6/11/24

Chơi chữ

Tập sách Chơi chữ của tác giả Phùng Tất Đắc, bút hiệu Lãng Nhân, được Nhà xuất bản Nam Chi Tùng Thư in lần đầu tại Sài Gòn vào năm 1961.


Sách là một cẩm nang về thuật chơi chữ, treo đối, làm thơ của người xưa vào những dịp quan trọng trong đời sống người Việt. Người xưa chơi chữ để thể hiện trí tuệ, học vấn và đôi khi cũng chỉ để giải tỏa những buồn bực trong lòng trước gian truân, thời thế, trước tình cảnh cá nhân mà lời thường khó giãi bày, bộc bạch. Chơi chữ cũng là một biểu tượng được ca tụng, là thước đo trong giới nhà Nho. Như điều Lãng Nhân ghi trong sách có đoạn: “Chơi chữ đối với nhà Nho, cần phải có những yếu tố mà nhiều người không gom được đủ: Có học đã đành, nhưng còn phải có tài. Học có hàm sức, mới biết dùng chữ cho rành rẽ, dùng điển cho đích đáng, khiến câu văn ít lời mà nhiều ý. Tài có mẫn tiệp, mới lĩnh hội được mau lẹ những nét trội trong một cảnh huống, và diễn xuất một cách nhanh chóng, hồ như là tự nhiên".

Nhưng theo thời gian, thú chơi chữ từ thập niên 60 của thế kỷ trước chẳng còn mấy ai ưa chuộng. Đến nay, thú vui này dường như mất bóng trong đời sống người Việt. Tuy vậy, qua trang viết của Phùng Tất Đắc, độc giả có thêm một phần kiến thức, hình dung về thuật chơi này, có dịp tìm lại những bài thơ, câu đối “tập Kiều” trong quá khứ của cha ông. Để từ đó, mỗi người có thể nghiệm ra những ẩn ý sâu xa trong câu từ, ngôn ngữ tiếng Việt vốn giàu ý tứ.

Trong ghi chép của mình, Lãng Nhân sưu tầm, phân tích hàng chục bài chơi chữ khác nhau của nhiều người. Có khi là câu thơ bài vịnh của viên quan, lời đối của một nhà Nho hay thi sĩ nổi tiếng. Mỗi trích dẫn, Lãng Nhân đều căn cứ vào một câu chuyện, nguyên nhân ra đời bài chơi chữ. Sau đây là một ví dụ trong những ghi chép, sưu tầm đó của ông:

“Duy Tân bị đày, Khải Định lên kế vị. Dân đói, quan tham, bọn xu nịnh đua nhau làm tay sai cho Pháp. Một nhà Nho mượn cảnh vườn Bách thú để tả tình trạng ấy.

"Dưới dặng cây xanh, một dặng chuồng,
Mỗi chuồng nuôi một giống chim muông:
Khù khì vua cọp no nằm ngủ
Nhao nhác dân hươu đói chạy cuồng.
Lũ khỉ nhe răng bày lắm chuyện,
Đàn chim chẩu mỏ hót ra tuồng.
Lại thêm cầy cáo dăm ba chú
Hục hặc tranh nhau một nắm xương!

(Vịnh vườn bách thú)

Thơ tả chân thật đã như vẽ cảnh vườn Bách thú, nó là một bức tranh xã hội đương thời thu nhỏ lại, càng thu nhỏ càng rõ nét”.

Lãng Nhân tên thật là Phùng Tất Đắc, sinh năm 1907 tại Hà Nội. Thời niên thiếu ông học trường Bưởi, lớn lên ông có tư tưởng canh tân nhưng lại sống khá phong lưu. Năm 1954 Phùng Tất Đắc đưa gia đình di cư vào Nam và sau đó làm việc cho nhà in Kim Lai và Nhà xuất bản Nam Chi Tùng Thư. Tại đây in chủ yếu sách của ông và một số thân hữu như Đoàn Thêm, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Tạ Tỵ… Năm 1975 ông sang sống ở Cambridge (Anh) và mất năm 2008. Ngoài Chơi chữ, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc còn có nhiều tác phẩm khác như: Trước đèn, Chuyện vô lý, Cáo tồn, Giai thoại làng nho, Hán văn tinh túy, Nguyễn Thái Học, Tôn Thất Thuyết…

Hữu Nam

(vnexpress)

link ebook: fb Hà Thanh vân



5/11/24

Quy hứng


歸興 
老桑葉落蠶方盡,
早稻花香蟹正肥。

見說在家貧亦好,
江南雖樂不如歸。阮忠彥

Âm

Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương giải chính phì.
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc bất như quy.

Nghĩa. Ưa về nhà

Dâu già, lá rụng, tằm vừa chín,
Lúa sớm bông tỏa hương thơm, cua đang lúc béo.
Nghe nói ở nhà dẫu nghèo vẫn tốt,
Ở Giang Nam tuy vui nhưng cũng không bằng trở về nhà.

Tạm dịch

Dâu già lá rụng tằm vừa chín,
Lúa sớm bông thơm, cua béo phì.
Nghe nói ở nhà nghèo cũng sướng,
Giang Nam tuy thú chẳng như về.

Chú

-          方盡 mới hết, vừa hết.  phương, phó từ: mới.

-          正肥 chánh phì: đang béo.  chánh, phó từ: đang. Vd. 正下雨時 lúc trời đang mưa.

-          見說 1.告知,说明。 2.犹听说。Báo cho biết; nghe nói.

-          江南 Giang Nam, địa danh bên Tàu, nổi tiếng cảnh vật thơ mộng.

阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) tự bang Trực, hiệu Giới Hiên, người Hưng Yên, 15 tuổi đỗ hoàng giáp (đời vua Trần Anh Tông, cùng khoa với Mạc Đĩnh Chi), trải qua nhiều chức vụ quan trọng như Kinh lược sứ Lạng Sơn, Nhập nội đại hành khiển, thượng thư hữu bật, được phong tước Thân Quốc công. Từng được cử đi sứ qua triều Nguyên. Ông từng giữ chức Giám tu Quốc sử viện, cùng Trương Hán Siêu soạn sách Hoàng triều đại điển và bộ Quốc triều hình luật.

Bài thơ trên đây làm khi ông đang đi sứ bên Tàu. Bài này từng được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học VN

Giản thể归兴 

老桑叶落蚕方尽,早稻花香蟹正肥。
见说在家贫亦好,江南虽乐不如归

 

2/11/24

Tương Trung tức sự


湘中即事 

隔岸湘猿叫,
臨山楚竹幽。
夕陽晴景好,
水色滿孤舟。

阮忠彥

Âm:

Cách ngạn Tương viên khiếu,
Lâm sơn Sở trúc u.
Tịch dương tình cảnh hảo,
Thuỷ sắc mãn cô chu.

Nghĩa

Bên kia bờ tiếng vượn Tương kêu,
Nơi chân núi tre Sở âm u.
Chiều tà cảnh trời quang đãng thật đẹp,
Ánh nắng phản chiếu sắc nước lên khắp chiếc thuyền lẻ loi.

Tạm dịch

Bên sông bầy vượn hú,
Trên núi rừng tre dày.
Chiều xuống trời trong trẻo,
Thuyền đơn bóng nước lay.

Chú

-          湘中 Tương Trung:  chỉ vùng đất thuộc sông Tương.

-          湘猿 là loài khỉ sống ở vùng sông Tương.

-          臨山 kế bên núi.  lâm: kế gần

-          楚竹 Sở trúc:  chỉ loại tre mọc ở vùng đất Sở (nay là Hồ Bắc).

 

Giản thể.

隔岸湘猿叫,临山楚竹幽。
夕阳晴景好,水色满孤舟

阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370), đại thần đời Trần. Nổi tiếng thần đồng, 15 tuổi đỗ Hoàng giáp, đỗ tiến sĩ cùng khoa với Mạc Đĩnh Chi, từng được cử đi sứ qua Tàu (thời nhà Nguyên). Ông cùng Trương Hán Siêu soạn bộ Hoàng triều đại điển. Thơ còn lưu được 84 bài.

1/11/24

Citizen kane

Lâu rồi, có ý định coi bằng hết 100 phim hay nhất do AFI bình chọn. Nhưng hồi ấy phim online thì tập có tập không, lại lướt net bằng đường dây đt bàn nên coi được khoảng chục phim thì bỏ dở. Nay khởi động lại dự án. Ai cùng xem không?

---

100 phim Mĩ hay nhất mọi thời đại (The 100 Greatest American Movies Of All Time) được AFI (Viện phim Mĩ) bình chọn năm 1998 nhân dịp kỉ niệm 100 năm ra đời của điện ảnh. Sau đó dự định cứ 10 năm thì cập nhật lại. Ai muốn có thể vào đây coi danh sách này

https://www.afi.com/afis-100-years-100-movies-10th-anniversary-edition/

Hôm nay sẽ coi phim được xếp vị trí số 1 -- Citizem Kane (1941)

---

Citizen Kane ra mắt năm 1941, do Orson Welles đạo diễn, sản xuất và thủ vai chính. Welles và Herman J. Mankiewicz cùng viết kịch bản cho bộ phim này. Đây là bộ phim truyện đầu tay của Welles.

Trong 40 năm liền (với 5 lần thăm dò ý kiến thập niên: 1962, 1972, 1982, 1992, 2002), bộ phim đứng đầu danh sách bình chọn của các nhà phê bình trong cuộc thăm dò thập niên của Viện Phim Anh Quốc, và cũng đứng đầu danh sách “100 Years… 100 Movies” của AFI năm 1998 cũng như bản cập nhật năm 2007. Bộ phim được đề cử 9 giải Oscar và giành giải Kịch bản Gốc Xuất sắc nhất cho Mankiewicz và Welles. Citizen Kane được đánh giá cao nhờ kỹ thuật quay phim của Gregg Toland, biên tập của Robert Wise, âm nhạc của Bernard Herrmann, .. tất cả đều được xem là những sáng tạo mang tính đột phá và thiết lập những tiêu chuẩn mới.

Citizen Kane là bộ phim tiểu sử giả tưởng về ông trùm báo chí Charles Foster Kane, một nhân vật tổng hợp lấy cảm hứng từ các ông trùm truyền thông Mỹ như William Randolph Hearst và Joseph Pulitzer, các đại gia Chicago như Samuel Insull và Harold McCormick, cũng như từ một phần cuộc đời của chính Orson Welles. Dù được giới phê bình đánh giá cao, Citizen Kane không thu hồi đủ chi phí sản xuất tại các rạp. Bộ phim dần bị lãng quên sau khi ra mắt, nhưng sau đó đã trở lại với công chúng khi được các nhà phê bình Pháp như André Bazin khen ngợi và được tái chiếu vào năm 1956. Năm 1958, bộ phim được xếp hạng 9 trong danh sách uy tín Brussels 12 tại Triển lãm Thế giới 1958. Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đã chọn Citizen Kane vào nhóm 25 bộ phim đầu tiên được lưu giữ trong Cơ quan Lưu trữ Phim Quốc gia Hoa Kỳ năm 1989 vì giá trị "văn hóa, lịch sử, hoặc thẩm mĩ". 

---

link xem film online: https://fsharetv.com/movie/citizen-kane-episode-1-tt0033467

31/10/24

Alexis Zorba,

Trước 1975 Nguyễn Hữu Hiệu đã dịch cuốn tiểu thuyết này với nhan đề là “Zorba, con người chịu chơi”. Sau 1975 Dương Tường lại dịch tác phẩm này với nhan đề: “Zorba, con người hoan lạc”. Ngoài ra trên mạng thấy một số bản dịch ghi nhan đề khác nữa. 

Alexis Zorba, còn được biết đến với tên Zorba the Greek, là một tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantzakis, xuất bản năm 1946. Cuốn sách kể về hành trình khám phá cuộc sống của hai nhân vật chính: “tôi” - một nhà trí thức trẻ, nghiêm túc và có phần trầm lặng, và Alexis Zorba - một người đàn ông lớn tuổi, tự do, phóng khoáng, sống tràn đầy đam mê.
Câu chuyện bắt đầu khi nhân vật “tôi” thuê Zorba để giúp ông khai thác một mỏ than ở Crete, Hy Lạp. Qua những ngày tháng sống cùng nhau, Zorba truyền cho nhân vật chính niềm say mê sống mãnh liệt, tầm nhìn phóng khoáng, và sự dũng cảm để sống theo cảm xúc, khác xa với cuộc sống kỷ luật, khô khan của người trí thức. Zorba trở thành hiện thân của một triết lý sống phóng túng, tự nhiên, không bị ràng buộc bởi những giới hạn xã hội hay tôn giáo.
Alexis Zorba là một bản tình ca về niềm vui sống, sự tự do, và khát vọng vượt lên khỏi những trói buộc của cuộc sống hiện đại. Qua nhân vật Zorba, Kazantzakis đã gửi gắm thông điệp về việc sống một cách trọn vẹn, không sợ hãi hay hối tiếc, một cách gần gũi với thiên nhiên và theo đuổi hạnh phúc chân thật. Tác phẩm đã trở thành một biểu tượng văn học về sự đối lập giữa lý trí và bản năng, mang đến cho người đọc nguồn cảm hứng mạnh mẽ về một cuộc sống không bị giới hạn.
Quan niệm sống của Zorba trong Alexis Zorba có nhiều nét gần gũi với chủ nghĩa hiện sinh (existentialism), đặc biệt là ở khía cạnh đề cao sự tự do cá nhân và cách sống trọn vẹn từng khoảnh khắc mà không dựa vào các quy tắc hay chuẩn mực cố định. Chủ nghĩa hiện sinh khuyến khích con người tự định nghĩa bản thân qua hành động, chấp nhận những nghịch lý của cuộc sống và hướng đến một sự tồn tại có ý nghĩa, vượt lên trên những quy ước xã hội hoặc tôn giáo. Tương tự, Zorba là một người sống theo bản năng, không lo lắng về những chuẩn mực, và luôn tìm kiếm niềm vui, vẻ đẹp và sự tự do qua mỗi trải nghiệm thực tế.
Ở Zorba, chúng ta thấy một sự khẳng định cho ý chí tự do, giống như quan niệm hiện sinh của Jean-Paul Sartre, rằng “con người phải tạo ra bản chất của chính mình” bằng cách sống chân thực và tự do, thay vì chờ đợi một ý nghĩa đến từ bên ngoài. Zorba không bao giờ lảng tránh những trải nghiệm mới, kể cả khi chúng có thể dẫn đến đau khổ hay mất mát. Ông sống hết mình, yêu ghét mãnh liệt, và không để bất kỳ triết lý hay lý tưởng nào giới hạn sự tự do của mình.
Tuy nhiên, Zorba có phần khác biệt so với existentialism ở chỗ ông không phải là người trầm tư về bản chất cuộc sống hay nặng nề với ý thức về sự phi lý (absurd) của nó. Với Zorba, cuộc sống không cần phải được phân tích sâu sắc, mà chỉ cần sống và cảm nhận. Zorba là biểu tượng của sự tự do nguyên sơ, của việc sống không ngừng với niềm vui bản năng, gần gũi với thiên nhiên, điều này làm ông gần gũi hơn với các yếu tố hiện sinh mang tính trải nghiệm và phi lý trí.

Đọc Alexis Zorba lại nhớ Siddhartha của Hermann Hesse. Cuộc đời của hai người đều là một hành trình khám phá bản thân, đề cao tự do cá nhân, coi trải nghiệm thực tế hơn kiến thức sách vở. Siddhartha nhận ra rằng sự giác ngộ không thể đạt được qua lời dạy mà phải tự mình trải nghiệm, còn Zorba cũng sống hết mình, luôn ưu tiên hành động hơn lý luận. Thái độ dấn thân tất nhiên không tránh khỏi những khổ đau, và họ đều nhận chúng, như một tất yếu của cuộc sống mà không sợ hãi. Họ không để bản thân vướng víu vào những nỗi buồn niềm vui, quá khứ hay tương lai, mà sống từng khoảng khác đang có. Dù Siddhartha đi theo con đường tâm linh và Zorba theo đuổi cuộc sống phóng khoáng, cả hai đều đại diện cho tinh thần khám phá, không ngừng học hỏi từ cuộc sống và luôn sống một cách chân thật nhất.

---
Đào Hiếu có vẻ rất mê Alexis Zorba, có viết mấy kì về tác phẩm này, ai thích tham khảo có thể vào đây:
https://daohieu.wordpress.com/2014/11/24/tim-lai-alexis-zorba-ky-01-dao-hieu/

Trên trang Triết học Đường phố thấy có bài review, lấy về đây mọi người đọc thêm.
----

Alexis Zorba – Con người hoan lạc – Một gã không bao giờ đi tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống

 

[2420 words, 10 minutes read]

Tôi chưa bao giờ có ý định áp đặt tư tưởng của tôi vào một ai, tôi cũng không đặt bút viết ra những dòng chữ này để thay đổi cách sống của bạn. Như cách tôi yêu quý cha mẹ tôi và vẫn thường nói về họ, đó là cách mà tôi bày tỏ tình yêu thương của tôi dành cho họ. Và hôm nay, tôi muốn chia sẻ tình yêu đó cùng với những ai cũng đang bước đi trên con đường tiến gần hơn đến với người đó. Một nhân vật huyền thoại mà tôi luôn ấp ủ để được kể cho nhau nghe: Alexis Zorba. Một con người hoan lạc đã xuất hiện trong cuộc đời tôi vào giây phút định mệnh tôi cầm trên tay quyển sách. Alexis Zorba – Con người hoan lạc của Nikos Kazantzakis.

Sống giữa một cuộc đời có quá nhiều kinh hãi và bên cạnh mình là những bóng ma. Có bao giờ bạn đứng trơ trọi và trần trụi trong đời sống mình, gượng hết cổ họng hét lớn: “Tất cả mọi sự chỉ là một sự giả tạo.” Bạn muốn trở thành một kẻ sát nhân và giết chết sạch tất cả những lừa dối ngụy trang, nhưng không đủ can đảm để cầm lấy thanh gươm ấy. Bạn không có một điểm tựa, bởi đám đông xung quanh bạn vẫn luôn đứng đó vây bọc lấy đời sống bạn. Làm sao để có thể giải thoát khỏi đời sống tù túng chật hẹp. Mọi thứ đang được rào chắn bởi khuôn khổ định kiến. Không thể nào chiến thắng được những tri thức lý lẽ và xã hội để lên đường tìm kiếm chính mình.

Tôi khởi sinh gieo hạt vào khu vườn sống từ rất rất lâu rồi. Nhưng có lẽ vị thần đã đánh thức tôi dậy, hét lớn vào mặt tôi “Chạy ngay đi.” Có lẽ chính là Zorba.

Đó là một con người có thể bắt các vì sao xoay vần quanh gã. Mặc cho cái đầu của gã trống rỗng đối với những kiến thức vay mượn vì gã không bao giờ đọc sách báo. Đó chỉ là một anh công nhân, không chứa một ý nghĩ nào trong đầu, nhưng vẫn luôn sống mãnh liệt và trọn vẹn với cuộc đời mình. Gã chỉ biết sống chứ không suy nghĩ.

Chính điều đó đã khiến nhà tri thức suốt một đời chỉ biết đến sách vở, chỉ thích nghiên cứu giáo lý Phật giáo, đầu óc chỉ đầy những tư tưởng trừu tượng, nhân vật “tôi” đang kể chuyện trong quyển sách này đã phải cúi đầu ngậm ngùi hổ thẹn với bản thân.

“Giá tôi có thể sống lại cái lúc cơn giận dâng lên trong tôi khi bạn tôi gọi tôi là mọt sách! Lúc ấy tôi nhớ ra rằng tất cả nỗi ghê tởm của tôi với quãng đời mình đã sống được thể hiện trọn vẹn trong cái từ đó. Làm sao tôi, một kẻ yêu đời mãnh liệt đến thế, lại có thể để mình mắc kẹt lâu như vậy trong đống sách nhảm nhí và mớ giấy đen ngòm mực… Tôi kiếm cớ để từ bỏ mớ sách vở, tài liệu và lao mình vào một cuộc đời hành động. Tôi phẫn uất vì nỗi phải mang cái tạo vật khốn khổ ấy trên bảng tên mình.”

Đó là một kẻ trí thức mà chính gã cũng đã cay đắng nhận ra mình là một kẻ tri thức chỉ nghĩ chứ không sống.

Zorba là một gã không bao giờ đi tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của mình, bởi vì gã đã sống quá nhiều để nhận ra kẻ nào luôn cố gắng đi tìm thì kẻ đó chỉ đang cố đánh mất. Vậy nên gã biến mình thành bánh xe tự xoay động giữa cuộc sống, hưởng thụ cuộc đời một cách say đắm triền miên. Gã không có tham lam thèm muốn hướng vọng đến những đỉnh cao.

“Tôi đã thôi hẳn không nghĩ đến những gì đã xảy ra hôm qua và thôi tự hỏi mình những gì sẽ xảy đến ngày mai. Điều tôi quan tâm là cái gì đang xảy ra hôm nay, giờ phút này. Tôi nói: Mày đang làm gì đó, Zorba? – Tao ngủ – Được, ngủ cho ngon đi – Mày đang làm gì đó Zorba? – Tao làm việc – Ờ, hãy làm cho ra trò nhé – Mày đang làm gì đó, Zorba? – Tao đang hôn một người đàn bà – Ờ, hãy hôn cho say đắm, Zorba. Và quên hết mọi thứ ngoài cái điều mày đang làm, không có gì khác trên đời ngoài mày và nàng. Cứ tiếp tục đi.”

Còn kẻ tri thức chỉ là một cái xác không hồn bước đi hững hờ trong cuộc đời. Bỗng một ngày nhìn thấy Zorba đã khiến gã như thủy thủ xa bờ lâu ngày trông thấy đất liền, gã vội đứng dậy hét lớn. Điều mà suốt cả đời gã đã mải miết chạy theo một ốc đảo ở sa mạc và không bao giờ tìm được.

“Với tôi, các từ: nghệ thuật, tình yêu, sự trong sáng, đam mê, tất cả đều được người lao động này làm rõ bằng những chữ mộc mạc nhất của tiếng người.”

Alexis Zorba là con người hoàn toàn hồn nhiên giản dị, chỉ biết ăn, uống, ngủ, đi đứng, làm tình, ca hát, nhảy múa và say sưa làm việc. Còn kẻ tri thức quên ăn quên uống, không dám làm tình, suốt ngày nhồi nhét những kiến thức một cách mệt mỏi chán chường để tìm ra mọi bí ẩn của thế gian.

“Tôi bận sống tất cả những bí ẩn đó, theo các ông gọi, nên chẳng còn đâu thì giờ mà viết. Lúc nó là chiến tranh, lúc là đàn bà, khi là rượu, khi là cây đàn santuri, tôi lấy đâu ra thì giờ múa may một cây bút khốn khổ? Vì thế nên việc đó rơi vào tay bọn cạo giấy! Tất cả những kẻ thực sự sống những bí ẩn cuộc đời đều không có thì giờ viết và tất cả những kẻ có thì giờ viết lại không sống trong những bí ẩn ấy.”

Zorba lăn xả vào cuộc đời như một chiến sĩ kiêu dũng lăn vào các cuộc chiến. Gã không muốn đánh mất đi giá trị cuối cùng của một con người khi biến mình thành nô lệ của chính mình. Gã nhảy qua xác chết quá khứ, chỉ biết say sưa điên cuồng hò hét ở hiện tại. Tự chỉ định giới hạn cái thiện và cái ác, sự sống và cái chết của chính mình, không theo một sự rập khuôn nào. Tự biến mình thành quan tòa rồi tự phán xét chính mình cho những lề luật gã tự đặt ra. Dám làm tất cả mọi sự, không dè dặt, không giữ gìn trong khi kẻ tri thức lúc nào cũng sống trong cẩn thận, dè dặt, chín chắn, tâm hồn tràn đầy mặc cảm.

“Tôi còn đầy một bầu nhiệt huyết! Làm sao tôi có thể dừng lại mà xem xét mọi thứ nguyên cớ, lý do này nọ? Muốn suy xét sự việc cho đúng đắn, công bằng, phải chờ đến lúc về già, rụng hết răng và bình tĩnh lại. Khi anh là một lão khọm chẳng còn một cái răng, anh có thể dễ dàng nói: “Mẹ kiếp, các chú nhỏ, đừng có cắn!” Nhưng khi anh còn nguyên ba mươi hai cái răng thì…”

Nói về cuộc đời cùng một kẻ đang còn đau khổ cùng những tri thức lý lẽ vay mượn trong sách vở chỉ làm căng phồng thêm sự trống rỗng của kẻ đó, là một sự quá sức.

“Tôi tự hỏi không biết các hạ có thể nói gì về điều đó. Trong chừng mực tôi có thể nhìn thấy là các hạ chưa bao giờ đói, chưa bao giờ chết chóc, chưa bao giờ trộm cắp, chưa bao giờ phạm tội ngoại tình. Vậy các hạ biết cái quái gì về thế sự? Đầu óc các hạ ngây thơ, da thịt thậm chí chưa bao giờ biết mùi nắng.”

Kazantzakis đã dựng lên một con người hiên ngang bất khuất sống động giữa nền văn minh tri thức thời đại để tát một gáo nước lạnh vào sự độc tôn của lý trí. Chính lý trí đã xây dựng lên quá nhiều ảo tưởng. Chúng biến mình làm vật cản làm chậm bước chân đi của sức sống tràn đầy. Chúng phá hủy sự thơ mộng vốn có trong mỗi con người. Chúng một mực tạo ra những những ảo tưởng và dùng chính những ảo tưởng đó để chống lại lý trí, phá vỡ cuộc sống vốn có tự sẵn thân trong con người. Con người được sinh ra và thuần chủng trong những bản năng vốn có. Lý trí không đủ quyền năng để điều khiển tâm trí con người bước lệch lạc trên những bước chân chao đảo. Con người cần tự hiểu rõ một điều rằng

“Mọi người trên thế gian này đều có một ý nghĩa tiềm ẩn, tôi nghĩ thầm. Con người, thú vật, cây cối , trăng sao, tất cả đều là chữ tượng hình. Bất hạnh cho kẻ nào bắt đầu đọc ra những chữ ấy và đoán được ý nghĩa của chúng…Khi mới thấy, ta đâu có hiểu. Ta tưởng đó quả thật là con người, cây cối, trăng sao. Mãi đến nhiều năm sau, ta mới hiểu thì quá muộn…”

Nhưng không phải vì thế mà con người dùng lý trí để chạy trốn sự thật gan góc ác độc đó. Con người cần phải đối diện để đi qua hết tất cả mọi sự đã được sinh ra để chờ đợi sẵn.

“Trái tim ta hỡi, giống như hạt lúa mì, ngươi cũng phải rụng xuống đất và chết. Đừng sợ. Nếu ngươi không rụng xuống, làm sao cây kết trái được? Làm sao nuôi những kẻ sắp chết đói.”

Sự trốn tránh trong những tri thức lý lẽ, cố biện minh cho một cuộc đời không đáng giá con người. Sống như một con người là khi ta nhận ra

“Đỉnh cao nhất của con người có thể đạt tới không phải là kiến thức, hay đức hạnh, cũng chẳng phải thiện tâm hay chiến thắng, mà là một cái gì đấy vĩ đại hơn, anh hùng hơn và tuyệt vọng hơn: Nỗi sợ thiêng liêng.”

Zorba đích thực là hiện thân của một con người chống đối lý trí. Nhưng nói thế không có nghĩa gã là một tên ngu muội. Vì chúng ta đôi lúc không nhận ra rằng con dao hai lưỡi được giấu kín sau lý trí đã đợi chờ cơ hội quay đầu phản bội trá hình, biến ảo thành thật, thật thành ảo, xoay vần  tâm trí và biến chúng ta thành kẻ dại khờ khi một mực phủ nhận. Lý trí cũng chính là sự ngu muội.

“Thoát khỏi tổ quốc, khỏi các thầy tu, khỏi tiền bạc. Tôi đã sàng lọc, ngày càng sàng lọc bỏ đi nhiều thứ. Bằng cách ấy, tôi làm nhẹ gánh nặng của mình. Tôi đã, nói thế nào nhỉ?.. Tôi đã tìm thấy sự giải thoát tôi thành người.”

Alexis Zorba là một kẻ tỉnh ngộ, là một con người lý tưởng mà Kazantzakis muốn đạt đến. Khi tôi đối diện với con người này, tôi tựa mình như một vì sao đang lao mình vào khoảng không trống rỗng. Bởi tôi nhận ra tôi vẫn còn đang rất đau khổ giữa đời sống này. Tôi chẳng khác gì gã tôi đang kể câu chuyện ấy, đang tự hổ thẹn với chính mình. Nhưng may sao lòng can đảm và những hy vọng trong tôi vẫn còn nguyên vẹn. Tôi không còn muốn khom lưng cúi mặt, nghiến răng chịu đựng. Tôi muốn giết chết con người giả tạo trong tôi, sống thực hơn, vượt bỏ cái bóng từng là chính tôi, bay vút lên cao tít và được biến thành con người, vượt bỏ tất cả sự dơ bẩn trong tôi, mặc cho tôi đã tự biến mình thành kẻ thù của đám đông. Tôi không cần biến mình là đồng minh của họ, tôi đã không còn tin tưởng vào họ.

“Tôi chẳng tin vào cái gì, chẳng tin vào ai, tôi chỉ tin vào Zorba. Không phải vì Zorba tốt hơn những người khác, hoàn toàn không phải như thế. Hắn cũng là súc sinh như tất thảy. Nhưng tôi tin vào Zorba vì hắn là kẻ duy nhất nằm trong phạm vi quyền lực của tôi, là kẻ duy nhất tôi hiểu biết. Còn tất cả mọi người khác đều là những bóng ma. Tôi nhìn thấy bằng đôi mắt này, tôi nghe thấy bằng đôi tai này, tôi tiêu hóa bằng bộ lòng ruột này. Tất cả mọi người khác đều là bóng ma. Khi tôi chết, tất cả mọi thứ đều sẽ chết. Toàn bộ thế giới Zorba sẽ chìm xuống đến tận đáy!”

Thực sự tôi không có ý định viết ra những câu chữ này để review cho một quyển sách. Đây không phải là một bài review để các bạn đọc qua rồi ra hiệu sách vồ chụp lấy con người đó, dùng sự thấu hiểu cạn cợt của mình để phán xét đúng sai. Khoảnh khắc tôi và con người hoan lạc này đã gặp nhau, tôi không hiểu căn nguyên lý do, nhưng vì đã gặp gỡ và trót yêu mến, nên các câu chữ đã theo tình yêu đó tuôn trào ra trên từng trang viết. Tôi đã muốn viết nhiều hơn, nhưng có lẽ ngôn từ mộc mạc khô cằn này đôi khi không đủ để nói về một điều mà chúng ta yêu quý. Vậy nên mọi sự chỉ nên dừng lại ở đây.

“Tâm hồn cũng là một con vật có phổi, có lỗ mũi, nó cần dưỡng khí và có thể chết ngạt trong bụi bặm hoặc giữa những chỗ quá uế khí.”

Tôi hy vọng cuộc gặp gỡ này giữa bạn và Zorba, bạn cũng sẽ tìm ra được một chút dưỡng khí nào đó dành riêng cho chính bạn. Còn tôi, tôi vẫn đang cố gắng mỗi ngày.

Tác giả: Ni Chi

30/10/24

Trường An hoài cổ

 長安懷古 

河岳終存故國非,
數行陵柏背斜暉。

舊時王氣埋秋草,
暮雨蕭蕭野蝶飛。
陳光朝

Âm

Hà nhạc chung tồn cố quốc phi, Sổ hàng lăng bách bối tà huy.
Cựu thời vương khí mai thu thảo, Mộ vũ tiêu tiêu dã điệp phi.

Nghĩa.

Sông núi rốt cuộc vẫn còn đó, nhưng nước cũ thì đã không còn nữa. Mấy hàng cây bách trên dồi cao phơi lưng dưới nắng chiều.
Cái vương khí ngày xưa đã chôn vùi dưới đám cỏ thu.
Chỉ còn thấy mấy con bướm hoang bay trong chiều mưa lất phất.

Tạm dịch

Nùi sông còn đó nước thì tiêu,
Hàng bách phơi lưng trước nắng chiều.
Vương khí năm xưa vùi dưới cỏ,
Chiều mưa lất phất bướm liêu xiêu.


Chú

-          長安 Trường An, từng là kinh đô của nhiều triều đại bên Tàu, nay là thành phố Tây An

-          故國 nước cũ, hiểu là triều đại cũ. Câu đầu gợi nhớ đến câu thơ của Đỗ Phủ: Quốc phá sơn hà tại: nước mất, sông núi vẫn còn đó.

-          陵柏 lăng bách: cây bách trên gò cao, hoặc trên lăng mộ.  lăng: gò cao, lăng mộ. Xưa lăng mộ vương tôn thường trên gò cao, quanh trồng tùng bách.

-          背斜暉 bối tà huy: giơ lưng về phía nắng chiều.

-          暮雨 mộ vũ: mưa lúc gần tôi. 野蝶 dã điệp: bướm ngoài đồng hoang.

 陳光朝 Trần Quang Triều (1286-1325) là con trai Trần Quốc Tảng, cháu nội Trần Quốc Tuấn và anh vợ vua Trần Anh Tông. Tài kiêm văn võ, nhưng tính thích nhàn, sau từ quan, về lập ra thi xã Bích Động xướng hoạ với các bạn thơ như Nguyễn Sưởng, Nguyễn Trung Ngạn, .. Sau  ông được vua mời nhận chức Nhập nội kiểm hiệu Tư đồ (tể tướng), nhưng chẳng được bao lâu thì mất ở tuổi 38

Giản thể

河岳终存故国非,数行陵柏背斜晖。
旧时王气埋秋草,暮雨萧萧野蝶飞