10/3/25

Thấy gì từ Đoàn bộ hành đi Ấn Độ của ngài Minh Tuệ dưới góc nhìn Đời và Đạo?





Nguyễn Xuân Thắng




(Ngày Nay) - Trước nhiều luồng dư luận trái chiều hiện nay về hiện tượng Đoàn bộ hành đi Ấn Độ của ngài Minh Tuệ - một sự kiện tác động đến đời sống văn hóa và tinh thần của đại chúng, để đáp ứng nhu cầu của một số bạn đọc, Ban Biên tập Tạp chí Ngày Nay xin giới thiệu bài viết mang tính khảo cứu về Đoàn bộ hành của Ngài Minh Tuệ theo cách nhìn Đời và Đạo của nhà báo, nhà ngoại giao Nguyễn Xuân Thắng.

Thời kỳ mạt pháp và một cách nhìn


Bài viết gồm 3 phần, sẽ được đăng tải từng phần. Mời các bạn theo dõi và đóng góp ý kiến.

Phần 1 – Cuộc bộ hành của Ngài Minh Tuệ đi Ấn Độ đem lại điều gì cho Đạo và Đời?

Phần 2 – Thời kỳ mạt pháp và một cách nhìn.

Phần 3 – Trí Tuệ Phật và những câu hỏi cần được giải đáp về Đoàn bộ hành đi Ấn Độ.

***

Phần 1:
Cuộc bộ hành của ngài Minh Tuệ tới Ấn Độ đem lại điều gì cho Đạo và cho Đời?

1. Cuộc bộ hành có một không hai

Hành hương Đi Ấn Độ để thăm các thánh tích Phật giáo, theo lời Ngài Minh Tuệ đó là phát nguyện của ông trên con đường tu tập hướng đến giác ngộ và giải thoát. Đây cũng là giai đoạn học tập lần thứ hai của ông sau một số chuyến bộ hành dọc Việt Nam kéo dài trong gần 6 năm. Con đường tu tập lần thứ hai này gặp nhiều trắc trở, diễn biến rất phức tạp, khó lường. Có được viên mãn hay không tất cả đều phụ thuộc vào động cơ, đạo hạnh, hiểu biết về Đạo và kinh nghiệm về Đời của ông. Đối với một người đã chọn cách tự mình tu tập theo pháp môn khó nhất là Hạnh Đầu Đà, như trường hợp Ngài Minh Tuệ, thì 6 năm chưa nói lên được nhiều điều, vì đó mới chỉ là chặng đầu trên con đường đầy thử thách và những rủi ro phía trước.

Đối với nhiều Phật tử Việt Nam và những ai quan tâm đến sự kiện này, có lẽ đây là cơ hội được mục sở thị một hiện tượng tu tập khá đặc biệt mà bấy lâu nay thường chỉ nghe nói, nghe thuyết giảng, hoặc chỉ thấy ghi chép trong sách vở. Nhân sự kiện này nhiều người trong chúng ta lần đầu nghe nói về 13 Hạnh Đầu Đà, quan tâm nhiều hơn khái niệm Giới, Pháp của Đạo Phật, được cảm nhận thế nào là Vô thường, Giác ngộ, Giải thoát... là những điều mà trước đây chúng ta ít trau dồi, ít tu dưỡng, đã bỏ lỡ nhiều thời gian chỉ để chăm chỉ dâng hương, vái lạy và cúng dường.

Hành trình tu tập của Ngài Minh Tuệ trong cuộc bộ hành lần thứ hai này đã bộc lộ những lối rẽ bất ngờ, nhưng dù cái kết có ra sao thì đối với đại chúng đây vẫn là dịp hiếm có, là cơ hội được trải nghiệm một số bài học từ thực tế, tích cực có, tiêu cực có, mà nhờ đó nhiều người trong chúng ta có dịp thẩm định lại đức tin của mình, để hiểu thêm thế nào là Chánh Pháp, Chánh Đạo, từ đó giúp chúng ta lựa chọn nơi để gửi gắm Đức tin, để ngưỡng vọng Đạo Phật bằng Tỉnh Thức và Trí Tuệ. Theo tôi đó chính là giá trị tích cực về Đạo và Đời của hiện tượng Đoàn bộ hành Ngài Minh Tuệ.

2. Đoàn bộ hành - những nỗi lo âu, khấp khởi

Qua dư luận và truyền thông đại chúng, chúng ta không khó để nhận ra điều này:

Với những ai thần tượng Ngài Minh Tuệ như một bậc Chân tu, nhìn thấy giá trị thánh thiện và ủng hộ mục đích tu tập của ông thì trong lòng không khỏi lo âu, ra sức bênh vực, giải thích, và cầu mong cho ông và đoàn sớm vượt qua được thử thách về Đời, về Đạo để an toàn cập bến Đất Phật.

Với những người hiếu kỳ thì họ quan sát sự kiện này theo cách nhìn thế tục, bằng cảm nhận chủ quan về các biểu hiện bề nổi của các thành viên trong đoàn và những người liên quan đoàn bộ hành, nghe ngóng những những diễn biến lúc nóng, lúc lạnh của đoàn qua lăng kính và thái độ của các Youtubers. Họ coi chuyến bộ hành như một “game show thực tế”, hóng chờ kết quả chung kết để xem “cúp vàng” sẽ thuộc về ai, kẻ nào thắng, kẻ nào thua.

Còn với những ai không thích Minh Tuệ, coi ông là vật cản, đi ngược lại lợi ích của họ thì họ công khai gây bão thị phi để kích động dư luận, chia rẽ nội bộ đoàn, chia rẽ đoàn với đại chúng, làm cho hình ảnh của Minh Tuệ và ý nghĩa của chuyến bộ hành trở nên xấu xí. Họ khấp khởi chờ mong một kết cục xấu nhất dành cho đoàn bộ hành, mà thực chất là dành cho Minh Tuệ.

Nhưng có lẽ vẫn còn một nhóm người nữa, cũng khá đông đảo, lặng lẽ và thận trọng để nhận thức đâu là sự thật và điều gì đang xảy ra. Đối với họ, Ngài Minh Tuệ cũng như chuyến hành hương của ông đến quê hương của Phật giáo chỉ là khúc dạo đầu, là một là ví dụ, một minh hoạ sinh động của một cá nhân trong số rất nhiều cuộc tập duyệt đang diễn ra âm thầm trên những nẻo đường khác nhau mà chúng ta chưa biết đến trong một hành trình lớn để chúng ta bước vào một kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên Tâm Linh.

Bởi, cuộc hành trình Hóa độ và Cứu vớt chúng sinh luôn luôn là con đường khó khăn nhất, gian nan nhất và là sự nghiệp bền bỉ, dài lâu không có điểm dừng, chừng nào vẫn còn loài người trên hiện hữu trái đất này.

Trong cuộc tập duyệt vĩ đại đó, con đường tự tập học của Ngài Minh Tuệ (như chính ông đã nói) chỉ là một minh chứng nho nhỏ trong vòng xoáy xung đột giữa Chánh Pháp Đạo Phật và những nguy cơ thoái hoá, suy tàn. Trong cuộc thanh lọc đó, thành công hay thất bại của một cá thể hay của một nhóm người, thành tựu hay vấp ngã, đều có thể là tấm gương để học hỏi noi theo hoặc để tránh sai lầm tổn thất.

Không có Minh Tuệ này thì sẽ có những Minh Tuệ khác xuất hiện, dưới hình tướng này hay hình tướng khác và không chỉ trên lĩnh vực tôn giáo. Đó không đơn giản là ý Trời hay ý muốn của Thượng Đế. “Cái đó” bước ra từ chính cuộc sống, từ nhu cầu thôi thúc từ cuộc sống và là ý muốn của Con Người. Đôi khi là để báo hiệu “Đã đến Lúc” hoặc “Đang được An bài”...

3. Cuộc hành trình vĩ đại

Đức Phật trước khi nhập Niết Bàn đã để lại lời nhắn nhủ với hậu thế rằng Đạo Phật sẽ chuyển hóa từ thời kỳ Chánh Pháp (Saddharma, TK6 TCN – TK4 SCN) sang thời kỳ Tượng Pháp (Pratirupadharma, TK5 – TK19), sau đó rơi vào thời kỳ Mạt Pháp (Saddharma-vipralopa, từ TK20) kéo dài hàng chục thế kỷ (có tài liệu ghi là kéo dài 10 nghìn năm).

Bằng trí tuệ siêu việt Đức Phật đã tiên tri rằng bước ngoặt quan trọng này bắt đầu xảy ra đúng vào thời đại của chúng ta, sau khi máy móc xuất hiện thay thế bàn tay con người để từ đó sản xuất không ngừng tăng trưởng theo nhiều cấp số. Hàng hóa tràn ngập, cạnh tranh và chủ nghĩa tiêu dùng ở thế kỷ 20 và 21 đã đẩy chúng sinh vào cuộc chạy đua tham, sân, si chưa từng có - say sưa, sôi nổi, hừng hực như những ngọn gió độc muốn dập tắt ngọn Lửa Tam Muội mà Đức Phật đã nhóm lên, nuôi dưỡng trên Trái Đất này trong suốt 2600 năm qua.

Stephen Hawking, nhà Vật lý lý thuyết vĩ đại bậc nhất thế kỷ 20, 21 đã gọi kỷ nguyên mà chúng ta đang sống là “thời điểm nguy hiểm nhất của hành tinh chúng ta”. Còn triết gia nổi tiếng Edgar Morin, 103 tuổi, người Pháp, một trong những nhà tư tưởng hàng đầu của thế giới đương đại đã đánh giá rằng nhân loại hôm nay “đang bị thống trị bởi chủ nghĩa tiêu dùng, các giá trị truyền thống căn bản vốn đã được xây dựng và củng cố hàng nghìn năm đang phải nhường chỗ cho chủ nghĩa thực dụng và nền đạo đức đang suy đồi”... Vậy thì tại sao trong bối cảnh đó, từ những năm 80, 90 thế kỷ 20 đến nay các nhà tư tưởng, nhiều cơ quan nghiên cứu chiến lược lại nhận định “Thế kỷ 21 là Kỷ nguyên của Tâm linh”? Cái đó nói lên điều gì?

Tâm linh không chỉ đơn giản là niềm tin tôn giáo, là các hiện tượng siêu nhiên, càng không phải là mê tín dị đoan.

Eckhart Tolle, tác giả, diễn giả nổi tiếng người Đức định nghĩa: “Tâm linh là một trạng thái nhận thức thức tỉnh sâu sắc về bản chất con người, vũ trụ và ý nghĩa cuộc sống (Đức Thích Ca gọi đó là Giác Ngộ trong Tỉnh thức), là năng lực sáng tạo phi thường, là sự thấu suốt chân lý giúp con người chuyển hóa khổ đau và đạt đến trí tuệ tối thượng (Đức Phật gọi là Trí tuệ Bát Nhã), giúp con người phát triển nội tâm, tu dưỡng đạo đức và tâm hồn để vượt ra khỏi cái tôi cá nhân và đạt đến một trạng thái ý thức cao hơn” (Phải chăng đây chính là cái mà Đức Phật gọi là Niết Bàn).

Kỷ nguyên Tâm linh là sự trở lại cần thiết và tất yếu của các giá trị tinh thần tối thượng có đủ khả năng dẫn dắt loài người bước qua cuộc khủng hoảng chưa từng có hiện nay để vững vàng hướng đến một Tương lai tốt đẹp và nhân đạo hơn.

Vậy, chúng ta chờ đợi hay bước vào cuộc hành trình vĩ đại này?




Phần 2
Thời kỳ mạt pháp và một cách nhìn

Như đã trình bày ở phần 1: "Cuộc bộ hành của ngài Minh Tuệ tới Ấn Độ đem lại điều gì cho Đạo và cho Đời?", chuyến bộ hành đi Ấn Độ của Ngài Minh Tuệ đang diễn ra với nhiều diễn biến phức tạp, đặt ra nhiều dấu hỏi và nhận được nhiều dư luận trái chiều.

Một số nhà nghiên cứu lý luận và học giả trên lĩnh vực tôn giáo đã bắt đầu lên tiếng. Bên cạnh những luận điểm phản ánh tinh thần Chánh pháp của Đạo Phật, có một số nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan điểm khá mơ hồ, khó nhận biết đúng sai, hoặc biến những câu chuyện của họ thành “bất khả tư nghì” làm cho đại chúng càng hoang mang về Ngài Minh Tuệ và đoàn bộ hành của ông, ví dụ “Phản biện hoặc phê phán những người xuất gia là tạo nghiệp”, “Thầy Minh Tuệ có phép thần thông”, hoặc “sự màu nhiệm đức hạnh của một người chân tu”; Luận về “Sự Vô ơn, Buông xả, Vô thường, nghiệp…” và câu chuyện “Chiếc lá rơi từ đâu?”...

Bản thân tôi không phải là Phật tử nhưng tôi tôn kính Giáo lý của Đức Phật, kính trọng các bậc chân tu, đồng thời kính nể và đánh giá cao sức chịu đựng gian khổ, lòng quyết tâm tu tập của Ngài Minh Tuệ. Bởi vậy tôi đã theo dõi chuyến bộ hành của ông với một thái độ trân trọng và cẩn trọng.

Tuy nhiên, sau khi lắng nghe một số bài thuyết giảng gần đây của một số học giả trên phương tiện truyền thông, tôi đã rơi vào một trạng thái vô cùng trăn trở với những lo âu trước một số quan điểm có thể làm cho một bộ phận của đại chúng càng hiểu sai về Chánh pháp Đạo Phật.

Vì lý do đó tôi xin trân trọng gửi đến bạn đọc một số ý kiến mang tính cá nhân với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề liên quan đến nhận thức về Giáo lý của Đạo Phật.

I. Một số căn cứ cần đem ra trao đổi để hiểu thêm về tình hình Đạo Phật trong giai đoạn hiện nay

Do khuôn khổ bài viết có hạn nên trong phần này tôi xin bắt đầu bằng việc mượn lời từ bài nói chuyện mang tính “thuyết pháp” gần đây của một nữ tiến sĩ ở nước ngoài về Ngài Minh Tuệ. Nhận thấy đây là câu chuyện điển hình đại diện cho một trào lưu đang thịnh hành thu hút sự quan tâm của nhiều người, đồng thời xét đến tầm ảnh hưởng của một học giả nghiên cứu về Đạo Phật có thể tác động sâu sắc đến nhận thức của đại chúng, đến hình ảnh chân thật của Ngài Minh Tuệ và tính trung thực của Chánh Pháp Đạo Phật, tôi xin được trình bày quan điểm của tôi một cách thẳng thắn dưới đây.

Chương trình thuyết giảng của tiến sĩ thần học khá dài, tôi xin trích dẫn nguyên văn một số ý chính chỉ trong 4 phút mào đầu của tiến sĩ để bạn đọc tham khảo:

- Các bạn không hiểu gì về thầy Minh Tuệ ... vì Ngài đã buông bỏ hoàn toàn, có cũng được, không có cũng được, có cũng tốt đẹp mà không có cũng tốt đẹp.

- Ngài Minh Tuệ không chỉ thực hành Giới mà Ngài còn sống như chính Giới luật, bởi thầy Minh Tuệ đã thực hiện được trọn vẹn toàn bộ 13 Hạnh Đầu Đà... Thầy Minh Tuệ không cần phải cố gắng giữ giới bởi vì thầy Minh Tuệ chính là Giới luật sống, Giới luật chính là thầy Minh Tuệ, Minh Tuệ chính là Giới!

- (Ví Ngài Minh Tuệ như một người lái xe giỏi) không bao giờ cũng phải đọc luật giao thông, bởi vì việc tuân thủ luật giao thông đã trở thành bản năng.

- Khi được hỏi thầy có giữ 250 Giới không, thầy đã trả lời một cách điềm tĩnh là “cũng có giữ giới mà cũng không có giữ giới. Ai chấp vào đó thì không được gọi là giữ giới”. Thầy Minh Tuệ chỉ muốn nhắc nhở mọi người Giới chỉ là phương tiện chứ không phải mục đích. Vì mục đích tối thượng của người tu hành là giác ngộ và giải thoát thì việc giữ giới của người tu hành là phải đi kèm với trí tuệ chứ không chỉ ràng buộc vào những điều khoản cứng nhắc.

- Khi được hỏi về giữ giới Thầy Minh Tuệ đã trả lời rằng thầy chỉ cần giữ ba giới, đó là GIỚI THAM, GIỚI SÂN VÀ GIỚI SI... Ý thầy Minh Tuệ chỉ muốn nhắc nhở các bạn rằng cho dù các bạn có giữ 250 giới chứ 2.500 giới đi nữa mà nếu các bạn không diệt được tham, sân, si thì cũng không thể nào đạt được giải thoát.

II. Một số ý kiến về nhận định của tiến sĩ thần học

Để tránh bạn đọc cho rằng dưới đây là ý kiến chủ quan nên tôi xin ưu tiên trích dẫn nguyên văn Giáo lý từ Kinh Tạng Đạo Phật.

1. Có thể có sự nhầm lẫn về “buông bỏ” và Giới

Khi được hỏi về 250 giới, Ngài Minh Tuệ đã trả lời “đã từng đọc nhưng không thuộc 250 giới”. Qua thái độ của Ngài Minh Tuệ, tôi tin rằng đây không phải là một lời nói dối mà là một câu trả lời thành thật của một người can đảm dám nói lên sự thật về bản thân và đó chính là điều làm tôi thêm kính trọng ông. Đối với một lời nói thật – không đáng nhận những lời chê bai, chỉ trích mà cần được cảm thông và động viên vì ông vẫn đang còn trên con đường tu tập. Ngược lại, tiến sĩ không nên lấy đó để trách cứ “các bạn không thể hiểu gì về thầy” một cách chung chung và càng không nên tâng bốc việc ông nói ông chỉ “từng đọc” và “không thuộc 250 giới” như là một sự uyên thâm.

Buông bỏ trong Phật giáo có nghĩa là từ bỏ sự chấp trước vào tham ái, sân hận, si mê và những ràng buộc thế gian để đạt được an lạc, giải thoát. "Hãy buông bỏ quá khứ, buông bỏ tương lai, buông bỏ hiện tại. Khi tâm không còn chấp trước, người ấy vượt thoát khỏi sinh tử." Kinh Pháp Cú (Dhammapada 348).

Tinh thần giải thoát của Giới tuy không cứng nhắc, câu nệ, chấp bám, nhưng không phải là đối tượng để buông bỏ, nhất là khi người đó đang trên con đường tu học.

Bởi vì: GIỚI là nguyên tắc đạo đức được Phật Tổ Như Lai đúc kết nhằm giúp người tu hành tự thanh lọc thân tâm, “là nền tảng của sự giải thoát, và là một trong ba yếu tố gắn kết Giới - Định - Tuệ, là điều kiện quyết định để người xuất gia bền bỉ, tinh tấn trên con đường tu hành (Kinh Pháp Cú 183).

"Giới là phương tiện bảo vệ Chánh Pháp, không có Giới, Chánh Pháp sẽ không tồn tại lâu dài” và “Không có Giới, không có Định. Không có Định, không có Tuệ. Không có Tuệ, không thể giải thoát". (Kinh Tăng Chi Bộ 3.65 và 8.53)

GIỚI LUẬT là bộ quy tắc chi tiết quy định hành vi của Tăng đoàn, bao gồm hệ thống xử lý vi phạm nhằm duy trì sự thanh tịnh và kỷ cương của Tăng đoàn.

Theo Luật Tạng (Vinaya Pitaka) Giới luật là nền tảng dành cho Tăng đoàn được chính Đức Thích Ca chế định, trong suốt 2600 năm qua luôn được coi là nền tảng cơ bản của Phật giáo để bảo vệ Ba Ngôi báu Phật, Pháp, Tăng; là linh hồn, là hạt nhân cốt lõi quan trọng nhất của Phật giáo (gồm 227 Giới luật Tỳ-kheo hoặc 311 giới Tỳ-kheo-ni đối với Phật giáo Nguyên Thủy; 250 giới Tỳ-kheo và 348 giới Tỳ kheo-ni đối với Phật giáo Đại Thừa; 253 giới Tỳ-kheo và 364 giới Tỳ kheo-ni đối với Phật giáo Tây tạng). Tất cả các kinh sách và Luật Tạng của Đạo Phật đều quy định rằng Giới luật cần được áp dụng nghiêm ngặt và bắt buộc đối với mọi thành viên tham gia Tăng đoàn.

Như vậy người xuất gia có thể buông bỏ mọi thứ (quá khứ, hiện tại, tương lai, gia đình, thậm chí thân xác…), nhưng Giới và Giới luật thì hoàn toàn không phải là thứ để “buông bỏ” bởi đó là mạng sống tinh thần của người tu hành.

Cho rằng Giới và Giới luật “có cũng tốt đẹp, không có cũng tốt đẹp” khi phát ngôn giữa đại chúng thì hoàn toàn có thể bị đánh giá là thái độ thiếu trách nhiệm đối với Giáo lý Đạo Phật, và nguy hại hơn, có thể gây hiểu lầm rằng sự mơ hồ về ý nghĩa và giá trị của thực hành giới luật là tình trạng chung của nhiều người xuất gia hiện nay. Do đó, không nên tuyên truyền và tán dương điều này.

2. Tán dương quá đà sẽ có hại cho hình ảnh của Ngài Minh Tuệ

Cho rằng “Ngài Minh Tuệ không chỉ thực hành Giới mà Ngài còn sống như chính Giới luật, bởi thầy MT đã thực hiện được trọn vẹn toàn bộ 13 Hạnh Đầu Đà” là một nhận định chủ quan, võ đoán, thiếu căn cứ.

Thứ nhất, theo quy định của Giới luật thì việc tự tu tập Hạnh Đầu Đà (tức không có người đi trước truyền pháp) đã là không đúng Pháp. Các Kinh Tạng về Hạnh Đầu Đà đều nhấn mạnh rằng:

• Chỉ Tỳ-kheo là người đã chính thức xuất gia được thọ giới đầy đủ mới có thể thực hành đầy đủ Hạnh Đầu Đà (Luật Tạng Vinaya Pitaka);

• Khẳng định vai trò và cấu trúc của Tăng đoàn như một cộng đồng tu hành chuyên nghiệp mới đảm bảo đủ điều kiện truyền giới và giữ giới cho những người tu theo Hạnh Đầu Đà (Kinh Trường Bộ (Dīgha Nikāya), Kinh Tạng Dhutanga Katha và Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinibbāna Sutta).

• Cần lưu ý đến ý nghĩa của Hạnh thứ 3 về “Đi khất thực từng nhà” và Hạnh thứ 9 về “Ở nơi hoang vắng” là:

Hạnh “Đi khất thực từng nhà”, “đi” được hiểu là “di chuyển”, trong đó “khất thực” là mục đích, “đi” chỉ là phương tiện, nhằm mục đích “biểu hiện cho sự bình đẳng và từ bỏ tâm phân biệt, không chọn nhà giàu hay nghèo giúp người tu hành dẹp bỏ sự thiên vị và giữ tâm thanh tịnh”.

Như vậy trong Pháp môn 13 Hạnh Đầu Đà, không có bất kỳ nội dung nào quy định người xuất gia tu theo “pháp đi bộ” hoặc bắt buộc phải đi bộ, hoặc chỉ được đi bộ. Do đó có thể coi “đi bộ” là một pháp tu do Ngài Minh Tuệ tự phát minh, hoặc đơn giản, như ông đã nhiều lần giải thích là “đi bộ để rèn luyện thân thể và thử thách lòng kham nhẫn”. Từ đó thấy rằng việc kiên trì thực hành đi bộ của Ngài Minh Tuệ trong 6 năm qua, mặc dù rất đáng khâm phục, nhưng không thể coi là “để giữ giới” hoặc gọi đó là “Pháp” của 13 Hạnh Đầu Đà do Đức Phật chế định.

Hạnh “Ở nơi hoang vắng” không hàm ý về nơi ăn, chốn ngủ mà nhấn mạnh việc người tu Hạnh Đầu Đà cần sống và tu tập ở những nơi hoang vắng như rừng sâu, núi cao để tránh bị xã hội tác động làm sao nhãng tu tập, ảnh hưởng đến tập trung thiền định. Những người tu theo phương pháp khổ hạnh ở các tôn giáo khác như Kito giáo, Hindu giáo, Đạo giáo... đều ưu tiên dành thời gian cho việc thiền định, nhập thất và thường chọn sống ở những nơi dân cư vắng vẻ nhất. Ở các quốc gia Phật giáo như Srilanka, Mianma, Lào, Thái Lan rất ít khi thấy hình ảnh những đoàn tu sĩ khổ hạnh diễu hành hết ngày này qua ngày khác trước sự chứng kiến của công chúng, gây ồn ào, thường xuyên tiếp xúc với công chúng để nhận đảnh lễ.

Thứ hai, việc tuyên bố rằng “Thầy Minh Tuệ không cần phải cố gắng giữ giới bởi vì thầy Minh Tuệ chính là Giới luật sống, Giới luật chính là thầy Minh Tuệ, Minh Tuệ chính là Giới!” không phải là “tán thán” mà là một sự bốc đồng quá đà, lẽ ra không nên có.

Phát ngôn như vậy khác nào coi Ngài Minh Tuệ đã là bậc đại trí, đại giác ngộ, sánh ngang với Đấng Thế tôn. Đức Phật sau khi giác ngộ vẫn kiên trì giữ Giới cho đến ngày nhắm mắt để thân tâm luôn thanh tịnh và để làm gương cho mọi người. Có lẽ Ngài cũng chưa bao giờ dám tuyên bố “Giới luật chính là ta, ta chính là Giới!”

“Giữ Giới” là làm theo lời dạy được đúc kết từ cuộc đời tu tập của Đức Phật để tránh làm những điều vốn dĩ là bản năng tiêu cực vốn có trong con người, để tu hành đạt thành tựu. Đối với các bậc tu đạt đến mức thượng thừa thì việc giữ Giới có thể trở thành bản năng. Vậy thì “bản năng giữ giới” vẫn phải gọi là GIỮ chứ sao, nếu không thì gọi là gì? Tại sao lại dị ứng và thành kiến với tinh thần nghiêm túc giữ gìn, bảo vệ Giới đến như vậy nhỉ? Nên nhớ rằng càng muốn được “tự do như con nai trong rừng” như Ngài Minh Tuệ mong muốn thì càng phải giữ Giới. Đối với người tu hành thì Tự do thật sự là tự do trong Giới luật, Tự do chỉ đến sau khi Giới vững chãi như kim cương. Cái đó chỉ bậc giác ngộ mới làm được, không phải là một người mới đi tu.

Nên lưu ý Giới là dành cho người tu hành, để tự đánh giá về bản thân khi được chất vấn về việc giữ giới. Giới không phải là cái để người tu hành để đem ra so đo, đánh giá người khác khi được hỏi về việc giữ giới của bản thân. Do đó khi được hỏi về việc giữ 250 giới, mà lại đưa ra cách giải đáp bằng ngôi thứ ba “Ai chấp vào đó (giữ giới) thì không được gọi là giữ giới” dễ gây cảm nhận là người trả lời đang chống chế, thiếu trung thực. Do vậy, đây là điều không nên tuyên truyền và tán dương, làm cho mọi người càng lầm lạc trong thời buổi nhận thức nhiễu nhương như hiện nay.

Nói rằng “dù bạn có giữ 250 giới chứ 2.500 giới đi nữa mà nếu các bạn không diệt được tham, sân, si thì...” là lẫn lộn nhân quả. Người xuất gia sẽ “diệt tham, sân, si” bằng cách nào nếu không nghiêm cẩn kiên trì giữ Giới, bởi giữ Giới là con đường duy nhất chế ngự, mới diệt dược tham, sân, si. Việc lấy con số “2500 giới’ nào đó để so sánh với 250 Giới của Đạo Phật đã được gìn giữ suốt hai mươi lăm thế kỷ qua là cách so sánh tuỳ tiện, lộng ngôn, thậm chí là mạo phạm sự tôn nghiêm của Chánh pháp, đó thật sự là việc làm không đáng có đối với một nhà nghiên cứu.

Nếu quả thật “Giới luật chính là Minh Tuệ, Minh Tuệ chính là Giới” thì Ngài Minh Tuệ cần gì phải tu tập, làm gì phải đi bộ hết năm này qua năm khác? Ca tụng Ngài Minh Tuệ đến mức đó thì không những không phản ánh đúng đức hạnh khiêm cung của một người tu tập cần phải có, mà đã làm cho hình ảnh của Ngài Minh Tuệ trở nên rất khó coi trong con mắt những người hiểu biết, rất có hại cho con đường tu tập tiếp theo của ông.

Thứ ba, không riêng gì tiến sĩ thần học mà hiện nay đang xuất hiện trào lưu cổ xúy và tuyên truyền về “năng lực tâm linh huyền bí”, những “thành tựu tu tập đặc biệt” là những điều không có cơ sở để kiểm chứng của Ngài Minh Tuệ (ví dụ khả năng thần thông, hay khả năng tiếp xúc với cõi âm vốn là điều cấm kỵ trong Đạo Phật). Việc tán tụng này đã đẩy Ngài Minh Tuệ vào tình thế rất bất lợi. Có thể Ngài Minh Tuệ quả thực không biết dư luận tán tụng về mình như vậy, nhưng ngược lại nếu biết mà không cải chính thì sẽ phạm Giới cấm thuộc nhóm 13 Giới Sanghadisesa – tức nhóm Giới “cấm nghiêm trọng”, đó là “Cấm Ngụy Thông dưới mọi hình thức về Giác Ngộ hoặc đã đạt được các trạng thái tâm linh đặc biệt”.

3. Không nên gán ghép quan điểm và mong muốn của mình để tăng sức thuyết phục

Thật sự khó hiểu khi tác giả thường thuyết giảng rằng “Thầy Minh Tuệ chỉ muốn nhắc nhở mọi người là ...”, “Ý thầy Minh Tuệ chỉ muốn nhắc nhở các bạn rằng...”

Không nên cố gắng thuyết phục mọi người phải theo chủ kiến của mình bằng cách áp đặt lời lẽ của mình cho người khác, không nên ném chữ vào… Ngài Minh Tuệ, vì làm như vậy không phải là đề cao mà là thất kính đối với Ngài Minh Tuệ.

4. Có nên so sánh Ngài Minh Tuệ với một tài xế giỏi “không bao giờ phải đọc luật giao thông, bởi vì việc tuân thủ luật giao thông đã trở thành bản năng”?

Ai cũng biết rằng Luật Đạo khó thực hiện hơn “Luật phàm” rất nhiều, nếu dễ thì ai cũng có thể thành Phật. Dẫu vậy “luật phàm” dù dễ nhưng không tùy tiện và ở đâu cũng có những điểm khắt khe giống nhau, ở Hoa Kỳ cũng như Việt Nam, nếu ai đó tự học lái xe mà không qua sát hạch, không thuộc luật giao thông, không qua thi cử đàng hoàng thì đố lấy được bằng lái xe. Có bằng rồi, lái xe giỏi đến mấy mà chỉ một giây phút chủ quan không tuân thủ luật giao thông, như ở Việt Nam hiện nay chẳng hạn, thì không những bị phạt rất nặng mà nguy cơ còn bị rút bằng.

Cách so sánh này dễ gợi người ta liên tưởng những điều rất bất lợi cho Ngài Minh Tuệ mà tôi không tiện nêu trong bài này.

5. Một sự nhầm lẫn nguy hại có thể làm cho đại chúng hiểu sai về giáo lý căn bản

Trích dẫn: “Khi được hỏi về giữ giới Thầy Minh Tuệ đã trả lời rằng thầy chỉ cần giữ ba giới đó là GIỚI THAM, GIỚI SÂN VÀ GIỚI SI...”. Quả thật trước ống kính Ngài Minh Tuệ đã nhắc đến điều này trong nhiều dịp.

Trước hết cần làm rõ trong Đạo Phật Tham (Lobha), Sân (Dosa), Si (Moha) được coi là ba nguyên nhân căn bản, là ba loại độc làm ô nhiễm tâm dẫn đến đau khổ, bởi vậy trong tất cả các Kinh Tạng Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại Thừa đều ghi chép rằng chính Đức Phật đã đặt tên Tham, Sân, Si là “Tam Khổ”. Tam Khổ hoàn toàn không phải là Giới tu mà là đối tượng của Giới, nghĩa là dùng Giới để chế ngự và loại bỏ.

Nếu người xuất gia lấy Tham, Sân, Si làm Giới thì có khác nào người phàm “lấy ốm đau bệnh tật làm phương tiện để nâng cao sức khỏe”. Mặc dù có thể thông cảm vì lý do nào đó mà Ngài Minh Tuệ đã diễn đạt ngược với Giáo lý Nhà Phật, nhưng là một nhà khoa học thì cần nhận biết đó là một sai sót, không nên tán dương mà thành ra xuyên tạc Chánh pháp.

Còn đối với một người xuất gia có thâm niên thì sự bất cẩn đó bị coi là vi phạm một trong 250 giới của người xuất gia (thuộc nhóm Giới cấm thứ hai Sanghadisesa - nhóm lỗi nghiêm trọng mức hai, buộc phải thành khẩn sám hối công khai, đó là “Giới cấm xuyên tạc hoặc phát ngôn làm sai lệch nội dung của Giới: Không được bịa đặt hay dùng lời nói làm biến đổi các quy định của Giáo pháp, khiến cho Giáo pháp mất đi tính chính xác và tính nguyên bản”.

III. Vậy những câu chuyện trên liên quan gì đến mạt pháp?

Câu trả lời nằm chính trong câu hỏi “Mạt Pháp là gì?”

Chúng ta thường hiểu Mạt Pháp là các hiện tượng tiêu cực, phạm giới của một bộ phận tăng ni hiện nay, bao gồm các hành vi, các phát ngôn xấu xí, là sự lười biếng tu tập, là hiện tượng nhiều sư sãi công khai hành nghề mê tín dị đoan, là ăn chơi tham dục, là phô trương lãng phí xây chùa to, tượng lớn, là lợi dụng Đạo Phật, lợi dụng đức tin của phật tử để vun vén, làm giàu cho cá nhân...

Nhưng thật ra đó chỉ là hệ quả - là kết quả tất yễu bắt nguồn từ những nguyên nhân sâu xa. Nguyên nhân đó là gì?

Kinh Tạng Đạo Phật cũng như kết quả tra cứu trên phương tiện truyền thông đều cho ra nội dung giống nhau. Đó cũng chính là lời giải đáp:

Mạt Pháp trong Phật giáo là giai đoạn suy tàn của Chánh Pháp, khi giáo lý của Đức Phật bị lợi dụng, bị xuyên tạc, bị hiểu sai, thực hành sai, tà pháp lấn át Chánh Pháp dẫn đến việc con người không còn tu tập đúng theo Chánh Pháp, tăng đoàn suy đồi, nhiều tà kiến xuất hiện, con người xa rời Phật Pháp (Kinh Đại Bát Niết-bàn).

IV. Câu chuyện "Chiếc lá rơi từ đâu" thay cho lời kết

Vừa qua mạng xã hội bàn tán sôi nổi về câu chuyện: Có một người ngưỡng mộ Ngài Minh Tuệ đã đến Thái Lan để đảnh lễ ông. Trước nhiều ống kính người này đã xin chuyển đến ông một câu hỏi từ một người quen. Câu hỏi đó là “Chiếc lá rơi từ đâu?” và Ngài Minh Tuệ đã trả lời “Từ vô minh”.

Một số người đánh giá đó là một câu trả lời ngớ ngẩn, tối nghĩa. Ngược lại, một số người khác lại hết lời khen ngợi câu trả lời đó phản ánh trí tuệ siêu việt, chứa đựng huyền cơ. Rồi mỗi người giải thích theo mỗi cách, thật phong phú, thật sâu xa và sinh động.

Riêng tôi xin nhận xét câu trả lời của Sư Minh Tuệ không hàm chứa huyền cơ, cũng không ngớ ngẩn, mà là rất “thâm-thuý”!

Thật ra câu hỏi dành cho ông không phải là một hiện tượng truyền thống trong sinh hoạt Phật giáo mà là một lối đặt câu hỏi đặc trưng, điển hình của một Công án trong Thiền tông.

Người đặt câu hỏi cho Ngài Minh Tuệ chắc hẳn là một bậc cao nhân hiểu biết về Thiền tông muốn thử thách công khai trước ống kính truyền thông về năng lực tu tập, trình độ ngộ thiền - năng lực nhận biết nhanh nhạy bằng trực giác và để đánh giá tâm trong trẻo của ông thông qua một Công án.

Công án đôi khi được ví như một bài thơ kiệm chữ, là những câu hỏi hoặc câu chuyện phi lý thường được sử dụng trong Thiền tông để giúp hành giả vượt qua tư duy nhị nguyên, lý luận trừu tượng, là phương tiện để giúp người tu hành đột phá nhận thức, thay vì bị mắc kẹt trong suy diễn rắm rối.

Công án là sự nhận biết trực tiếp về thực tại, ví dụ khi được hỏi về chiếc lá thì người đáp thể hiện khả năng nhận diện đúng những gì liên quan đến Sự thật về chiếc lá (là bản lai diện mục của chiếc lá) chứ không phải là bằng lối suy luận thông qua những khái niệm phức tạp không liên quan đến chiếc lá rơi, hoặc theo lối suy diễn nhằm đưa ra bài học giáo huấn kẻ khác. Kết quả thành công của một Công án là sự tỉnh ngộ tức thì, là trạng thái bừng sáng nội tâm khi hành giả nhận ra sự thật một cách chân thật ngay trong khoảnh khắc hỏi – đáp (đốn ngộ) về chiếc lá rơi, chứ không phải suy diễn từ chiếc lá sang một câu chuyện khác, cho dù câu chuyện đó được khoác một lớp vỏ cao siêu.

Vậy xét theo Công án thì câu trả lời của Ngài Minh Tuệ không phù hợp với mục đích của một Công án, vì bản chất chiếc lá là vô tri, nó không biết gì về số phận “sinh tử” của nó là “vô thường” nên sinh ra “tâm tham ái” là “vô minh” như nhiều người đã phân tích. Quả thật chiếc lá không đáng bị mắng oan và gánh chịu trách nhiệm thay cho sự “vô minh” kém cỏi của con người.

Có lẽ Ngài Minh Tuệ đã muốn mượn câu chuyện chiếc lá, nhân cách hoá nó để đưa ra một lời giáo huấn cho mọi người. Đó là lý do vì sao tôi gọi câu trả lời của ông là “một lời giáo huấn thâm-thuý” chứ không phải là một trạng thái đốn ngộ.

Cuối cùng, nên chăng chúng ta cũng thử đưa ra một “Công án” bằng một câu hỏi thiết thực đang được rất nhiều người quan tâm, đó là:

“Ngài Minh Tuệ và đoàn bộ hành của Ngài đang đi về đâu?”

Có người sẽ trả lời ngay “Đi Ấn Độ chứ còn đi đâu, thế mà cũng hỏi.”

Nhưng tôi và nhiều người khác có thể có cách nghĩ khác, rằng câu hỏi đó rất khó trả lời vì Ngài Minh Tuệ và đoàn bộ hành của Ngài không đơn giản như một chiếc lá mà là một ẩn số - Một Ẩn Số rất lớn trong những ẩn số nằm trong cuộc thanh lọc của Hành trình đi tìm Anh sáng của Chân lý và hướng đến những giá trị Tâm linh đích thực trong thời đại mà Đức Phật gọi là Thời Mạt pháp.

Câu trả lời có lẽ không dành cho chúng ta mà dành cho thời gian.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mẹo Comment

Chú ý: chỉ cần dán link vào, không cần gõ thẻ khi post
Hình (file có đuôi jpg, jpeg, png, bmp, gif ),
Nhạc (file có đuôi mp3 hoặc từ trang web nhaccuatui),
Video (từ Youtube)

Đổi cỡ, màu chữ:
[color="red"][size="20"] chữ cỡ 20 màu đỏ [/size][/color]
(màu dùng mã hexa hoặc tiếng Anh: red, blue, green, violet, gold ..)
Giới thiệu link: <a href="link"> tên link </a>
Chữ đậm <b> chữ đậm</b>
Chữ nghiêng: <i> chữ nghiêng </i>

Chèn Yahoo smiley (click Chèn emoticons để xem phím tắt)
Đã thêm mấy smiley nhưng chưa rảnh thêm vào bảng chèn. Phím tắt:

:-/ bối rối ;) nháy mắt ;;) đá lông nheo
:"> thẹn :X yêu thế =(( tan nát cõi lòng

Chú ý Nếu nút Trả lời ko hoạt động, xin chịu khó lên thanh địa chỉ, gõ thêm vào cuối (ngay sau html) ?m=1 rồi nhấn Enter, nút Trả lời sẽ ok. (29/11/18)

Chèn Emoticons
:))
:D
:p
:)
:(
:-o
:-*
=))
:((
:-?
:-h
~o)
@};-
:D
[-X
=D>
*-:)
B-)
X(
:@)