14/3/25

Kị húy

“KỴ HÚY” - CÓ PHẢI PHẦN LỚN DO ĐỌC CHỆCH HAY LÀ ĐỌC ÂM KHÁC VỐN ĐÃ CÓ SẴN?
"Kỵ húy" là chuyện có thật trong lịch sử. Nhưng để giải thích "kỵ húy" mà đem một âm A mà nói rằng nó phải đọc chệch, đọc trại, nói giại sang âm B, thì đó lại là chuyện khác, không hề thuộc về chuyên môn của các nhà nghiên cứu lịch sử. Tuyệt đại bộ phận các chuyên gia lịch sử do thiếu hiểu biết về ngôn ngữ học, cho nên cách nhanh nhất, tiện nhất, ít tốn nơ-ron thần kinh nhất chính là "đổ bừa" cho "đọc chệch", “đọc trại”….
Trên thực tế, có rất nhiều từ có nguồn gốc từ tiếng Hán, mà phần lớn những từ "kỵ húy" không được phép sử dụng ở đây đều là âm Hán Việt; nhưng do quá trình phát triển hơn 2000 năm, các chữ Hán được du nhập vào tiếng Việt qua nhiều thời kỳ các khau và để lại nhiều âm đọc ở các tầng thời gian khác nhau. Cho nên, có nhiều chữ Hán có nhiều cách đọc Hán Việt cổ có trước âm Hán Việt, và sau đó nó tiếp tục được tồn tại song song với âm Hán Việt, trong tuyệt đại đa số các trường hợp là có ngữ nghĩa tương đương, chỉ là khác âm đọc. Do đó, khi yêu cầu "kỵ húy" được triều đình đặt ra, thì người ta chỉ việc tìm đến từ có ngữ nghĩa tương đương để đọc thay thế, mà tuyệt đại bộ phận chính là âm Hán Việt cổ của chính chữ Hán đó, rất ít trường hợp phải đọc chệch như Tông đọc thành Tôn. Nếu đứng ở quan điểm đọc chệch do "kỵ húy", thì có nghĩa là họ cho rằng âm đọc mới là âm sinh sau âm Hán Việt cần phải kỵ đọc, mà không cần có bất cứ sự nghiên cứu ngôn ngữ nào.
Theo danh sách của bài viết “Từ “kỵ húy” của người Nam bộ” dưới đây (xem link dưới), thì tuyệt đại bộ phận những âm bị coi là đọc chệch do kỵ húy đều là âm cổ đã xuất hiện trước âm Hán Việt cần kiêng đọc, và sau đó thì chúng tồn tại song song, do đồng nghĩa mà khi cần kỵ húy thì sẽ chuyển sang đọc/nói âm cổ hơn. Chỉ có một số ít trong đó là do đọc chệch thật mà thôi, cụ thể giải thích như sau:
1. 領 Lĩnh/Lãnh: Tuyệt đại đa số các trường hợp vần -anh/-inh đều thuộc về lớp từ Hán Việt, tức là có thể xảy ra một chữ Hán có 2 âm đọc song song xuất hiện cùng thời kỳ hoặc sát nhau, cách nhau không xa và đều thuộc lớp từ Hán Việt. Đôi khi có lẫn cả vần -ênh trong đó. Ví dụ: 病 Bệnh/Bịnh; 命令 Mệnh lệnh/Mịnh lịnh...
Các trường hợp -anh/-inh chiếm đa số hơn, và rất nhiều tình huống hoàn toàn không liên quan gì đến kỵ húy, nhưng chúng vẫn tồn tại song song, ngoài ý muốn của nhà cầm quyền đương thời. Ví dụ: 盛Thạnh/Thịnh; 餅Bánh/Bính; 頂Đảnh/Đỉnh; 蜻蜓Thanh đình/Tinh đình (chuồn chuồn); 釘Đanh/Đinh; 聲Thanh/Thinh; 姓Tánh/Tính; 性Tánh/Tính; 腥Tanh/Tinh; 拼Phanh/Phinh; 生Sanh/Sinh; 竟Cánh/Kính; 伶Lanh/Linh…
Do đó, Lĩnh/Lãnh là cặp bài trùng, nếu ông hoàng bà chúa nào tên vần -anh thì chỉ việc dùng chữ vần -inh/-ênh để thay thế ngay lập tức, và ngược lại, chứ không hề có hiện tượng đọc chệch, đọc choạc nào ở đây cả.
2. 珠 Chu/Châu: Theo ngữ âm học, các chữ thuộc nhiếp Lưu có vần -âu cổ hơn vần -u/-ưu. Như 油Dầu > Du; 收 Thâu > Thu... Và có không ít những chữ giữ nguyên âm -âu từ thời Hán Việt cổ sang tầng Hán Việt, như 求球 Cầu (mà âm Hán Việt phải đọc là Cừu), hay chữ 頭Đầu thì đến nay vẫn là Đầu.
Do đó, âm 珠 Châu cổ hơn âm Chu, nó là bề trên của Chu, chứ không phải là do kỵ húy mà Chu tự dưng phải sang tên đổi họ thành Châu. Không chỉ chữ Châu (châu báu) này, mà các cặp khác cũng vậy: 朱 Châu > Chu; 舟Châu > Chu...
3. 樹 Thụ/Thọ: Các chữ 樹受授 đều đọc là Thụ thì âm cổ của nó vẫn là Thọ. Và về nguyên tắc thì chữ Thọ壽 cũng phải đọc là Thụ, nhưng vì dân gian đã quá quen dùng âm Thọ cổ xưa, cho nên vẫn để nguyên cho đến ngày nay. Tương tự, chữ 儒Nho cũng là âm cổ, thay vì đọc là chữ Nhu. Chữ Nhu rất ít người biết đến, hiện chỉ thấy tồn tại trong câu ca dao sau:
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ,
Đèn Mỹ Tho khi tỏ khi lu.
Anh về học lấy chữ nhu,
Chín trăng em đợi mười thu em chờ.
chữ 儒 Nho mà bỏ chữ Nhân đứng亻 đi thì vẫn đọc là 需 Nhu (nhu cầu).
Do đó, vần -o ở đây cổ hơn vần -u, vì thế 扶Phò cổ hơn Phù (Phò Lê diệt Trịnh), 駙馬 Phò mã (không thấy ai đọc là Phụ mã, dù âm Hán Việt của nó là vậy)... Cho nên, 樹受授 Thọ cổ hơn Thụ, khi cần kỵ húy thì lấy âm cổ hơn ra đọc thôi. Nếu như đúng là do kỵ húy mà đọc chệch Thụ sang Thọ, thì những chữ 壽 Thọ (Phúc Lộc Thọ), 儒 Nho, 扶 Phò... can cớ gì mà phải đọc chệch theo? Việc này hỏi đầu gối cũng biết.
4. 書 Thư/Thơ: Ở đây Thơ cũng có thể coi là âm cổ của Thư (theo tiếng Hán hiện nay Thư nghĩa là “sách”, mà nghĩa cổ cũng là “thư” trong “thư từ”).
Chữ Thư thuộc vận Ngư, về nguyên tắc thì vần cổ của nó phải đọc là -ưa, ví dụ như: 距Cựa (cựa gà) > Cự (cự ly); 鋸Cưa (cái cưa) > Cứ; 除Chừa > Trừ; v.v... Nhưng cũng có một số chữ có vần cổ là -ơ, kỳ thực điều này cũng dễ hiểu, vì vần -ưa thực chất là -ươ-, nhưng theo quy tắc nếu đằng sau không có vần đuôi khép, thì nguyên âm -ơ- cuối cùng sẽ bị viết thành -a, nhưng vẫn đọc là -ơ.
Cho nên, tuy cùng là một vần với nhau, một số chữ đã đọc với âm Hán Việt là vần -ư, nhưng một số chữ lại không biến đổi đến -ư (hoặc có mà đã biến mất – chết yểu), nên chỉ còn đọc là -ơ, như chữ 初Sơ có âm cổ là Xưa; 所Sở có âm cổ hơn là Thửa, 疏Sơ có âm cổ là Thưa v.v.. Cả 初Sơ, 所Sở, 疏Sơ đều cùng một họ tộc với Thư書, cho nên Thư từng được đọc là Thơ là lẽ đương nhiên.
Còn một chữ Thơ khác lại là âm đọc cổ của chữ 詩Thi (thi thơ, nhà thơ) thì lại thuộc tình huống khác, tạm không nhắc đến ở đây.
5. 福 Phúc/Phước: Phước có thể coi là âm cổ nửa mùa của Phúc. Vì trong các âm cổ Hán Việt, thì tuyệt đại đa số các trường hợp đều có phụ âm B- là thanh mẫu cổ có trước Ph- (Ph- thuộc lớp từ Hán Việt). Nhưng có một số ít trường hợp, tuy đã đọc sang Ph-, nhưng phần vần lại vấn vương tơ lòng với vần cổ, mà không chịu chuyển sang vần mới. Ví dụ, các nhà ngôn ngữ học ai cũng nói Phổi là âm cổ Hán Việt của Phế, nhưng thực chất chỉ có vần -ôi mới là vần cổ, chữ phụ âm Ph- đã là thuộc âm Hán Việt rồi. Những trường hợp tương tự là 番 Phen > Phiên; 蕃 Phên > Phiên...
Còn với chữ 福Phúc, đây là chữ hình thanh, tòng Thị礻, 畐Phúc thanh. Có một số chữ mang âm Phúc (畐) như 逼 Bức, 輻 Bức...đây cũng là những âm cổ Hán Việt thời kỳ cuối. Các chữ 逼, 輻, 福 thời cổ đều thuộc bộ Chức, vần cổ đó lại là -ơ. Do đó, chữ Phước mà đọc là -ươc chính là phản ánh vần cổ này, đặc biệt là khi chúng là chữ thuộc Tam đẳng.
Lại nữa, nếu Phước là âm đọc húy chệch ra từ Phúc, vậy tại sao trên mộ của hoàng đế Bảo Đại lại ghi là Nguyễn Phước Vĩnh Thụy? Không lẽ ông ấy lại kỵ húy chính mình?
6. 映暎 Ánh/Yên, Yếng, Ảnh:
Không rõ tình huống chữ Yên là ở đâu ra, nhưng với những chữ vần -anh này, việc chúng có âm cổ là -iêng là bình thường. Từ “tai tiếng” nhất hiện nay chính là “Yêng” trong “yêng hùng” chính là âm cổ của “英Anh” trong “anh hùng”. Yêng hùng vốn dĩ là Anh hùng, đã có từ xa xưa, nhưng ngày nay ngữ nghĩa của nó đã bị thay đổi sang nghĩa tiêu cực, chủ yếu dùng trong “yêng hùng xa lộ”. Thời trước 1975, thì Yêng hùng vẫn là Yêng hùng, không có màu sắc cực đoan như hiện nay. Do đó, Yếng trong “Yếng ỏi” là âm cổ của “ánh” trong “ánh ỏi, inh ỏi”; hay “映Yếng” trong “yếng sáng” chính là âm cổ của “ánh” trong “ánh sáng”. Nếu như nói là kỵ húy, thì “yêng” trong “yêng hùng” có tội tình gì mà phải bị đọc “chệch” âm hả ông Nguyễn Phước Yếng?
7. Chủng/Chưởng:
Tình huống này chưa rõ thuộc trường hợp nào.
8. 當 Đang/Đương:
Trong phần lớn các trường hợp, thì vận -ang sẽ là vận cổ hơn -ương. Vận -ương thuộc lớp từ Hán Việt; còn vận -ang thuộc lớp từ cổ Hán Việt, nếu như ở lớp Hán Việt có vận -ang thì thực ra là đang trực tiếp lưu giữ vần -ang cổ.
Cho nên đừng nói là chỉ có Đang/Đương, mà các trường hợp Đàng > Đường đã rất phổ biến rồi (xem ở dưới). Chỉ khác là ở chỗ, đa số các cặp bị cho là “kỵ húy” trên, thì chữ đứng trước thường là âm Hán Việt, chữ sau thường là âm Hán Việt cổ. Ở đây lại xếp theo hướng ngược lại mà thôi.
9. 膽 Đảm/Đởm:
Đởm ở đây âm cổ của Đảm. Các sách y học cổ miền Bắc, các lang y miền Bắc cũng đều từng đọc âm cổ Đởm (mật) thay cho Đảm, và tất nhiên không bị “Đàng trong” ảnh hưởng gì đến việc kiếm cơm của họ.
Do đó, nếu nói 痰 Đờm là âm cổ của Đàm (đờm dãi) cũng không sai, âm này vốn đã có từ ngày xửa ngày xưa, chứ không phải vì kỵ húy “ông King” nào đó hôm nay mà phải đọc chệch cả. Chỉ là hạng “hát lót” thì sao phải kỵ?
10. 花 Hoa/Huê:
Người ta có thể vì sợ bà chúa nào đó mà đọc âm Huê, nhưng Huê thì tuyệt đối không phải đọc chệch từ 花 Hoa, bởi nó có thể có trước Hoa, hoặc ít nhất đã tồn tại từ cả ngàn năm trước, chứ không phải mới cách đây mấy trăm năm, vì kỵ húy mới có.
Không phải chỉ có花 Huê, mà ngay cả 化 Huế cũng là âm cổ Hán Việt của Hóa (Thuận Hóa > Hóa//Huế). Chú ý là trong chữ 花 Hoa có chữ 化 Hóa, nên diễn biến phát triển của chúng như nhau. Ngoài ra, chúng ta cũng còn có Huề xưa hơn Hòa (huề vốn)…
Các từ Huê, Huế đọc lên cũng gần sát âm trong tiếng Mân Nam của chữ Hoa, Hóa, có chăng chỉ là khác dấu thôi. Mà tiếng Mân Nam thì vốn dĩ còn lưu lại âm Hán cổ rất nhiều. Cho nên mới nói Huê, Huế đã tồn tại cả ngàn năm rồi, tuyệt đối không phải là hạng sinh sau đẻ muộn.
11. Thật/Thiệt:
Không rõ là chữ nào. Chữ 實 thì hiện nay chúng ta đều đọc là Thực, nhưng thực tế nó lại có âm Hán Việt là Thật (神質切 thần chất thiết = thật); còn chữ 寔 này mới đọc là Thực (常職切 thường chức thiết = thực), nhưng hai chữ này được dùng lẫn nhau, cho nên sự thực = sự thật.
Còn Thật đọc thành Thiệt, thì có thể là do kỵ húy đọc chệch, song cũng không loại trừ việc đọc sang Thiệt là do chịu ảnh hưởng của diễn biến ngữ âm khác.
12. 正 Chính/Chánh: Trường hợp này y hệt như trường hợp thứ nhất 領Lãnh/Lĩnh, ở đây không nói lại.
13. 宗 Tông/Tôn
Trường hợp này, chữ Tông vốn dĩ có vần đuôi là -ng, không phải là -n, nên có thể chấp nhận khả năng do kỵ húy mà đọc chệch.
14. 全 Tuyền/Toàn:
Toàn thực ra là âm cổ hơn của Tuyền, dù rằng phụ âm đầu T- mà xuất hiện muộn hơn, nhưng vận -oan chắc chắn là cổ hơn vận -uyên, tương tự -an sẽ cổ hơn -iên (yên). Như âm Bàn (bàn chân) là âm cổ của 蹯 Phiền; âm Ngoạt là âm cổ Hán Việt của Nguyệt 月... Ở đây muốn nói -an/-oan và -at/-oat là cùng một nhóm ngữ âm với nhau.
15. 恆 Hằng/常 Thường
Hằng và Thường là hai âm, hai chữ khác nhau, là hai âm Hán Việt của chữ 恆 và 常, nhưng cùng nghĩa, cho nên nếu muốn tránh, thì có thể dùng chữ tương tự thay thế. Nhưng đây là tình huống dùng chữ khác đồng nghĩa thay thế, tuyệt đối không phải vì Hằng đọc chệch thành Thường hoặc ngược lại.
16. 號 Hạo/Hiệu
Tương tự như cặp -an > -iên, thì -ao cũng là vần cổ của -iêu; nhưng cũng giống như cặp -ang > -ương, nếu như ở hệ thống Hán Việt có -ang thì tức là lưu giữ trực tiếp vận cổ, thì nếu như có -ao trong hệ thống Hán Việt, thì đây là vận cổ còn sót lại được bảo lưu, chứ không có chuyện -iêu biến âm thành -ao, mà chúng có thể tồn tại song song.
Cho nên, không chỉ có Hạo/Hiệu, mà chúng ta thường thấy có cặp 瑤 Dao/Diêu (dao trì), 桃 Đào/ Điều (đào lộn hột = hạt điều), 好 Háo/Hiếu (háo sắc, hiếu sắc)... Nếu như nhà nghiên cứu nào đó cho rằng Hạo do Hiệu biến âm đọc chệch ra, thì những ví dụ trên có liên quan gì đến kỵ húy không mà cũng có biến âm tương tự?
17. 任 Nhậm/Nhiệm:
Chữ 任 âm Hán Việt chính thức đọc là Nhậm, đọc thành Nhiệm tuy nói là kỵ húy, song cũng không loại trừ khả năng là âm Hán Việt song song, bị ảnh hưởng của âm khác mà đọc thành -iêm.
18. 紅 Hồng/Hường
Hồng là âm Hán Việt chính thống, nhưng âm Hường tuy nói là kỵ húy mà đọc chệch, song cũng không loại trừ việc biến âm đã có sẵn từ trước trong hệ thống ngữ âm.
Ví dụ, âm Phương là âm Hán Việt của chữ 方, nhưng âm cổ Hán Việt của nó lại là Buông/Vuông...
19. 時 Thì/Thời
Thời thực ra lại là âm cổ Hán Việt của Thì, nhưng Thì ngày nay được dùng ít hơn, song vẫn có “thì giờ”, “con gái có thì”... Trong đó, Thì mới là âm Hán Việt chính thống của 時.
Ví dụ: Ngỡi là âm cổ hơn của Nghĩa義, mà âm Hán Việt chính thống là *Nghị (đã chết yểu), mà âm Hán Việt Việt hóa của *Nghị là Nghì; Gởi là âm Hán Việt cổ bị Việt hóa của chữ 寄, mà âm Hán Việt của nó là Kí.
Ngoài ra, chữ Thì còn có một âm cổ Hán Việt khác, có khả năng đọc là *Chờ, và đây chính là lý do để bị Việt hóa thành Giờ (hiện tượng này xảy ra ở thế kỉ 17). Hiện tượng -ơ > -i thì phổ biến hơn, như 棋旗 Cờ > Kì; 市Chợ > Thị...
20. 真 Chân/Chơn:
Chơn cũng là âm cổ Hán Việt của Chân, dù là được lưu giữ chủ yếu ở miền Nam. Cho nên 真人 Chơn Nhơn là âm cổ của Chân Nhân; “仁 Nhơn” trong “Quy Nhơn”, trong “仁義 nhơn nghĩa” cũng là âm cổ của Nhân. Nếu có kỵ, giả sử thôi, thì cũng kỵ một chữ thôi, sao phải kỵ sang cả âm khác không liên quan.
Chưa kể, có một cặp từ khác thường xuyên sử dụng, đó là 恩 Ơn trong “cảm ơn”, đó cũng là Ân trong “ân nhân”, tức là “người ơn”... Trong đó -ơn là âm cổ hơn -ân, không phải do -ân đọc chệch mà ra.
21. 唐塘堂 Đường/Đàng
Cặp Đường/Đàng cũng giống như 當 Đương/Đang ở trên. Và cũng không chỉ có một chữ Hán, mà khá nhiều chữ cũng đọc như vậy, trong đó -ang là âm cổ của -ương, ví dụ: 長 Tràng (dài) > Trường; 腸 Tràng (lòng) > Trường; 兩 Lạng > Lượng; 娘 Nàng (mệ nàng) > Nương (mị nương)...
22. 景 Cảnh/Kiểng
Cặp Cảnh/Kiểng cũng giống như 英 Yêng > Anh, 映瑛暎 Yếng > Ánh ở trên, trong đó vần -iêng cổ hơn -anh. Đọc là -anh là âm Hán Việt, vần -iêng thuộc âm Hán Việt cổ, có mặt sớm hơn âm Hán Việt một hai trăm năm, chứ không phải sớm nhất.
Cũng không chỉ có 景 Cảnh/Kiểng, mà còn có 鏡 Kiếng > Kính/Cánh; 境界 Kiểng giái > Cảnh giới; 步行 Bộ hiềng > Bộ hành; 聖 Thiêng > Thánh v.v...
23. 山 San/Sơn
Âm Hán Việt chính thức của chữ 山 là San, như “san hà đại địa”, nhưng âm Sơn thì cổ hơn, và có thể là do chịu ảnh hưởng của nhóm -ơn > -ăn. Ví dụ: 恨 Hờn (hờn giận) > Hằn (thù hằn). Ngoài ra, chúng ta còn có 漢 Hớn (“Hảo hớn nơi trảng cát”) > Hán; 單 Đơn (cô đơn) > Đơn (bỏ luôn âm Hán Việt là Đan); 丹 Đơn (linh đơn) > Đan (linh đan)...
Các cặp từ khác trong bài như Thới/Thái; Quới/Quế; Võ/Vũ; Tòng/Tùng; Ngươn/Nguyên... cũng tương tự như vậy, chữ đứng trước đều là âm cổ Hán Việt so với âm Hán Việt đứng sau.
Nói chung, việc ngữ âm phát triển, diễn biến nói trên đều là có hệ thống, có quy luật. Những chữ thuộc nhóm nào, thì sẽ phát triển theo nhóm đó, đều đặn và ít có ngoại lệ. Còn những âm/chữ “kỵ húy” chỉ là hiện tượng đơn lẻ, phát sinh kiểu “chộp giật”, không theo quy luật nào, thì đương nhiên không thể ảnh hưởng đến toàn hệ thống ngôn ngữ được, và cũng chỉ có tác dụng nhất thời, cục bộ. Nhiều âm “kỵ húy” đến nay đã mất tác dụng do thời cuộc; hoặc nó chỉ có tác dụng ở địa phương nào đó, chứ không hoàn toàn có tác động đến ngữ âm toàn quốc (Đàng trong/Đàng ngoài). Nhưng các âm đọc trong hệ thống ngôn ngữ nói chung thì sẽ có quy luật và tác động sâu rộng, lâu dài, có tính thống nhất. Do đó, các nhà nghiên cứu lịch sử cần phải tìm hiểu, check chéo sang bên ngôn ngữ học, tránh việc giải thích âm “kỵ húy” một cách tùy tiện, dẫn đến những hiểu lầm không đáng có.
Văn Bờm tiên sinh (2023.05.15)
TỪ “KỴ HÚY” CỦA NGƯỜI NAM BỘ
https://dangnho.com/.../tu-ky-huy-cua-nguoi-nam-bo.html...
Xưa nay, ở vùng đất miền Trung trở về trong hay xuất hiện những từ “kỵ húy” trong lời ăn tiếng nói hàng ngày mà ít người để ý đến. Đó là những từ kỵ húy chủ yếu liên quan tới vua chúa triều Nguyễn, từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam gầy dựng xứ Đàng Trong.
Một số thí dụ:
Âm chính/Âm trại:
Lĩnh/Lãnh
Chu/Châu
Thụ/Thọ
Thư/Thơ
Phúc/Phước
Ánh/Yên, Yếng, Ảnh
Chủng/Chưởng
Đang/Đương
Đảm/Đởm
Hoa/Huê
Thật/Thiệt
Chính/Chánh
Tông/Tôn
Tuyền/Toàn
Hằng/Thường
Hạo/Hiệu
Nhậm/Nhiệm
Hồng/Hường
Thì/Thời
Chân/Chơn
Đường/Đàng
Cảnh/Kiểng
San/Sơn

Trong khi người dân Xứ Đàng Trong tha hồ gọi tên húy của các vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, thì họ bị quy định hết sức ngặt nghèo trong viết hay nói các từ trọng húy của vua chúa nhà Nguyễn. Vì vậy trong ngôn ngữ xuất hiện những từ rất oái oăm:
Kỷ nguơn, Rằm thượng nguơn, thay vì kỷ nguyên, rằm thượng nguyên (để kiêng tên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên).
Can đởm, thay vì can đảm, đởm lược thay vỉ đảm lược (kiêng tên vua Minh Mạng Nguyễn Phúc Đảm).
Thới bình, tên một huyện ở Cà Mau, thay vì Thái bình (kiêng tên chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái).
Các tên thôn (hiện nay là xã) như Thới Tam, Thới Tứ, Tân Thới Nhứt, Tân Thới Nhì, Xuân Thới Đông, Xuân Thới Sơn… thuộc khu vực Hóc Môn Sài Gòn, là tuân theo sự kỵ húy đó.
Làng Tân Kiểng xưa (Bây giờ còn Đình Tân Kiểng và chợ Tân Kiểng ở Phường 2, quận 5, Sài Gòn) vốn có tên là Tân Cảnh (trùng tên húy Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh, con cả vua Gia Long).
Từ Hoàng được đổi thành Huỳnh vì kỵ tên của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng.
Gọi màu hồng thành màu hường, nói nhiệm chức thay vì nhậm chức để tránh tên Nguyễn Phúc Hồng Nhậm của vua Tự Đức. (Ngô Thời Nhiệm thay cho Ngô Thì Nhậm, Ngô Tòng Châu thay cho Ngô Tùng Chu cũng vì vậy. (Thì là tên thuở nhỏ của vua Tự Đức, Chu là tên Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu).
Người miền Nam quen nói Tôn giáo, thay vì tông giáo để kiêng tên vua Thiệu Trị Nguyễn Phúc Miên Tông. Cũng vì tránh tên ông vua thứ ba của nhà Nguyễn này mà tất cả các chữ Tông đều được đổi thành Tôn: Lý Thánh Tôn, Trần Nhân Tôn, Lê Trung Tôn… Chẳng những thế, một dòng họ hoàng tộc, cũng vốn phải đọc là “Tông Thất”, nhưng vì kiêng húy chữ Tông này nên lại đọc thành “Tôn Thất”.
Người miền Nam còn nói cúng kiếng thay vì cúng kính, kiếng lễ, thay vì kính lễ, để kiêng tránh tên Nguyễn Hữu Kính, tên húy của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, một danh tướng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, có nhiều công lao hiển hách trên gần suốt cả đất nước xứ Đàng Trong. Tên ông là Nguyễn Hữu Kính, nhưng do kiêng húy, người ta nói trại ra là Cảnh.
Khoảng một trăm năm sau, vì kiêng tên hoàng tử Cảnh, người ta lại gọi trại một lần nữa từ Kính thành Kiếng. Vì vậy, Nguyễn Hữu Cảnh chỉ là tên kỵ húy chớ không đúng tên thật. Nguyễn Hữu Kính từng thành lập Trấn Thuận Thành, hiện nay là vùng đất từ tỉnh Bình Thuận đến Ninh Thuận và trấn giữ Dinh Bình Khang, nay là vùng đất từ tỉnh Ninh Thuận ra đến Khánh Hòa; vào năm 1698 ông được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào miền Nam củng cố và mở rộng đất Sài Gòn Gia Định. Tuy không phải mà một vị chúa, nhưng ông từng làm quan trấn nhậm, được nhân dân ngưỡng mộ suốt từ miền Trung vào đến miền Nam, nên họ tự kiêng tránh tên húy của ông.
Người miền Nam nói Sơn là núi mà không nói San, vì đó là tên vua Duy Tân Nguyễn Phúc Vĩnh San. Sau năm 1975, nhiều người miền Nam bắt chước người miền Bắc nói “phản ánh” thay vì trước đó họ nói “phản ảnh” (ảnh dấu hỏi) để tránh tên vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh. Ngay chữ Phúc trong tên các vua chúa nhà Nguyễn cũng phải nói trại đi là Phước. Trước kia, miền Nam có các tỉnh Phước Long, và Phước Tuy (được chánh phủ VNCH thành lập năm 1956) mà theo sách Phương Đình Dư Điạ Chí vốn là Phúc-Long- phủ và Phúc-Tuy- phủ thuộc tỉnh Biên Hòa.
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước có một bài hát Lên Đàng. Đàng là từ người miền Nam nói trại từ Đường (tên vua Đồng Khánh – Nguyễn Phúc Ưng Đường). Chữ Đường trong Thiên Đường cũng được nói trại thành Thiên Đàng.
Nhiều người miền Nam tầm tuổi sáu, bảy mươi từng biết tên nữ tướng Phàn Lê Huê (Fan Lihua, mà chữ Tàu viết là 樊梨花– Phàn Lê Hoa), vợ của Tiết Đinh San (Xue Dinhshan), cũng có chỗ giữ húy gọi là Tiết Đinh Sơn, trong tiểu thuyết dã sử Tàu về thời nhà Đường chinh phục nước Tây Lương (Xi Liang). Huê là một từ nói trại để kiêng húy từ Hoa, vì đó là tên bà Hồ Thị Hoa, chánh hậu của vua Minh Mạng. Từ Hoa không chỉ được nói trại là Huê mà còn được thay bằng một từ khác là Bông. Theo cụ Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Năm Xưa, cái Cầu Bông trên đường Đinh Tiên Hoàng bắc qua Kênh Nhiêu Lộc ở quận 1 Sài Gòn vốn có tên là Cầu Hoa. (Chỗ này thì lão Sển có khi ăn nói phang bừa, vì bông lúa không thể thay ngược lại thành hoa lúa – SGTC).
Các từ tên húy khác chỉ cần tránh bằng cách nói trại đi, nhưng từ Hoa này thì lôi thôi hơn. Cầu Hoa thành Cầu Bông, tỉnh Thanh Hoa bị đổi thành tỉnh Thanh Hóa, nhưng chợ Đông Hoa ở đất thần kinh thì lại được đổi thành chợ Đông Ba! Người Quảng Nam đến nay vẫn còn nhớ câu ca dao: “Thủng thỉnh lượm bông ba rơi / Lượm cho có cách hơn người trèo cao” (ba = hoa)
Những từ nói trại vì kỵ húy còn nhiều nữa: Võ thay cho Vũ, Đờm thay cho Đàm, Thời thay cho Thì, Tùng thay cho Tòng, Nguyệt Quới thay cho Nguyệt Quế, Quới nhơn thay cho quý nhân, vân vân. Chúng là một dạng từ biến âm cưỡng bức được dùng phổ biến, chủ yếu trong Miền Nam, tức Xứ Đàng Trong, từ Quảng Trị, nhưng rõ nhất là từ Huế, trở vào. Sở dĩ người miền Bắc “miễn nhiễm” với sự kỵ húy này là do hoàn cảnh lịch sử: “Nước” Đàng Ngoài chẳng việc gì phải nghe theo luật lệ của “nước” Đàng Trong. Sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, những tên húy kiêng cử của nhà Nguyễn đem áp dụng cho dân miền Bắc mà đa số còn hoài vọng nhà Lê thì sự tuân phục cũng chẳng được bao nhiêu. Tiếp đó miền Bắc được đặt dưới sự bảo hộ của người Pháp, nên người ta chẳng thấy cần thiết phải sợ phạm húy với vương triều nhà Nguyễn nữa.
Thiếu Khanh
Chim Việt Cành Nam


Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid02dTcfLi46nhS7PeSi31T9SmiimBVgLTLdMZwjLKTDCEmvHBn8aESYQ2URsDeZpaMWl&id=100063954852321


---


Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… với vấn đề “kiêng húy”

Trước nay, không ít người vẫn coi hiện tượng các từ Việt Hán có hai âm đọc song vẫn không thay đổi ý nghĩa từ vựng và chức năng ngữ pháp như Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… là kết quả của việc kiêng húy các vua chúa phong kiến. Đáng tiếc là đến nay quan niệm sai lầm ấy vẫn được nhiều trí thức trong đó có cả một số nhà ngôn ngữ học chính thức thừa nhận và công khai phổ biến. Cho nên cần phải có một sự đính chính trước khi người ta kéo nhau đi tìm tên vợ con và bà con nội ngoại của các vua chúa để giải thích bằng được và bằng hết những Cương – Cang, Cảnh – Kiểng, Chính – Chánh hay Uy – Oai, Tiến – Tấn, Tùng – Tòng…



Nếu thống kê chi tiết toàn bộ những An – Yên, Bách – Bá, Càn – Kiền, Chân – Chơn, Dũng – Dõng, Đương – Đang, Giới – Giái, Hợp – Hiệp, Khỉ – Khởi, Lã – Lữ, Mệnh – Mạng, Nhật – Nhựt, Trường – Tràng, Thịnh – Thạnh, Súy – Soái, Vũ – Võ…, thì con số các từ Việt Hán bị đọc chệch âm nói trên sẽ vượt xa tất cả đồng thời chẳng có gì ăn khớp với những cái tên vua chúa Việt Nam (chẳng hạn gần đây có người cho rằng vì kiêng húy các chúa Trịnh Tùng, Trịnh Cương nên dân Việt ở miền Bắc đọc Tùng, Cương ra Tòng, Cang như tam tòng, tam cang (1), song người ta không hiểu vì sao hai ông chúa ấy lại cứ để yên cho thiên hạ lếu láo đọc tên Trịnh Kiểm là Kiểm không có chút gì là kiêng húy…). Thứ nữa, quan sát địa bàn phân bố của các cặp âm bị đọc chệch ấy qua chứng cứ lịch sử là các địa danh Việt Nam, có thể thấy rằng phần lớn những Phúc Yên, Vĩnh Phúc, Thái Lai, Nghĩa Xá là ở miền Bắc còn Phước An, Bình Phước, Tân Thới, Quảng Ngãi là ở miền Nam, điều này cho thấy đây là sản phẩm của một tiến trình lịch sử. Sau cùng, sự chệch âm ở nhiều cặp vần loại Chính – Chánh, Đỉnh – Đảnh, Lĩnh – Lãnh, Sinh – Sanh (Anh = Inh), Du – Do, Phù – Phò, Vũ – Võ (O = U) hay Uy – Oai, Súy – Soái, Thụy – Thoại (Oai = Uy)… lại mang tính hệ thống khác hẳn việc kiêng húy vài ba cái tên vua chúa lẻ tẻ, tình hình này chỉ có thể là kết quả của các quy luật ngữ âm. Tóm lại, hiện tượng đọc chệch hay nói chính xác là chuyển âm nói trên không thuộc về phạm trù sở thích tự trọng lố lăng của các vua chúa ngày trước và nhiệt tình tôn quân lạc lõng của các nhà Kiêng Húy học hiện đại, mà là một vấn đề ngôn ngữ học trên hai phương diện phương ngữ và ngữ âm.



Thời Bắc thuộc, dân Việt học chữ Hán như một sinh ngữ, nghĩa là phải đọc đúng theo cách phát âm (âm chuẩn) đương đại ở Trung Hoa. Nhưng từ khi nước ta giành được độc lập thế kỷ X trở đi, cách đọc ấy đã bị tách rời với những thay đổi ngữ âm ở Trung Quốc. Cái ranh giới Việt Hán – Hoa Hán trên lãnh vực này dần dần xuất hiện và định hình: về cơ bản người Việt vẫn bảo lưu cách đọc thời Đường (Đường âm) trong khi qua các thời Tống Nguyên Minh Thanh người Trung Quốc đã lần lượt trải qua nhiều cách đọc khác. Chẳng hạn vào khoảng cuối Minh đầu Thanh, ngôn ngữ Trung Quốc đã bắt đầu mất phụ âm đầu D khiến Dân (nhân dân), Diểu (xa) chuyển thành Mín, Miểu hay hiện nay thì nó đã hoàn toàn mất phụ âm đầu Đ để Đả (đánh), Đông (phía đông) trở thành Tả, Tung đẩy một bộ phận lớn những Tiểu (nhỏ), Tịch (chiều tối) qua dãy phụ âm đầu X như Xẻo, Xi song người Việt vẫn đọc là Dân, Diểu, Đả, Đông, Tiểu, Tịch… như thường. Cố nhiên sự thay đổi nói trên không diễn ra một cách đồng bộ và thống nhất ở Trung Quốc, chẳng hạn khi tiếng Bắc Kinh – Quan thoại hiện nay đã mất hẳn phụ âm cuối -m để Điểm tâm (Ăn sáng) chuyển thành Tẻn xin, thì người Quảng Đông vẫn nói là Tỉm xắm, hay họ nói Tài xỉu (Đại tiểu = lớn nhỏ) chứ không phải là Ta xẻo, tóm lại có thể tìm thấy vô số khác biệt tương tự giữa tiếng Bắc Kinh – Quan thoại với các phương ngữ ở Hải Nam, Quảng Đông, Phước Kiến, Triều Châu mà ở đây tạm gọi là nhóm phương ngữ Hoa Nam. Và nếu nhớ lại tình hình chia cắt đất nước thế kỷ XVII-XVIII đã làm tiếng Việt ở Đàng Trong – Đàng Ngoài phát triển khác nhau một cách đáng kể, nếu nhớ lại thực tế đa dân tộc ở thương cảng Hội An đã làm hình thành ở đây một thứ ngôn ngữ lai pha trộn cả tiếng Việt lẫn các phương ngữ Hoa Nam (2), nếu nhớ lại sự kiện nhóm di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam do Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch cầm đầu tới tỵ nạn chính trị được cho vào khai phá Biên Hòa, Mỹ Tho cuối thế kỷ XVII, nếu nhớ lại việc Tao đàn Chiêu Anh Các ở Hà Tiên thu hút nhiều văn nhân Hoa Nam tới ngâm vịnh xướng họa đầu thế kỷ XVIII…, người ta sẽ thấy ở đây một đợt tiếp xúc ngôn ngữ Việt Hoa có quy mô và phạm vi rộng lớn, có thể nói là quan trọng bậc nhất sau khi người Việt giành được độc lập thế kỷ X. Đây mới thực sự là lý do làm phát sinh hệ thống những Huỳnh, Phước, Võ… trong cách đọc Việt Hán ở Đàng Trong mà đặc biệt là trên địa bàn từ Quảng Nam tới Nam Bộ, cách đọc chịu ảnh hưởng Minh âm, Thanh âm qua trung gian là nhóm phương ngữ Hoa Nam. Quá trình tiếp thu, cải biến, chấp nhận… những cách đọc mới này của người Việt nhìn chung rất phức tạp, vì từ thế kỷ XIX trở đi thì việc đất nước được thống nhất trở lại đã xóa bỏ đi phần nào những khác biệt ngôn ngữ trước đó, mặt khác ngay trong nhóm phương ngữ Hoa Nam cũng có những khác biệt dẫn tới sự đấu tranh với nhau đ
ể giành ảnh hưởng một cách tự phát trên địa bàn nói trên. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng trong đợt tiếp xúc ngôn ngữ này người Việt hoàn toàn bình đẳng về chính trị và văn hóa với Trung Hoa, nên ngoại trừ một vài trường hợp cá biệt, toàn bộ sự chuyển âm nói trên chỉ diễn ra trong khuôn khổ ngữ âm vốn có của các từ Việt Hán. Chẳng hạn hệ thống phụ âm đầu Việt Hán vẫn được giữ vững, nó đẩy những Mín, Miểu, Tả, Tung, Xỉu, Xi trở lại mảng từ Hoa Hán du nhập theo con đường khẩu ngữ, và ngay mảng từ ấy cũng phải Việt hóa theo ngữ pháp Việt như nhỏ xíu (Xíu = Tiểu = nhỏ), đồ xịn (Xịn = Tân = mới) mới bước được vào ngôn ngữ Việt Nam ở địa phương.



Điều đáng phàn nàn là nhiều trong các trí thức coi Huỳnh, Phước, Võ… là “kiêng húy” hiện nay đã không biết chữ Hán mà lại không chịu tìm hiểu cả lịch sử việc kiêng húy nên cứ suy diễn rồi phát ngôn không cần địa chỉ nếu không nói là vô trách nhiệm! Thứ nhất, Hán tự có nhiều chữ hoàng, phúc, vũ… và không phải chữ nào cũng chuyển âm thành huỳnh, phước, võ…, chẳng hạn không ai nói kinh hoàng, thần Thành hoàng thành kinh huỳnh, thần Thành huỳnh cả, mà chữ bị đọc chệch âm ra huỳnh (họ Huỳnh) là chữ hoàng (vàng) lại không phải là tên Nguyễn Hoàng – tên ông Thái tổ của nhà Nguyễn này là hoàng (vàng) + chấm thủy. Thứ hai, đã gọi là húy vua chúa thì dân đen có thể vì muốn làm giặc nên không thèm kiêng, chứ quan lại hay đám kẻ sĩ toan làm quan lại thì nhất định phải kiêng cho sáng đạo cương thường, thế nhưng đầu thế kỷ XVIII Đô đốc Hà Tiên Mạc Thiên Tích vẫn hiên ngang đặt tên con trưởng của mình là Mạc Tử Hoàng với chữ hoàng (vàng) + chấm thủy hiện vẫn còn trên bia mộ Mạc Tử Hoàng ở núi Lăng, Hà Tiên: rõ ràng dân Việt Nam ở Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII chẳng phải kiêng húy tên vua chúa nào cả. Thứ ba, đã gọi là chữ húy thì hoặc là không được dùng, tức không được viết ra (đối với chữ trọng húy) hoặc là phải viết thêm nét bớt nét đổi nét, thế nhưng mấy trăm năm nay dân Việt ở miền Nam vẫn viết Hoàng, Phúc, Vũ… như người miền Bắc hay người Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và viết khắp nơi, vậy việc họ đọc chúng là Huỳnh, Phước, Võ… chỉ là vấn đề ngữ âm. Thứ tư, là triều nào húy nấy, chẳng hạn anh em Thái Đức – Quang Trung không hơi đâu kiêng húy các chúa Nguyễn còn cha con Gia Long – Minh Mạng chẳng ngu gì kiêng húy các vua Lê chúa Trịnh, nếu thần dân nào cứng cổ kiêng húy không hợp thời thì giữ cho còn nguyên được đầu cũng đã khó chứ đừng nói tới chuyện rủ rê quần chúng cùng kiêng. Thứ năm, đã gọi là “quốc húy” thì phải có thông báo bằng văn bản cụ thể theo đúng thủ tục hành chính và có hiệu lực pháp lý hẳn hoi cho dân biết dân làm, không phải chuyện bí mật quốc gia hay hoạt động bí mật để thông báo nội bộ hay rỉ tai nhau trong giới quan lại mà kiêng húy. Và riêng dân Nam Bộ thì đến 1861 có nhận được chỉ dụ cuối cùng của Tự Đức phổ biến về 47 chữ “quốc húy” (từ 1862 – 1867 Nam Kỳ đã bị Pháp chiếm làm thuộc địa rồi), trong đó có 20 chữ đã được Minh Mạng thông báo trong chỉ dụ kiêng húy vào loại đầu tiên của triều Nguyễn năm 1825. Ai muốn biết rõ về 47 chữ ấy xin cứ tìm bộ Đại Nam Thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn mà đọc, xem có những Hoàng (vàng), Phúc, Vũ, Cảnh, Cương, Chính… và hàng trăm chữ khác mà các nhà Kiêng Húy học trước nay vẫn gán bừa cho tổ tiên ta không.



Đi tìm lai lịch cụ thể của từng âm Việt Hán đọc chệch so với Đường âm là một công việc phức tạp, nếu chưa định hướng được thì đừng nên thao tác. Chẳng hạn nhiều người Nam Bộ trước đây vẫn đọc Hớn Cao tổ, Hớn Sở tranh hùng chứ không đọc là Hán Cao tổ, Hán Sở tranh hùng, mà việc chuyển An – Ơn như San – Sơn, Đàn – Đờn thì lại chưa đủ để coi là có hệ thống. Nhưng vì ngữ âm Nam Bộ vẫn nhất hóa cặp phụ âm cuối -n, -t vào với cặp -ng, -c (như ran rát nói là rang rác) – với lối phát âm ấy mà đọc phò Hán, hảo hán thì nghe kỳ quá nên người ta phải chuyển âm để kiêng một sự húy trong đời thường đấy, các học giả thích kiêng húy vua chúa đừng đi tìm ở cái “quốc húy” nào đó trong cung đình cho mất công!



Tháng 11. 1993

(1) Xem Phan Trọng Hiền, Tên húy và việc phạm húy, báo Phụ nữ Thànn phố Hồ Chí Minh số ra ngày 20. 11. 1993. Tuy nhiên đây rõ ràng là một sự suy diễn khiên cưỡng, vô căn cứ và rất tùy tiện. Thứ nhất, hiện tượng đọc chệch Tùng, Cương ra Tòng, Cang kia chủ yếu xảy ra ở miền Nam chứ không phải ở miền Bắc. Thứ hai, chẳng có bằng chứng lịch sử dù là gián tiếp hay nhỏ mọn nào cho phép nghĩ rằng vào thế kỷ XVI – XVIII thần dân của triều Lê trung hưng bị bắt buộc phải kiêng húy các chúa Trịnh: ngay cả các bộ chính sử được biên soạn bởi các sử thần của Lê Trịnh cũng viết thẳng tên các chúa Trịnh từ Trịnh Kiểm trở đi, chứ chẳng hề tỏ ra tôn kính đặc biệt gì các chữ ấy trên văn bản cả. Thứ ba, tác giả của phát hiện độc đáo nói trên dường như không biết cả chữ Hán lẫn quy ước trong gia tộc họ Trịnh, nên đã đánh đồng tên Trịnh Tùng với Tòng trong tam tòng và tên Trịnh Cương với Cang trong tam cang, chứ thật ra tên hai ông chúa này được viết với bộ mộc. Nếu đọc Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, người ta sẽ thấy ngay tất cả các chúa Trịnh đều có tên viết với bộ mộc và tất cả các chúa Nguyễn đều có tên viết với bộ chấm thủy.
(2) Xem thêm Hoàng Thị Châu, bài trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr
. 161 – 166
_____

朱珠周洲舟

Trong Hán tự có cả chục chữ có âm đọc là chu – châu, ở đây chỉ nói về vài chữ thường đọc là châu nhất ở Việt Nam. Năm chữ nói trên theo thứ tự là chu (màu đỏ) bị đọc chệch như châu bản, chu (ngọc) bị đọc chệch như châu báu, chu (chung quanh) đọc là châu như châu vi, Châu Thành, chu (cù lao, bãi đất) đọc là châu như châu thổ, Á Châu và chu (thuyền) đọc là châu như châu tiếp (thuyền và mái chèo).

Tất cả những từ (chữ) có thanh bằng trong chữ Hán ở Trung Quốc được chia xếp vào ba mươi bộ vần Bình thanh, 15 bộ Thượng bình thanh, 15 bộ Hạ bình thanh. Chữ chu 1, chu 2 thuộc vần Thất ngu, phải đọc là chu, chu 3 và chu 4, chu 5 thuộc vần Thập nhất vưu, phải đọc là châu/chưu. Cơ chế lẫn lộn ở đây rất phức tạp, nhưng đại thể có thể nói thế này:

1. Nếu lấy độ tròn môi làm tiêu chí, thì khi phát âm những âm như thu, xu, vu chúng ta tròn môi nhiều nhất, kế tới những âm như âu, lâu, ngâu, sau cùng là những âm như lưu, mưu, sưu. Tức là những âm loại âu lâu ngâu nằm giữa, có thể bị lệch về hai phía, và ngược lại, các âm u, ưu đều rất dễ bị đồng hóa thành âu. Nhưng trong phương ngữ Bắc thì cũng chỉ đến thế, chứ gần như không có chuyện ưu thành u hay ngược lại, ví dụ Ngưu lang có thể thành Ngâu lang nhưng không thể thành Ngu lang, Chu bản có thể thành Châu bản chứ không thể thành Chưu bản.

2. Tuy nhiên sự khác biệt trong phát âm theo phương ngữ lại góp phần làm phức tạp thêm sự lẫn lộn nói trên. Ví dụ phương ngữ Bắc có khuynh hướng bảo lưu tiếp hợp chặt nên hay kéo ưu thành iêu như mưu mô thành miêu mô, bảo lưu thành bảo liêu, còn phương ngữ Nam có khuynh hướng giải tiếp hợp chặt thì hay giản hóa thành mu mô, bảo lu (nói rộng ra thì những hiện tượng con hu – hươu, uống rụ – rượu trong phương ngữ Nam cũng chính là sản phẩm của khuynh hướng phát âm này).

3. Một yếu tố khác không thể bỏ qua là thói quen. Ví dụ từ Việt Hán không có vần im, mảng từ thuần Việt mới có vần này, nhưng chúng ta vẫn quen đọc Kim mộc thủy hỏa thổ chứ không đọc là câm mộc… Chính yếu tố xã hội này đã khiến các trí thức biết chữ Hán phải bất lực trước nhiều sai lầm của số đông trong việc phát âm và thậm chí cả sử dụng các từ Việt Hán từ xưa đến nay.

4. Đã nói tới thói quen thì cũng không thể loại trừ yếu tố ngẫu nhiên. Ai học Luận ngữ cũng biết câu Khổng Tử than thở “Ta chưa thấy ai hiếu đức như hiếu sắc”, chữ hiếu này viết với mã chữ Hán là hảo (đẹp), nhưng khi dùng làm động từ (lấy làm đẹp, ưa thích) thì đọc là hiếu (phương ngữ Nam còn đọc là háo), xưa nay ai học Luận ngữ cũng đọc như thế cả. Tương tự, tiêu dao có khi đọc là tiêu diêu, mà ao và iêu có bộ vị phát âm xa nhau chứ không gần như u – âu – ưu, nên không thể loại trừ khả năng trong từ Việt Hán cũng như thuần Việt vẫn tồn tại những âm đọc cổ xưa ngẫu nhiên còn rơi rớt lại mặc dù tuyệt đại đa số những âm cùng hệ thống đã thay đổi. Các trường hợp như nguyệt (tháng) đọc là ngoạt, thuyết (nói) đọc là thốt, hoàn (viên), hoàn (trở lại) đọc là hườn hay huờn chính thuộc loại này.

5. Tên chúa Nguyễn Phước Châu là chữ châu 3 có thêm bộ chấm thủy, chữ nảy ít thấy trong các từ điển từ thư Trung Quốc, không rõ phiên âm thế nào, nhưng có lẽ âm chính là châu và bị nhà Nguyễn coi là chữ trọng húy nên phải đọc chệch thành chu, vì thế nên làm “liên lụy” tới cả chữ châu 3 có tự hình gần giống.
_____

Nói thêm về bộ vần (vận bộ). Các từ điển Hoa Hán sau 1949 gần như hoàn toàn không đề cập tới vấn đề này, các tác giả từ điển Hán Việt ở Việt Nam từ Đào Duy Anh trở đi cũng thế, nên trong nhiều trường hợp không giúp được người đọc phân biệt chính xác đâu là chính âm và đâu là biến âm của một chữ. Ví dụ chu 1 và chu 2 thuộc vần Thất ngu thì chính âm là chu, đọc châu là biến âm, nhưng ngày xưa đi thi làm thơ nếu đề ra buộc phải làm với bộ vần Thập nhất vưu mà gieo vần bằng những chữ này là lạc vận, thơ có hay cũng bị đánh rớt.

Trước cũng nghĩ tới khả năng chệch âm kiểu thọ – thụ là theo bộ vần, vì thụ (cây) có khi đọc là thọ, nhưng thọ (sống lâu) không bao giờ đọc là thụ, vì hai chữ này thuộc hai bộ vần khác nhau. Có điều khảo sát sâu hơn thì lại không chỉ như thế, vì bảo trong bảo vệ và bảo trong bảo vật cùng vần hạo, nhưng bảo trong bảo vật có khi đọc là bửu, như bửu bối bửu kiếm vân vân, chứ không ai đọc bửu vệ bửu trì cả. Cho nên đành phải tính thêm yếu tố thói quen, mà yếu tố này có khi bắt đầu từ sự ngẫu nhiên…

Đúng là bể học không có bờ!

Nguồn: https://trucnhatphi.wordpress.com/2008/12/18/l%E1%BA%A1i-kieng-huy/

Tham khảo thêm:
VŨ THỊ MAI HƯƠNG Nhận xét về cơ sở ngữ âm học của các từ kỵ húy trong tiếng Việt LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17357/5/V_L2_01400_Noi_dung.pdf

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mẹo Comment

Chú ý: chỉ cần dán link vào, không cần gõ thẻ khi post
Hình (file có đuôi jpg, jpeg, png, bmp, gif ),
Nhạc (file có đuôi mp3 hoặc từ trang web nhaccuatui),
Video (từ Youtube)

Đổi cỡ, màu chữ:
[color="red"][size="20"] chữ cỡ 20 màu đỏ [/size][/color]
(màu dùng mã hexa hoặc tiếng Anh: red, blue, green, violet, gold ..)
Giới thiệu link: <a href="link"> tên link </a>
Chữ đậm <b> chữ đậm</b>
Chữ nghiêng: <i> chữ nghiêng </i>

Chèn Yahoo smiley (click Chèn emoticons để xem phím tắt)
Đã thêm mấy smiley nhưng chưa rảnh thêm vào bảng chèn. Phím tắt:

:-/ bối rối ;) nháy mắt ;;) đá lông nheo
:"> thẹn :X yêu thế =(( tan nát cõi lòng

Chú ý Nếu nút Trả lời ko hoạt động, xin chịu khó lên thanh địa chỉ, gõ thêm vào cuối (ngay sau html) ?m=1 rồi nhấn Enter, nút Trả lời sẽ ok. (29/11/18)

Chèn Emoticons
:))
:D
:p
:)
:(
:-o
:-*
=))
:((
:-?
:-h
~o)
@};-
:D
[-X
=D>
*-:)
B-)
X(
:@)