19/11/24

Biên niên sử âm vật

Vagina Obscura: An Anatomical Voyage là một cuốn sách khoa học phi hư cấu xuất sắc của tác giả Rachel E. Gross, khám phá thế giới kỳ diệu và phức tạp của cơ thể phụ nữ, đặc biệt là các cơ quan sinh sản. Cuốn sách được xuất bản vào năm 2022 và nhanh chóng nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình nhờ cách tiếp cận thông minh, hài hước và đầy cảm xúc khi viết về một chủ đề còn nhiều định kiến và hiểu lầm.

Rachel E. Gross không chỉ cung cấp kiến thức khoa học mà còn làm sáng tỏ những lỗ hổng trong lịch sử nghiên cứu y học liên quan đến cơ thể phụ nữ. Cuốn sách khắc họa hành trình của tác giả qua các phát hiện về giải phẫu, sinh học, và sự đa dạng sinh học của các cơ quan như âm đạo, tử cung, buồng trứng, và cả hệ vi sinh vật liên quan.
Gross cũng dành nhiều trang để phê phán cách các định kiến giới đã làm lu mờ sự hiểu biết khoa học về sức khỏe sinh sản của phụ nữ, từ việc nghiên cứu chưa đầy đủ cho đến những chuẩn mực xã hội hạn chế việc thảo luận về cơ thể phụ nữ. Thông qua việc phỏng vấn các nhà nghiên cứu, bác sĩ và những người phụ nữ có trải nghiệm cá nhân độc đáo, Gross mở ra những góc nhìn mới về một chủ đề lâu nay bị xem là “nhạy cảm” hoặc “bí ẩn”.

Với văn phong vừa sâu sắc, vừa dễ tiếp cận, Gross kết hợp khoa học với những câu chuyện thực tế và yếu tố văn hóa để tạo nên một cuốn sách không chỉ cung cấp thông tin mà còn truyền cảm hứng. Tác giả cũng không ngại pha chút hài hước, giúp độc giả cảm thấy thoải mái khi đọc về những chủ đề tưởng chừng phức tạp.

Vagina Obscura không chỉ là một hành trình khoa học mà còn là một lời kêu gọi mạnh mẽ về sự bình đẳng trong y học và khoa học. Cuốn sách khuyến khích độc giả – cả phụ nữ lẫn nam giới – vượt qua những quan niệm cũ để hiểu sâu hơn về cơ thể con người và tôn trọng sự đa dạng sinh học.
Đây là một cuốn sách dành cho những ai muốn khám phá cơ thể con người theo cách sâu sắc và toàn diện hơn, đồng thời quan tâm đến việc phá vỡ các rào cản văn hóa và xã hội xung quanh vấn đề sức khỏe sinh sản.

Sách đã được dịch ra tiếng Việt dưới nhan đề: Biên niên sử âm vật. 
Bản dịch cũng đã được chuyển thành sách nói.

file audio: https://youtu.be/Ry2vSv3WnFo?si=xpsdcAHDsZbjEZXs

18/11/24

CÓ NGHĨA THẬT CHỨ KHÔNG PHẢI "LÁY"

 

An Chi : 𝐂𝐡𝐮́𝐧𝐠 𝐭𝐨̂𝐢 𝐯𝐚̂̃𝐧 𝐜𝐡𝐮̉ 𝐭𝐫𝐮̛𝐨̛𝐧𝐠 𝐤𝐡𝐨̂𝐧𝐠 𝐜𝐨́ 𝐜𝐚́𝐢 𝐠𝐨̣𝐢 𝐥𝐚̀ 𝐭𝐢𝐞̂́𝐧𝐠 đ𝐞̣̂𝐦 𝐜𝐮̃𝐧𝐠 𝐧𝐡𝐮̛ 𝐜𝐚́𝐢 𝐠𝐨̣𝐢 𝐥𝐚̀ 𝐭𝐮̛̀ 𝐥𝐚́𝐲. 𝐓𝐢𝐞̂́𝐧𝐠 đ𝐞̣̂𝐦 𝐜𝐡𝐚̆̉𝐧𝐠 𝐪𝐮𝐚 𝐥𝐚̀ 𝐧𝐡𝐮̛̃𝐧𝐠 𝐭𝐮̛̀ 𝐜𝐨̂̉ 𝐦𝐚̀ 𝐧𝐚𝐲 𝐧𝐠𝐮̛𝐨̛̀𝐢 𝐭𝐚 𝐤𝐡𝐨̂𝐧𝐠 𝐜𝐨̀𝐧 𝐛𝐢𝐞̂́𝐭 đ𝐮̛𝐨̛̣𝐜 𝐧𝐠𝐡𝐢̃𝐚. 𝐂𝐮̃𝐧𝐠 𝐯𝐚̣̂𝐲 𝐯𝐨̛́𝐢 𝐜𝐚́𝐜 𝐲𝐞̂́𝐮 𝐭𝐨̂́ 𝐥𝐚́𝐲 𝐭𝐫𝐨𝐧𝐠 𝐧𝐡𝐮̛̃𝐧𝐠 𝐭𝐮̛̀ 𝐥𝐚́𝐲.
Kỳ này, theo đề nghị của bạn, chúng tôi xin đưa ra them một số trường hợp bị xem là từ láy mà các yếu tố láy chẳng những thực tế là những yếu tố có nghĩa, mà đặc biệt hơn nữa, lại còn là những yếu tố Hán Việt hoặc gốc Hán nữa.
1.– “Ấp” trong “e ấp” là một yếu tố Hán Việt mà chữ Hán là [悒], có nghĩa là lòng dạ không yên.
2.–“Ấm” trong “ấm ức” là một yếu tố Hán Việt mà chữ Hán gồm có chữ “âm” [陰] bên trong chữ “nạch” [疒], có nghĩa gốc là tâm bệnh.
3.– “Ái” trong “êm ái” là một yếu tố Hán Việt mà chữ Hán là [藹], có nghĩa là có dáng dễ thương, ưa nhìn.
4.–“Bội” trong “bực bội” là một yếu tố Hán Việt mà chữ Hán là [悖], có nghĩa là mê hoặc, tâm loạn.
5.–“Bặn” trong “bằng bặn” là một yếu tố gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [坢] mà âm Hán việt là “phản”, có nghĩa là bằng phẳng.
6.–“Cáp” trong “cứng cáp” là một yếu tố gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [砝] mà âm Hán việt là “kiếp”, có nghĩa là cứng như đá.
7.–“Chí choé” là điệp thức của “chi chú” [支註], có nghĩa là nói líu ríu, khó nghe.
8.–“Chang” trong “chói chang” là điệp thức của “chương” [彰], có nghĩa là sáng sủa.
8.–“Chỉ” trong “chăm chỉ” là điệp thức của “chí” [覟], là nhìn kỹ.
9.–“Chạ” trong “chung chạ”, “lang chạ” là một yếu tố gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [藉], mà âm Hán Việt là “tạ”, có nghĩa là cẩu thả, bừa bãi.
10.–“Chắn” trong “chắc chắn” là điệp thức của “chân” [眞] trong “chân thật”.
11.–“Đảo” trong “đông đảo” là một yếu tố Hán việt mà chữ Hán là [擣] (cũng đọc là “trù”), có nghĩa là tụ họp.
12.–“Đềm” trong “êm đềm” là điệp thức của “điềm” [恬], có nghĩa là yên tĩnh.
13.–“Đặn” trong “đầy đặn” là điệp thức của “đạn” [僤], có nghĩa là đầy đặn.
14.–“Éo” trong “uốn éo” là điệp thức của “yểu” [夭], là co lại, không duỗi ra được.
15.–“Gùng” trong “gạn gùng” là điệp thức của “cùng” [窮], là tra cho ra lẽ.
16.–“Giáp” trong “nói láp giáp” là một yếu tố Hán, mà chữ Hán là [唊], có nghĩa là nói nhiều.
17.–“Hênh” trong “hớ hênh” là điệp thức của “hanh” [亨] trong “hanh thông”.
18.–“Hám” trong “hơi hám” là điệp thức của “ham”, gồm có “hương” [香] bên trái và “kim” [今] bên phải, có nghĩa là mùi hương.
19.–“Hỏng” trong “hát hỏng” là điệp thức của “hống” [哄], có nghĩa là hát.
20.–“Kỉnh” trong “cáu kỉnh” là điệp thức của “cảnh” [儆] là răn dạy.
21.–“Cỏi” trong “kém cỏi” là điệp thức của “quả” [寡], là ít ỏi, không đáng kể.
22.–“Quẽ” trong “quạnh quẽ” là điệp thức của “quả” [寡], với nghĩa đơn chiếc, không nơi nương tựa.
23.–“Lẹt” trong “khét lẹt” là điệp thức của “liệt” [烈], có nghĩa là lửa cháy mạnh.
24.–“Li bì” gồm có “li” [里 bên trong 疒] là yếu, bệnh và “bì” [疲] là mệt mỏi.
25.–“Lò” trong “lò dò”, “lò mò” là điệp thức của “lu/lâu” [婁] là nhìn kỹ.
26.–“Lừ” trong “lừ đừ” là điệp thức của “lữ” [亻bên cạnh 慮] là không cố gắng.
27.–“Lèo lá” là điệp thức của “lâu la” [偻儸], có nghĩa là gian xảo.
28.–“La” trong “lê la” là một yếu tố Hán Việt mà chữ Hán là [bộ 足 bên cạnh 羅], có nghĩa là đi một cách khó nhọc.
29.–“Lồ” trong “loã lồ” là âm xưa của “lộ” [露] trong “lộ liễu”.
30.–“Lăng” trong “lố lăng” là một yếu tố Hán mà chữ Hán là [陵], có nghĩa là lấn lướt, xúc phạm.
31.–“Lao” trong “lớn lao” là một yếu tố Hán Việt mà chữ Hán là [牢], có nghĩa là to lớn, vững chắc.
32.–“Màng” trong “mùa màng” là âm xưa của “mang” [忙] trong “mang nguyệt” là tháng bận rộn (ngày mùa).
33.–“Mỏ” trong “mắng mỏ” là điệp thức của “vũ” [侮], có nghĩa là … coi thường, mắng mỏ.
34.–“Mẹo” trong “mộng mẹo” là âm xưa của chữ “mão” [卯], có nghĩa là cái lỗ mộng. V. v..
Xin chú ý là có một vài trường hợp vì font chữ Hán thiếu chữ nên chúng tôi phải dùng lối miêu tả “X bên cạnh Y” đồng thời chúng tôi có dùng mấy cách diễn đạt khác nhau nhưng trừ những trường hợp của những yếu tố Hán Việt, còn lại thì đó đều là những trường hợp của các điệp thức.
Nguồn: Năng Lượng Mới số 576 [18-11-2016]
---
Thêm mấy chữ, không nhớ lấy từ đâu.
HAN trong “Hỏi han” có nghĩa là “hỏi tới”, “nói tới”.
“Trước xe lơi lả han chào / Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi” (Kiều).
CÙ trong cần cù là từ gốc Hán 劬 như trong cù lao 劬勞 công cha mẹ sinh đẻ nuôi nấng con khó nhọc.
ĐIẾNG trong "đau điếng" là yếu tố gốc Hán, bắt nguồn từ chữ đính 酊, có nghĩa là (say) không còn biết gì. Về ~inh >> ~iêng: "chinh” >> “chiêng”, “linh” >> “liêng” (linh thiêng – thiêng liêng).
CÁP trong "quà cáp" là một từ Việt gốc Hán mà chữ Hán là [bộ kiện 食 bên trái và chữ giáp 甲 bên phải], có nghĩa là bánh.
LỤNG trong “Làm lụng” vốn là “lộng” 弄 cũng có nghĩa là “làm”.
Mối quan hệ giữa hai vần “ông” và “ung” còn có thể tìm thấy ở tông tích – tung tích, đậu phộng – đậu phụng, phồng má – phùng má,…

17/11/24

Bạch Đằng Giang

白藤江 

鯨觀如山草木春,海潮洶洶石嶙峋。
誰知萬古重興業,半在關河半在人。阮鬯

Chú.

-          鯨觀 kình quán. Theo Tả truyện, thời cổ các vị vua đi chinh phạt, cho thu gom xác các kẻ bạo ngược (gọi là 鯨鯢 kình nghê = cá kình cá nghê, là hai loại cá dữ) về chôn thành gò lớn để răn đe. Hành động này được gọi là 京觀 kinh quán. 鯨觀 đồng âm (quan thoại) với 京觀 (cùng có pinyin là jīngguān) được xem là dạng viết khác của 京觀, dùng chỉ mồ chôn xác giặc.

-          洶洶 hung hung: ầm ầm, sôi sục (thế nước chảy)

-          嶙峋 lân tuân: chót vót, chập chùng.

-          重興 Trùng Hưng: là niên hiệu của vua Trần Nhân Tông dùng (1285 - 1293) sau khi đánh thắng quân Nguyên lần thứ hai. Sau đó nhừng ngôi cho Trần Anh Tông, Anh Tông tiếp tục dùng niên hiệu này đến năm 1314.

-          關河 quan hà: cửa ải và núi sông. Thường dùng chỉ đường đi khó khăn cách trở, ở đây ý nói địa thế núi sông hiểm trở.

Giản thể

鲸观如山草木春,海潮汹汹石嶙峋。谁知万古重兴业,半在关河半在人

Âm

Kình quán như sơn thảo mộc xuân,
Hải triều húng húng thạch lân tuân.
Thùy tri vạn cổ Trùng Hưng nghiệp,
Bán tại quan hà bán tại nhân.

Nghĩa.

Cỏ xuân mọc tươi tốt trên gò chôn xác thù cao như núi.
Hải triều ầm ầm đập vào những tảng đá lởm chởm bên bờ.
Ai biết được sự nghiệp thời Trùng Hưng lưu danh muôn đời ấy,
Một nửa do địa thế núi sông hiểm trở, một nửa là do con người làm nên.

Tạm dịch

Gò chôn xác giặc cỏ xuân tươi,
Triều vỗ ào ào đá tả tơi.
Nghiệp lớn Trùng Hưng ai biết được,
Nửa do sông núi nửa do người.

16/11/24

cASABLANCA

Casablanca là một trong những tác phẩm điện ảnh kinh điển của Hollywood, ra mắt vào năm 1942 và nhanh chóng trở thành biểu tượng của nghệ thuật thứ bảy. Bộ phim do Michael Curtiz đạo diễn, với sự tham gia của hai ngôi sao lớn thời bấy giờ là Humphrey Bogart và Ingrid Bergman trong vai chính.

Bối cảnh phim diễn ra tại thành phố Casablanca (Ma Rốc) trong Thế chiến II, nơi đây là điểm trung chuyển quan trọng cho những người đang tìm cách chạy trốn khỏi châu Âu bị phát xít Đức chiếm đóng. Humphrey Bogart thủ vai Rick Blaine, một chủ quán cà phê với quá khứ bí ẩn, người cố gắng duy trì thái độ trung lập trong một thế giới đầy hỗn loạn. Ingrid Bergman vào vai Ilsa Lund, người phụ nữ đã từng yêu Rick nhưng nay xuất hiện cùng người chồng Victor Laszlo (Paul Henreid), một lãnh đạo kháng chiến đang cần sự giúp đỡ để trốn thoát.

Điểm nhấn của Casablanca nằm ở cốt truyện đầy cảm xúc về tình yêu, hy sinh và lòng trung thành trong bối cảnh lịch sử căng thẳng. Mối quan hệ phức tạp giữa Rick và Ilsa tạo nên những khoảnh khắc xúc động, đặc biệt là khi Rick phải đưa ra những quyết định đầy khó khăn liên quan đến tình yêu và trách nhiệm.

Bộ phim còn gây ấn tượng với những câu thoại nổi tiếng như “Here’s looking at you, kid” và “We’ll always have Paris,” cùng với ca khúc bất hủ As Time Goes By. Phần hình ảnh đen trắng và âm nhạc tuyệt vời cũng góp phần tạo nên không khí vừa lãng mạn vừa căng thẳng của bộ phim.

Casablanca đã giành ba giải Oscar, bao gồm Phim xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, và Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất. Qua thời gian, bộ phim không chỉ là một câu chuyện tình yêu đẹp mà còn là biểu tượng của những giá trị nhân văn vượt thời gian.

Phim đã được AFI xếp hạng #3 trong Danh sách 100 phim hay nhất xưa nay năm 2007. Casablanca cũng được xếp hạng #1 trong 100 Phim tình cảm hay nhất mọi thơi cũng doAFI bình chọn.

Một chi tiết cũng đáng nhắc là Casablanca chiếm 6/100 câu thoại trong phim được AFI bình chọn là ấn tượng nhất..

Có thể xem phim ở đây
https://www.studyphim.vn/movies/casablanca-1942/play?episode=1

Bài hát chủ đề của phim, "As Time Goes By" do Herman Hupfeld sáng tác, được AFI xếp #2 trong danh sách 100 ca khúc trong phim hay nhất do viện này bầu chọn.
You must remember this
A kiss is just a kiss
A sigh is just a sigh
The fundamental things apply
As time goes by ...
Mời nghe Franc Sinatra hát
https://youtu.be/MPLFMUmonK8?si=52KXkwhi2fd6AYGP


15/11/24

Giang hành. Nguyễn Sưởng

  

江行           
岸轉樹斜出溪深花倒開
晚霞孤鳥沒曉雨片帆來阮鬯                           

Âm

Ngạn chuyển thụ tà xuất, Khê thâm hoa đảo khai.
Vãn hà cô điểu một, Hiểu vũ phiếm phàm lai.

Nghĩa: Đi trên sông

Bờ sông chuyển động, cây cối thấy nghiêng ngả,
Hoa nở ngược dưới khe sâu.
Con chim lẻ loi mất hút trong đám ráng chiều,
Trong cơn mưa sáng một cánh buồm đi tới.

Tạm dịch

Bờ chạy cây nghiêng ngả,

Khe sâu hoa trổ bông

Ráng chiều chim hút bóng,

Mưa sớm mảnh buồm dong.

Chú

江行 giang hành: đi trên sông.

岸轉 ngạn chuyển: bờ sông chuyển động.

樹斜出 thụ tà xuất: cây cối nghiêng lệch xuất hiện (nhìn từ thuyền di chuyển khá nhanh).

花倒開 hoa đảo khai: hoa nở ngược. Ở đây chỉ bóng hoa nở dưới nước khe.

晚霞 vãn hà: ráng chiều.  hà: ráng.

孤鳥沒 cô điểu một: con chim lẻ loi mất hút.  một: nghĩa gốc là chìm dưới nước, lặn. Nghĩa rộng là mất hút, hết, kết thúc, chết, tiêu thất.

曉雨 hiểu vũ: mưa lúc sáng sớm.  hiểu: lúc sáng sớm.

片帆 phiến phàm: mảnh buồm, chỉ một chiếc thuyền nhỏ.  phiến (đơn vị chỉ vật mỏng): tấm, lá, miếng, mảnh, ..

阮鬯 Nguyễn Sưởng hiệu là Thích Liêu, quê quán, năm sinh, năm mất đều chưa rõ, dựa vào thơ văn, biết ông từng làm quan dưới thời nhà Trần. Hiện còn lại 16 bài thơ trong Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục.

Giản thể岸转树斜出,溪深花倒开。晚霞孤鸟没,晓雨片帆来



11/11/24

Tức sự 1. Nguyễn trung Ngạn

即事其一 
舍南舍北竹邊籬,紅蓼花開野燕飛。
蠻酒一樽春睡足,覺來山色滿柴扉
阮忠彥

Âm

Xá nam xá bắc trúc biên li, Hồng liễu hoa khai dã yến phi.
Man tửu nhất bôi xuân thụy túc, Giác lai sơn sắc mãn sài phi.

Nghĩa

Phía nam phía bắc nhà là hàng rào giáp ranh bằng tre, Hoa liễu đỏ nở, én ngoài đồng bay liệng. Một li rượu của người Mán đủ đưa vào giấc ngủ dưới trời xuân. Tĩnh dậy thì thấy bóng núi đã tràn đến cánh cửa cổng bằng cây đơn sơ.

Tạm dịch

Phía nam phía bắc dãy rào tre,
Hồng liễu đỏ hoe én xập xòe.
Một chén rượu ngon xuân đẫy giấc,
Tỉnh ra bóng núi đã bên hè.

 Chú

-          舍南舍北 phía nam và phía bắc căn nhà.

-          竹邊籬 hàng rào tre nơi chỗ giáp ranh.

-          紅蓼 hồng liễu/liệu: là cây Polygonum orientale, một loại rau răm nước có hoa hồng đẹp, thường được dùng làm cây cảnh và có giá trị dược liệu. Một số bản dịch  là cây nghệ, nhưng nghệ thì hoa có màu vàng hoặc màu cam nhạt.

-          蠻酒 man tửu: rượu của người Mán.  Man, tên người Tàu dùng gọi tộc người ở phía nam nước Tàu với hàm ý coi thường, ta gọi là Mán. Tên chính thức hiện nay là Dao. 一樽 nhất tôn: một chén.

Giản thể

舍南舍北竹边篱,红蓼花开野燕飞。
蛮酒一孙春睡足,觉来山色满柴扉




7/11/24

Xuân trú


春晝
縈迴竹徑遶荒齋,
避俗柴門晝不開。

啼鳥一聲春睡覺,
落花無數點蒼苔

阮忠彥

Âm

Oanh hồi trúc kính nhiễu mang trai, Tị tục sài môn trú bất khai.
Đề điểu nhất thanh xuân thụy giác, lạc hoa vô số điểm thương đài.

Nghĩa.

Ngõ trúc quanh co vòng vèo đến căn nhà vắng, Tránh đời nên cửa tre suốt ngày không mở. Một tiếng chim kêu làm mùa xuân tỉnh giấc, Rất nhiều hoa rụng trên đám rêu xanh.

Tạm dịch

Lối trúc quanh co dẫn đến nhà,
Lánh đời cửa đóng suốt ngày qua.
Chim kêu một tiếng xuân bừng tỉnh,
Trên thảm rêu rơi mấy cánh hoa.

Chú

-          縈迴 quanh vòng trở lại. 竹徑 ngõ trúc.

-          避俗 tị tục: tránh đời. 柴門 sài môn: cửa làm bằng cây củi, ý nhà nghèo.

-          Câu 4 mượn từ câu 4 bài Lạc Hoa của Triệu Quỳ đời Tống.

Giản thể.

萦迴竹径遶荒斋,避俗柴门昼不开。
啼鸟一声春睡觉,落花无数点苍苔

阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) tự bang Trực, hiệu Giới Hiên, người Hưng Yên, 15 tuổi đỗ hoàng giáp (đời vua Trần Anh Tông, cùng khoa với Mạc Đĩnh Chi), trải qua nhiều chức vụ quan trọng như Kinh lược sứ Lạng Sơn, Nhập nội đại hành khiển, thượng thư hữu bật, được phong tước Thân Quốc công. Từng được cử đi sứ qua triều Nguyên. Ông từng giữ chức Giám tu Quốc sử viện, cùng Trương Hán Siêu soạn sách Hoàng triều đại điển và bộ Quốc triều hình luật.