp nơi, như chữ “biến” . (vd: 朋友遍天下 bằng hữu biến thiên hạ: bạn bè ở khắp nơi, đâu cũng có bạn bè).

-          何處 (hà xứ): Nơi nào, . 不宜春 (bất nghi xuân): -          Không thích hợp với mùa xuân. Câu hỏi tu từ, ý là đâu đâu cũng là cảnh xuân tươi đẹp.


Giản thể. 
物外山川近,晴初景霭新。芳郊花柳遍,何处不宜春。

Âm.

Vật ngoại sơn xuyên cận, Tình sơ cảnh ái tân.
Phương giao hoa liễu biến, Hà xứ bất nghi xuân.

Nghĩa. Lên thành ngắm xuân.

Nhìn ra ngoài thấy sông núi gần gũi,
Trời vừa tạnh, cảnh vật phủ lên một lớp sương mỏng trông tươi mới.
Ngoài thành thơm tho với hoa, liễu khắp nơi,
Chỗ nào mà không có sắc xuân.

Tạm dịch.

Ra ngoài, sông núi gần,

Trời tạnh, mây trong ngần.

Khắp chốn thơm hoa, liễu,

Chỗ nào không bóng xuân?.

29/1/25

Li rượu mừng

 

Xuân vãn

 

春 晚

年少何曾了色空,一春心在百花中。
如今勘破東皇面,禪板蒲團看墜紅。

陳仁宗

Chú

-          年少 niên thiếu: lúc còn trẻ, tuổi trẻ. 何曾 hà tằng: nào từng. liễu: hiểu biết, thấu hiểu. 色空 sắc không: thuật ngữ Phật giáo, đại khái là cái gì có hình tướng mà mắt thấy được thì gọi là Sắc, còn mắt phàm không thấy gì cả thì gọi là Không. Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa có câu câu: "Sắc tức thị không, không tức thị sắc", nghĩa là sắc và không không tách rời nhau, bản chất của sắc là không, và bản chất của không là sắc. Mọi sự vật là vô thường; do duyên hợp mà thành và khi duyên tan thì chúng cũng tan biến.

-          一春 nhất xuân: mỗi khi xuân đến. nhất, phó từ: hễ, mỗi khi. xuân, ở đây được dùng như động từ, có nghĩa là xuân đến. 心在 tâm tại: tâm hồn ở, lòng hướng về. 百花中bách hoa trung: trong trăm hoa, giữa muôn hoa.

-          如今 như kim: hiện tại, bây giờ. 勘破 khám phá: thấy rõ, thấu hiểu. 東皇面 Đông Hoàng diện: mặt Đông Hoàng (thần mùa xuân trong thần thoại Tàu).

-          禪板 thiền bản: tấm ván dùng trong thiền phòng. 蒲團 bồ đoàn: dụng cụ dùng lót để ngồi thiền, có hình tròn (đoàn: tròn), xưa bện bằng cỏ bồ, nay thì thường bằng vải dồn bông gòn. khán: nhìn. truỵ: rơi. hồng: (hoa) đỏ.

Gin th

年少何曾了色空,一春心在百花中。
如今勘破东皇面,禅板蒲团看坠红。

Âm

Niên thiếu hà tng liu sc không, Nht xuân tâm ti bách hoa trung.
Nh
ư kim khám phá đông hoàng din, Thin bn b đoàn khán tru hng.

Nghĩa.

Lúc tr nào tng hiu được l sc không. H xuân đến là lòng chìm đắm trong trăm hoa.
Nay th
ì đã thy được b mt ca chúa Xuân,  ngi trên đệm c trong thin phòng mà ngm hoa đỏ rơi rng.

Tm dch

Lúc trẻ nào từng hiểu sắc không,
Xuân về say đắm với muôn hồng.
Đến nay mặt mũi xuân đà rõ,
Ngồi ngắm hoa rơi chẳng bận lòng
.

28/1/25

Trừ dạ túc Thạch Đầu dịch

 

除夜宿石頭驛 
旅館誰相問?寒燈獨可親。
一年將盡夜,萬里未歸人。
寥落悲前事,支離笑此身。
愁顏與衰鬢,明日又逢春。戴叔倫

Chú

-          除夜 (trừ dạ): Đêm giao thừa. 宿 (túc): Nghỉ trọ, ở qua đêm. 石頭驛 (Thạch Đầu dịch): Trạm dịch ở Thạch Đầu. Thạch Đầu, địa phương nay ở tỉnh Giang Tây. dịch, nghĩa gốc là ngựa dùng đưa thư, công văn ngày xưa. Cũng dùng chỉ trạm đổi ngựa (để đưa công văn). Nơi đây cũng dùng làm nơi dừng chân dành cho người lữ hành thời xưa.

-          旅館 (lữ quán): Nhà trọ dành cho lữ khách. (thùy): Ai? 相問 (tương vấn): Hỏi han nhau, quan tâm đến nhau.

-          寒燈 (hàn đăng): Ngọn đèn lạnh lẽo, ngọn đèn trong đêm đông cô quạnh. (độc): Chỉ có, duy nhất. 可親 (khả thân): Có thể gần gũi, làm bạn.

-          一年 (nhất niên): Một năm. 將盡 (tương tận): Sắp hết, gần kết thúc. (dạ): Đêm.

-          萬里 (vạn lý): Nghìn dặm. 未歸 (vị quy): Chưa về, chưa trở lại quê nhà. (nhân): Người (ở đây chỉ chính tác giả).

Hai câu thơ (3-4) này lấy ý từ bài Đông ca của Lương Vũ Đế Tiêu Diễn “一年漏将尽,万里人未归。君志固有在,妾躯乃无依。” (Nhất niên lậu tương tận, Vạn lí nhân vị quy.Quân chí cố hữu tại, Thiếp khu nãi vô y): Thời gian một năm sắp hết, Người xa vạn dặm vẫn chưa về, Chí chàng thực bền chắc, Thiếp chẳng chỗ nương thân. Trong bài thơ Tống Khâu Vi lạc đệ quy Giang Đông của Vương Duy cũng có câu tương tự: “五湖三亩宅,万里一归人。” (Ngũ Hồ tam mẫu trạch, vạn lí nhất quy nhân): Ngũ Hồ năm mẫu đất, Vạn dặm một người về.

-          寥落 (liêu lạc): Thưa thớt, lạnh lẽo, hiu quạnh. Ở đây, "寥落" vừa mang tả cảnh (thưa vắng, hiu quạnh) vừa hàm ý tả tình (cảm giác cô đơn, buồn tẻ). (bi): Đau buồn. 前事 (tiền sự): Chuyện đã qua, những ký ức cũ.

-          支離 (chi ly): Nghĩa gốc là phân tán, chia cắt, thường dùng để diễn tả tình trạng rời rạc, không trọn vẹn. Bản khác "羁离 (kê ly)." Nghĩa là "xa quê," "lưu lạc," chỉ tình cảnh người lữ khách sống xa quê hương, bấp bênh. (tiếu): Cười, ở đây là nụ cười tự giễu bản thân.此身 (thử thân): Thân này, chỉ bản thân tác giả.

-          愁顏 (sầu nhan): Gương mặt đầy nỗi buồn. (dữ) cùng. 衰鬢 (suy mấn): Tóc mai đã bạc, chỉ sự già yếu.
Bản khác:
衰顏与愁鬢 (suy nhan dữ sầu mấn). Việc đảo từ không làm thay đổi ý nghĩa tổng thể, nhưng nhấn mạnh sự tiều tụy ở ngoại hình (衰顏) hơn so với cảm xúc bên trong (愁鬢).

-          明日 (minh nhật): Ngày mai. (hựu): Lại, một lần nữa. 逢春 (phùng xuân): Gặp mùa xuân.
Bản khác: "
" (逢春) nghĩa là "ra đi" hoặc "đến," diễn tả sự chuyển đổi từ năm cũ sang năm mới. Dùng , câu thơ nhấn mạnh sự lặp lại tuần hoàn của thời gian: hết năm cũ lại đến mùa xuân. Dùng , câu thơ mang ý nhấn mạnh sự chuyển giao, tạm biệt năm cũ để đón mùa xuân mới.

戴叔倫 Đới Thúc Luân (732 - 789) tự Ấu Công 幼公, người Giang Tô, nhà thơ thời Trung Đường. Thủa nhỏ thông minh, trí nhớ hơn người. Đổ tiến sĩ, quan đến thứ sử, được một thời gian thì từ quan về quê ẩn dật. Đương thời ông là nhà thơ có tiếng.

Giản thể:

旅馆谁相问?寒灯独可亲。一年将尽夜,万里未归人。
寥落悲前事,支离笑此身。愁颜与衰鬓,明日又逢春。

Âm

Lữ quán thuỳ tương vấn? Hàn đăng độc khả thân.
Nhất niên tương tận dạ, Vạn lý vị quy nhân.
Liêu lạc bi tiền sự, Chi ly tiếu thử thân.
Sầu nhan dữ suy mấn, Minh nhật hựu phùng xuân.

Nghĩa:

Nơi quán trọ, nào có ai thăm hỏi, thân thiết bên mình chỉ có một ngọn đèn mờ.
Một năm, đêm cuối cùng sắp hết, quê nhà xa vạn dặm vẫn chưa về thăm được.
Xót xa nhớ những chuyện đã qua, đành gượng cười với cái thân này vậy.
Mặt mày buồn bã tóc mai thì xơ xác, sớm mai lại đón xuân sang.

Tạm dịch

Quán trọ ai thăm hỏi?
Bên nhau ngọn đèn mờ.
Một năm đêm sắp hết,
Ngàn dặm quê còn xa.
Hiu hắt buồn chuyện cũ,
Lẻ loi tự cười ta.
Mặt nhăn tóc xơ xác,
Mai lại đón xuân qua.

23/1/25

Quy hứng

 

歸興 
老桑葉落蠶方盡,
早稻花香蟹正肥。

見說在家貧亦好,
江南雖樂不如歸。
阮忠彥

Chú

-          老桑lão tang: cây dâu già. 葉落diệp lạc: lá rụng. 蠶方盡tàm phương tận: kén tằm vừa hết. phương, phó từ: vừa, đang.

-          早稻tảo đạo: lúa sớm. 花香hoa hương: hoa tỏa hương thơm. 蟹正肥giải chính phì: cua đang béo. chính, phó từ: đang, chính lúc.

-          見說kiến thuyết: nghe nói. 在家tại gia: ở nhà. bần: nghèo. diệc: cũng. hảo: tốt

-          江南Giang Nam: vùng Giang Nam, Tàu, nổi tiếng cảnh vật thơ mộng. 雖樂tuy lạc: tuy vui. 不如歸bất như quy: không bằng trở về nhà. quy: trở về (nhà).

阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) tự Bang Trực, hiệu Giới Hiên, người Hưng Yên, 15 tuổi đỗ hoàng giáp (đời vua Trần Anh Tông, cùng khoa với Mạc Đĩnh Chi), trải qua nhiều chức vụ quan trọng như Kinh lược sứ Lạng Sơn, Nhập nội đại hành khiển, Thượng thư hữu bật, được phong tước Thân Quốc công. Từng được cử đi sứ qua triều Nguyên. Ông từng giữ chức Giám tu Quốc sử viện, cùng Trương Hán Siêu soạn sách Hoàng triều đại điển và bộ Quốc triều Hình luật.

Bài thơ trên đây làm khi ông đang đi sứ bên Tàu. Bài này đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học VN

Giản thể. 归兴 
老桑叶落蚕方尽,早稻花香蟹正肥。
见说在家贫亦好,江南虽乐不如归

Âm

Lão tang diệp lạc tàm phương tận, Tảo đạo hoa hương giải chính phì.
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo, Giang Nam tuy lạc bất như quy.

Nghĩa. Ưa về nhà

Dâu già, lá rụng, tằm vừa chín, Lúa sớm bông tỏa hương thơm, cua đang lúc béo. Nghe nói ở nhà dẫu nghèo vẫn tốt, Ở Giang Nam tuy vui nhưng cũng không bằng trở về nhà.

Tạm dịch

Dâu già lá rụng tằm vừa chín,

Lúa sớm bông thơm, cua béo phì.

Nghe nói ở nhà nghèo cũng sướng,

Giang Nam tuy thú chẳng như về.

Mộng vong nữ

 

夢亡女 
親遠吾當病,思兒每節哀。
忽然中夜夢,驟見淚如催。

衣服寒仍破,容顏憯不開。
菜鹽貧未缺,辛苦汝歸來。
高伯适

Âm

Thân viễn ngô đương bệnh, Tư nhi mỗi tiết ai.
Hốt nhiên trung dạ mộng, Sậu kiến lệ như thôi.
Y phục hàn nhưng phá, Dung nhan thảm bất khai.
Thái diêm bần vị khuyết, Tân khổ nhữ quy lai.

Chú

-          -          mộng: giấc mơ. 亡女 vong nữ: con gái đã mất

-          親遠 thân viễn: người thân ở xa. ngô: ta. 當病 đương bệnh: đang lúc bệnh

-          思兒 tư nhi: nhớ con. 每節哀 thường nén bi thương. mỗi, phó từ: thường luôn. tiết, đgt: hạn chế, ước thúc. ai: buồn đau

-          忽然 hốt nhiên: đột nhiên. 中夜 trung dạ: giữa đêm.

-          驟見 sậu kiến: bỗng thấy. sậu, phó từ: chợt, đột nhiên. 淚如催 nước mắt chảy như tuôn, nước mắt giàn giụa. lệ: nước mắt. thôi: thúc dục.

-          衣服 y phục: áo quần. hàn: lạnh lẽo. 仍破 nhưng phá: vẫn rách nát. nhưng, phó từ: vẫn, cứ, như cũ.

-          容顏 dung nhan: gương mặt. 憯不開 thảm bất khai: đau xót không dứt. khai: tiêu tan; trừ bỏ.

-          菜鹽 thái diêm: rau muối. 貧未缺 bần vị khuyết: nghèo khó nhưng không thiếu

-          辛苦 tân khổ: khổ cực. 汝歸來 nhữ quy lai: con trở về.

Bài thơ này đã đực đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học VN. (Lớp 11, 1990 – 2006)

Nghĩa. Mộng thấy con gái đã mất.

Người thân ở xa, ta thì đang bệnh. Nhớ con thường phải nén buồn đau lại.
Đột nhiên trong cơn mơ, Chợt thấy nước mắt chảy giàn giụa.
Áo quần vẫn rách rưới lạnh lẽo như cũ, Mặt mày buồn bã không dứt.
Rau muối nghèo nhưng chưa thiếu, Khổ quá thì con hãy trở về đi.

Tạm dịch

Thân thích xa, đang bệnh, 

Nhớ con cố nén lòng.

Bỗng nhiên đêm mộng thấy,

Nước mắt chảy ròng ròng.

Áo xống rách tơi tả,

Mặt mày buồn héo hon.

Nghèo nhưng rau chẳng thiếu,

Khổ quá về nghe con.

Giản thể

亲远吾当病,思儿每节哀。
忽然中夜梦,骤见泪如催。

衣服寒仍破,容颜憯不开。
菜盐贫未缺,辛苦汝归来

 

16/1/25

Tức sự

 

即事
社稷兩回勞石馬,
山河千古奠金甌。陳仁宗

Chú

-          即事 tức sự: lấy sự vật trước mắt làm đề tài làm thơ. tức: ngay, tức khắc. sự: việc, việc làm. "即事" có nghĩa là "việc tức thời", "việc xảy ra ngay lúc đó". Thể thơ "tức sự" thường được dùng để ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ của tác giả khi chứng kiến một sự kiện nào đó. Ngày 17-3 năm Mậu Tý (18-4-1288), sau chiến thắng Bạch Đằng, triều đình đem các tướng Nguyên bị bắt làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông). Tại đây, vua Trần Nhân Tông trông thấy chân mấy con ngựa đá đều lấm bùn (vì trước đó quân Nguyên đã phá Chiêu Lăng và định đập bỏ ngựa đi mà chưa kịp), tức cảnh ngâm hai câu thơ này.

-          社稷 xã tắc: thần đất (xã) và thần lúa (tắc), cả hai biểu trưng cho sự sinh tồn và phát triển của một dân tộc. Nên xã tắc thường dùng phiếm chỉ đất nước.

-          兩回 lưỡng hồi: hai lần. lưỡng: hai. hồi: lần. Ám chỉ hai cuộc xâm lược của quân Nguyên vào Đại Việt (1257-58 và 1285).

-          lao: cực nhọc, vất vả.

-          石馬 thạch mã: ngựa đá. Chỉ những con ngựa đá ở Chiêu lăng.

-          山河 sơn hà: non sông, đất nước.

-          千古 thiên cổ: nghìn đời.

-          điện: đặt, định, củng cố, xây nền móng.

-         金甌 (kim âu): "Kim" là vàng, "âu" là cái chén, cái bát. "Kim âu" là cái chén vàng, được dùng để tượng trưng cho sự vẹn toàn và vững chắc của đất nước.

Âm

Xã tc lưỡng hi lao thch mã,
S
ơn hà thiên c đin kim âu.

Dịch

Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.
(Trần Trọng Kim)