21/4/24

sơ đầu

 梳頭

一生辜負五車書,
閱盡風埃髮愈疏。

心髮詎爭長短事,
到紛如處總紛如

高伯适

Âm. Sơ đầu

Nhất sinh cô phụ ngũ xa thư,
Duyệt tận phong ai phát dũ sơ.
Tâm phát cự tranh trường đoản sự,
Đáo phân như xứ tổng phân như.

Nghĩa. Chải đầu

Một đời phụ với năm xe sách,
Trải qua gió bụi tóc càng thưa thêm.
Lòng và tóc không cần tranh nhau chyện hơn kém,
Đến lúc đã rối bời thì cùng rối bời như nhau

Tạm dịch.

Ngẫm thẹn cùng năm xe sách xưa,

Trải bao gió bụi tóc thêm thưa.

Tóc, lòng há phải tranh hơn kém,

Lòng xác xơ tóc cũng xác xơ.

Giản thể. 梳头.
一生辜负五车书,阅尽风埃发愈疏。
心发讵争长短事,到纷如处总纷如。

Chú.

-         -          五車書 5 xe sách. 五車書 5 xe sách. Sách Trang tử, thiên Thiên hạ: “惠施多方,其書五車。” Huệ Thi đa phương, kì thư ngũ xa: Huệ Thi (nhà tư tưởng thời Chiến Quốc) có nhiều cách (giải quyết công việc), sách của ông chứa đầy năm xe. Ý là người đọc nhiều (hiểu rộng). 
Tương truyền Cao Bá Quát thường nói: “Thiên hạ có bốn bồ chữ, ta chiếm hai bồ. Bá Đạt (anh của Quát) và Nguyễn Văn Siêu (bạn của Quát) chiếm một bồ. Còn một bồ chia cho thiên hạ”.  5 xe / 10 xe = 2 bồ / 4 bồ!

-          髮愈疏 tóc càng thưa.  dũ (phó từ): càng.

-          長短 dài ngắn, hơn kém, đúng sai, tốt xấu, ..
Đỗ Phủ, Lí Bạch từng dùng sợi tóc ngắn/dài để so sánh với nỗi buồn: 
白頭搔更短 (Đỗ Phủ, Xuân Vọng) Mái tóc bạc càng gãi càng ngắn.
白髮三千丈,離愁似個長。(Lí bạch, Thu phố) Tóc trắng ba ngàn trượng, nỗi buồn chia cách dài tựa như thế.

-          到紛如處 đi đến chỗ rối rắm.  (tính từ) nhiều và khác nhau; rối rắm, tạp loạn.  ở đây làm trợ từ, đứng sau tính từ biểu thị tình trạng. 
Cao Bá Quát, tự Chu Thần, nhà thơ nổi tiếng thời Nguyễn. Về sau tham gia chống đối triệu đình (vụ giặc Cào cào), bị tru di tam tộc.

Bông giấy

 Bông giấy


Tưởng ta nhớ chú lắm sao

Này cây bông giấy bên rào năm xưa

Chẳng qua trời đổ cơn mưa

Thì thương cành mọn đong đưa một mình.

 

Cao Tần

(tháng 12, 77)


Cao Tần: https://8khung.blogspot.com/2016/09/ta-lam-gi-cho-het-nua-oi-sau.html




19/4/24

Nhâm Dần niên lục nguyệt tác

 壬寅年六月作   

年來夏旱又秋霖,
禾稿苗傷害轉深。
三萬卷書無用處,
白頭空負愛民心。
陳元旦
           

Âm

Niên lai hạ thử hựu thu thâm,
Hòa cảo miêu thương họa chuyển thâm.
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ,
Bạch đầu không phụ ái dân tâm.

Nghĩa: Thơ viết vào Tháng 6 năm Nhâm Dần.

Năm ngoái mùa hè thì hạn, đến thu lại mưa dầm,
Lúa bị khô, mạ bị hư, thiệt hại thêm nặng.
Đọc ba vạn quyển sách không biết dùng vào đâu,
Bạc đầu rồi mà đành phụ lòng thương dân.

Tạm dịch: Thơ làm vào tháng sáu năm Nhâm Dần

Năm qua hè hạn, thu mưa dầm,
Mạ héo rồi thì lúa nước ngâm.
Đọc vạn sách không dùng được việc,
Bạc đầu còn phụ nỗi thương dân.

Chú

-       -          空負 không phụ =  cô phụ, phụ lòng.

陳元旦 Trần Nguyên Đán (1325 - 1390), chắt của Trần Quang Khải, ông ngoại của Nguyễn Trãi. Làm quan đến chức Tư đồ thời cuối nhà Trần. Năm 1385 xin trí sĩ, về sống ẩn dật tại Côn Sơn.

Bài thơ này ông làm năm Nhâm Dần 1362, lúc đang giữ chức Đại phu Ngự sử đài, chuyên việc can gián dưới triều vua Trần Dụ Tông.

年来夏旱又秋霖,
禾稿苗伤害转深。
三万卷书无用处
,
白头空负爱民心



17/4/24

Dạ văn trạo ca

夜聞棹歌

欸乃漁人曲
餘音聽不窮
正多滄海意
況在月明中
從善王                   

Âm

Ai nãi ngư nhân khúc, Dư âm thính bất cùng.
Chính đa thương hải ý, Huống tại minh nguyệt trung.

Nghĩa. Đêm nghe tiếng hò người chèo đò

Chao ôi là tiếng hò người đánh cá trên sông, dư âm nghe hoài không hết.
Bởi ý tứ đa phần là than thở về sự đời thay đổi, lại vang lên trong đêm trăng sáng.

Tạm dịch

Tiếng hò người đánh cá,

Vang vọng mãi khôn cùng.

Lời thở than dâu biển,

Dưới trăng thêm não nùng.

Giản thể夜闻棹歌.
欸乃渔人曲,余音听不穷。
正多沧海意,况在月明中



Chú

從善王 Tùng Thiện Vương (1819 - 1870), nhà thơ thời nhà Nguyễn




16/4/24

Lâm chung thi

臨終詩 

生在陽間有散場
死歸地府也何妨
陽間地府俱相似
只當漂流在異鄉
唐寅                                      

Âm

Sinh tại dương gian hữu tán trường, Tử quy địa phủ dã hà phương.
Dương gian địa phủ câu tương tự, Chỉ đáng phiêu du tại dị hương.

Chú

-          散場 tán tràng: lúc tan rã, kết thúc. tán: tan. tràng, thường đọc là trường, ngoài nghĩa thường gặp là chỗ đất trống, rộng phẳng hoặc nơi đông người làm việc, còn là thuật ngữ dùng trong hí kịch, có nghĩa là đoạn, cảnh, như khai tràng = cảnh mở đầu, chung tràng = cảnh kết thúc. Tác giả coi cuộc đời cũng là một vở kịch, có cảnh kết thúc, mà tác giả gọi là tán tràng.

唐寅 Đường Dần, tự 伯虎 Bá Hổ, là nhà thư họa, nhà thơ nổi tiếng đời Minh.

Nghĩa: Thơ viết lúc lâm chung

Sống trên cõi dương thì phải có lúc kết thúc,
Chết về cõi âm thì có chi trở ngại?
Cõi dương hay cõi âm đều như nhau cả,
Chỉ là đi chơi hai chỗ khác nhau thôi.

Tạm dịch

Sống ở dương gian đến hạ màn,

Chết về âm phủ có chi than.

Dương gian âm phủ như nhau cả,

Hai chốn rong chơi, chỉ khác đàng.

Giản thể


生在阳间有散场,死归地府也何妨。
阳间地府俱相似,只当漂流在异乡



15/4/24

Lâm hình khẩu chiếm

 臨刑口占

鼍鼔三聲畢,
西山日又斜。

黄泉無客舍,
今夜宿誰家。
孫蕡

Âm Hán Việt

Đà cổ tam thanh tất, Tây sơn nhật hựu tà.
Hoàng tuyền vô khách xá, Kim dạ túc thùy gia
.

Chú

-          臨刑口占 Lâm hình khẩu chiếm: thơ đọc lúc bị thụ hình. 口占 đọc ngay thành thơ, không dùng bút mực.

-          鼍鼔 đà cổ: trống bịt bằng da con đà (một loài vật giống cá sấu).

孫蕡 Tôn Phần (1337-1393) nhà thơ thời Minh, tự Trọng Diễn 仲衍, hiệu Tây Am tiên sinh 西庵先生. Thời gian làm quan ở Liêu Đông, vị tướng ở đây là Lam Ngọc biết tiếng, nhờ đề thơ mấy bức họa. Sau lam Ngọc làm phản, ông bị liên lụy, xử tử hình.

Tạm dịch

Ba tiếng trống vừa dứt,

Non tây bóng xế tà.

Suối vàng không quán trọ,

Lát tối ngủ đâu ta.

Giản thể

临刑口占. 
鼍鼔三声毕,西山日又斜。
黄泉无客舍,今夜宿谁家。





14/4/24

Vô đề

 無題 

大夢誰先覺,
平生我自知。

草堂春睡足,
窗外日遲遲。
諸葛亮
/羅貫中
          

Âm

Đại mộng thùy tiên giác, Bình sinh ngã tự tri.
Thảo đường xuân thụy túc, Song ngoại nhật trì trì.

Chú

-  諸葛亮/羅貫中Gia Cát Lượng/La Quán Trung. La Quán Trung là tiểu thuyết gia đời Minh, tác giả bộ truyện Tam Quốc Chí diễn nghĩa. Bài thơ trên do nhân vật Gia Cát Lượng trong tác phẩm này, thường ngâm nga khi đang ẩn cư ở Long Trung.

Nghĩa.

Giấc mộng lớn này, ai là người tỉnh giấc trước?
Trong cuộc sống ta luôn tự biết mình.
Trong gian nhà cỏ ngủ đẫy giấc xuân,
Bên ngoài song cửa, ngày tháng trôi chậm chậm.

Tạm dịch

Mộng lớn ai say, tỉnh?

Ở đời ta biết ta.

Lều tranh xuân đẫy giấc,

Ngoài cửa tháng ngày qua.

Giản thể

无题  大梦谁先觉,平生我自知。草堂春睡足,窗外日迟迟