25/8/17
Làng Tôi . Chung Quân
Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh êm xuôi về Nam …
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau
Bóng tre ru bên mấy hàng cau đồng quê mơ màng!
Năm 1952 đoàn hát Kim Chung (Hà Nội) dự định thực hiện bộ phim Kiếp Hoa (là bộ phim nhựa có tiếng nói đầu tiên của VN). Để quảng cáo cho bộ phim, đoàn hát tổ chức cuộc thi sáng tác nhạc nền cho bộ phim. Nghe nói nhiều nhạc sĩ thành danh cũng tham gia cuộc thi, nhưng giải thưởng đã được trao cho ca khúc Làng Tôi của Chung Quân (tên thật Nguyễn Đức Tiến, sinh 1936), bấy giờ chỉ mới 16 tuổi.
Song đấy hầu như cũng là tác phẩm duy nhất được người đời biết đến của ông. Sau 1954 ông di cư vào Nam, có soạn một bản hợp xướng nhan để Sông Bến Hải, cùng một vài ca khúc khác nhưng không mấy ai chú ý.
Có học sư phạm nhưng chỉ ở ngạch hương sư vì ông chỉ mới có bằng thành chung (đại khái là tương đương tốt nghiệp cấp 2), nhưng nhờ danh tiếng của Làng Tôi mà ông được nhận dạy nhạc tại hai trường trung học Chu Văn An và Nguyễn Trãi ở Sài gòn. Nhiều nhạc sĩ nổi danh như Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Đức Huy, Nam Lộc.. từng là học trò ông khi học trung học ở đó. Về sau ông có qua Mỹ du học, lấy PhD Văn chương Anh, về dạy ở ĐH Huế (xem bài của một học trò cũ của ông ở dưới)
Sau 1975 ông ở lại Việt Nam, bệnh mất năm 1988.
Tìm được bài viết của một học trò cũ của ông viết, cop về đây để mọi người vừa nghe nhạc vừa đọc cho vui, và cũng để lưu
Nhạc Sĩ Chung Quân - Nguyễn Đức Tiến
Nguyên Giao
San Diego, Hoa Kỳ
(..) Di cư vào Nam, gia đình định cư ở vùng Khánh Hội. Các trường Chu Văn An từ Hà Nội, Nguyễn Trãi ở Hải Phòng cũng lục tục di cư vào Nam.
Do danh tiếng của mình từ khi đoạt giải ở Hà Nội, cộng thêm các giấy tờ đã học sư phạm chuyên ngành về Nhạc, nhạc sĩ trẻ tuổi Chung Quân được Bộ Quốc Gia Giáo Dục của Đệ Nhất Cộng Hòa ưu đãi, cho dạy môn nhạc tại hai trường trung học Chu Văn An, và Nguyễn Trãi, ăn lương theo ngạch giáo sư trung học đệ nhất cấp, tương đối là cao. Trên thực tế, về bằng cấp giáo dục, thầy Tiến lúc đó chỉ mới có bằng trung học, học trường sư phạm theo ngạch hương sư.
Tôi còn nhớ khoảng năm 1955-56, vào một hôm trời mưa như trút nước, tôi được đi xem một đại nhạc hội của các học sinh trường trung học Nguyễn Trãi tổ chức tại rạp Thanh Bình. Tiết mục đáng nhớ nhất là hợp xướng ‘Sông Bến Hải’ do nhạc sĩ Chung Quân, đồng thời là giáo sư âm nhạc, sáng tác và tập cho các học sinh của trường. Đây là một trường ca có giá trị nghệ thuật cao, nói về một dòng sông chia đôi đất nước, và tâm trạng phải bỏ ‘quê cha, đất tổ’ của người di cư năm 1954. Hợp xướng này nghe thật hay, và chắc chắn không dễ tập, nhất là với mấy cậu học trò có kiến thức âm nhạc rất ‘căn bản’! Mãi đến sau này, khi được học nhạc với thầy Nguyễn Đức Tiến ở Chu Văn An, tôi mới được biết một, hai ‘bí quyết’ đọc nhạc do thầy dậy cho các học trò.
Thật là điều đáng tiếc khi không hiểu vì sao, trường ca Sông Bến Hải sau này không thấy được phổ biến, và giới yêu nhạc chỉ biết nhạc sĩ Chung Quân qua bản Làng Tôi!
Thầy Tiến dáng dong dỏng cao, hay đeo kính mát gọng vàng, và có thể nói là đẹp trai. Các giáo sư thời ấy đi dạy ăn mặc rất sang trọng. Trời nắng chang chang đổ mồ hôi nhưng cụ hiệu trưởng Trần Văn Việt vẫn luôn luôn mặc com-lê trắng, đeo cravát. Các giáo sư và các vị giám thị - tuy không bằng cụ hiệu trưởng - cũng đeo cravát, mặc áo sơ mi dài tay cài nút măng-sét. Trông các thầy thật ‘oai’! Trong các giáo-sư, người ăn mặc đẹp nhất, sang nhất, và đúng mốt nhất vẫn là thầy Tiến. Đặc biệt, khi đi dạy ở Chu Văn An, người ta đã thấy thầy lượn xe Vespa rất sớm so với các giáo sư khác.
Vì là giáo sư âm nhạc, thầy Tiến đã phải ‘biểu diễn dẫn giải’ (demo) bằng ca hát cho đám học trò non dại chúng tôi, nên nhờ vậy, chúng tôi đã nhiều lần được nghe thầy hát ‘nhạc sống’ thật … sống động! Mỗi khi thầy cất tiếng hát – chắc chắn to hơn khi thầy nói! - cả lớp chúng tôi đều lắng tai nghe và mong thầy hát thật lâu để chúng tôi được thưởng thức. Tôi còn nhớ rõ những lúc thầy trịnh trọng gõ thanh nĩa chuẩn âm (gọi là ‘Aâm thoa’) bằng kim loại trắng, trước khi say sưa đơn ca bài Hòn Vọng Phu:
‘Nơi phía nam giữa núi mờ
Ai bế con mãi đứng chờ
Như nước non xưa đến giờ
Đường chiều mịt mù,
Cát bay tỏa bước ngựa phi đường trường
Nếp tàn y hùng cường
Vẫn còn bay trong gió
Bóng chàng xa, sắp dần qua’
(Lê Thương)
trước mặt đám học trò ngẩn người, yên lặng lắng nghe - không phải một, mà nguyên cả ba - bài hát đầy những hình ảnh lịch sử này. Không có nhạc đệm mà qua tiếng thầy hát, tôi có thể như hình dung ra các hình ảnh ngựa phi, qua sông vượt núi, và tiếng đao khiên loảng xoảng nơi chiến trường …
Cho đến giờ này tôi vẫn còn có thể lẩm bẩm được những nốt nhạc của một bài dân ca phổ thông của Ý Đại Lợi, cũng do thầy Chung Quân dạy:
‘Sòn sòn, đố đố si si
Phà phà, lá lá son son
Mì lá son son, phà phà
Pha mi rề lá son’
Mê nghe, và hát tân nhạc, nhưng tôi rất dốt, và lười về nhạc lý. Nếu không nhờ thầy Tiến chỉ dậy, không biết bao giờ tôi mới biết được sự khác nhau, cũng như cách đánh nhịp 2/4 (“Một xuống, một lên!”), ¾ (“Một, hai, ba!” theo ba cạnh của tam giác có một góc vuông), và 4/4 (tức C: “Một, hai, ba, bốn!” theo hình số 8 có 4 góc nhọn).
Vì nhạc lý là môn học khô khan, nhất là phần nhớ các bộ khóa đầu bản nhạc, và làm sao tìm ra giai âm chính của bản nhạc đó, thầy Tiến đã sáng chế ra một bài lục bát thật độc đáo và hữu dụng, vừa đủ và cho đúng 7 nốt nhạc! Đó là:
‘Nhất Sòn, Nhị Rế, Tam La,
Tứ Mi, Ngũ Sí, Lục Pha, Thất Đồ!’
Có nghĩa là nếu thấy ở đầu bản nhạc có một dấu thăng, thì bài ấy có âm giai Sol là chính; Nếu có hai dấu thăng thì là âm giai Rê, v.v. Học trò của thầy hơn người một phần là nhờ những ‘bí quyết’ này.
Chung Quân Nguyễn Đức Tiến có lối tập hợp xướng rất công phu, một phần có lẽ vì thầy ngày trước có học nhạc ở Chủng viện nên đã được huấn luyện chuyên nghiệp về hòa âm, và hợp xướng. Tôi nhớ trong năm học Đệ Ngũ, chúng tôi được thầy tập cho hợp xướng bài ‘Hè Về’ của nhạc sĩ Hùng Lân để trình diễn trong buổi văn nghệ cuối niên học. Thầy tuyển được đâu 40 học sinh có giọng tốt từ trầm đến bổng để hát 4 bè. Thầy cũng tìm được ba giáo sư có giọng, hay giỏi đàn nhạc trong trường, để mỗi thầy làm trưởng một bè.
Bốn nhóm bè, lúc tập thì tập riêng, chỉ hát phần bè của mình mà không biết ba nhóm kia hát gì. Sau khi cả bốn nhóm đã nhuần nhuyễn, ‘Oâng bầu’ Chung Quân cho ráp lại bốn nhóm hát cùng một chỗ, và chung một lúc: Tất cả 40 học sinh trong đoàn hợp ca không thể nào nghĩ rằng tiếng hát bè ‘thỉnh-thoảng-xen-vào’ của mình lại có thể vừa hay, vừa ‘quan trọng’ được góp tiếng vào một ban hợp xướng bốn bè, nghe có vẻ nghệ thuật không khác gì các ban hợp xướng chuyên nghiệp của Sài Gòn Hoa Lệ.
Có mấy ai đi học miễn phí mà lại may mắn được đi nghe và được dạy các kỹ thuật của âm nhạc thuộc loại thính phòng, có tiêu chuẩn quốc tế như tụi tôi?
Thầy Tiến viết chữ trên bảng rất đẹp. Nhiều khi hết giờ của thầy, học trò chúng tôi không nỡ xóa đi lời các bản nhạc thầy đã viết trên bảng. Chưa kể thầy còn có tài ‘vung’ phấn trên bảng đen, chỉ với một nét, thầy đã tạo được cả năm dòng kẻ nhạc, và khóa Son cùng một lúc từ đầu bên kia bảng, sang bên này bảng, thẳng tắp, và đều đặn tưởng như có dùng thước hay máy vẽ! Có lần chúng tôi hỏi, thầy trả lời nho nhỏ như không có gì đáng để ý, “Làm nhiều thì quen tay; Vậy thôi!”
Tính thầy hòa nhã nhưng rất nghiêm. Chỉ nói nhỏ nhẹ khi thật cần thiết, mực thước và nghiêm. Học với thầy hai, ba năm mà chưa bao giờ tôi thấy thầy la mắng một đứa học trò nào, và ít khi thấy thầy cười thành tiếng. Tuy say sưa dạy nhạc nhưng hình như thầy không biết tên chúng tôi: Tôi chưa bao giờ thấy thầy có nhớ, và gọi tên bất cứ một học sinh nào - trừ khi có sổ điểm trước mặt! Có thể vì thày dạy quá nhiều lớp, hay trí nhớ của thầy đã đầy những dữ kiện khác cần, và đáng nhớ hơn. Giữa thầy và trò, chúng tôi vẫn cảm thấy có một bức tường ngăn cách nào đó!
Thế mà chúng tôi vẫn mến phục thầy dù rằng ở ban B (tức là Ban Toán), nhạc chỉ là môn học phụ, có hệ số điểm thấp nhất là 1, mỗi tuần chỉ học có một giờ (giống như Vẽ, Sử, Địa, Thể Dục, Hán, v.v.). Bù lại, khác với các giáo sư các môn khác, lớp của tôi được học thầy Tiến suốt 4 năm liền của Trung Học Đệ Nhất Cấp.
Một lần đọc báo của Sứ Quán Việt Nam ở Wellington, Tân Tây Lan, tôi thấy tin thầy Nguyễn Đức Tiến đã tốt nghiệp Tiến sĩ Văn chương ở Anh quốc, trong một chương trình học bổng, và đã được nhà trường giữ lại, mời làm giáo sư diễn giảng. Tôi ngồi suy nghĩ: Như vậy thầy Tiến đã phải đi học lại từ lớp Đệ Tam ở Sài Gòn; Và trước khi có thể trình luận án tiến sĩ, chắc chắn thầy cũng phải có ít nhất tương đương cao học văn chương Anh. Văn chương Anh đâu phải là môn dễ học cho một người Việt Nam, để lấy được văn bằng cao nhất như thế? Tưởng thầy chỉ có biệt tài về Nhạc, bây giờ mới biết thầy còn có nhiều khả năng khác ít người biết …
Ngoài ra, tôi cũng được nghe phong phanh, những mảnh tin tức có khi hơi mâu thuẫn nhau - và chưa phối kiểm được (có thể vì thầy chọn lối sống rất riêng tư) - về thầy Nguyễn Đức Tiến, như:
– ‘Trước năm 1975, tôi nghe nói thầy Tiến đang học Sử học ở New York!’
– ‘Tôi nghe ai nói ông Chung Quân được học bổng du học về ngành Khảo cổ ở Texas!’
– ‘Giáo sư/Tiến sĩ Nguyễn Đức Tiến từ Anh về lại Việt nam, ở cùng với mẹ già sau năm
1975; Nhà vẫn ở khu Khánh-Hội!’
– Theo một anh bạn - trước cũng là học sinh của thầy ở trường Nguyễn Trãi - thì thầy
Tiến đã qua đời.
Gửi bản thảo bài viết này cho một số thân hữu, tôi đột nhiên nhận được thư trả lời qua Liên Mạng (Internet) của một anh bạn đàn anh, thân hồi còn du học ở Tân Tây Lan, từ bên Uùc gửi qua:
“Tôi có dạy học cùng với anh Tiến ở Đại Học Huế. Sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ ở ngoại quốc về, anh Tiến đã trở thành giáo sư Ban Văn Khoa ở đại học này từ năm 1971 đến 1976. Anh Tiến là một người thông thái, nhân hậu, trọng nguyên tắc, và có tư cách. Tôi đã nhiều lần cảm phục chứng kiến anh ấy can đảm công khai phê phán những sai trái, và lố bịch của các cán bộ cộng sản trong trường, nên đã bị cho bãi nhiệm khỏi ban giáo sư của Ban Văn khoa - Đại Học Huế.
Anh Tiến đã mất năm 1988 tại Sài Gòn sau khi bị đứt gân máu trên đầu - trong lúc đang đánh cờ tướng với người em rể - khiến anh bị mê man, và bất tỉnh (coma). Tôi có lại thăm anh trên giường bệnh trong bệnh viện, nhưng chỉ có nhà tôi đến đám táng của anh (vì lúc đó tôi đang vượt biên).”
Ngỡ ngàng, tôi chẳng biết làm gì, đâm ra thành ‘Giận cá, chém thớt’: Qua đời lúc (16 + (1988 - 1952) =) 52 tuổi thì không biết trong cáo phó, tang gia đã thông báo như thế nào: ‘Hưởng Dương’ hay ‘Hưởng Thọ’?
Tôi viết bài này để ghi lại những kỷ niệm đẹp chúng tôi - đám học sinh ở trường trung học Chu Văn An những năm 1960 – 1962 ở Sài Gòn - đã được may mắn có chung với thầy:
Chung Quân Nguyễn Đức Tiến,
một nhạc sĩ tài hoa, đa năng
đồng thời một vị giáo sư yêu nghề, và tận tụy với học trò.
Dù thế nào, làm sao quên đuợc thầy Chung Quân Nguyễn Đức Tiến, nhất là khi tình cờ nghe tiếng ai hát bài Làng Tôi trên xứ người. Bài hát ấy tính ra đã (2005 – 1952 =) 53 tuổi, hơn cả người đã sáng tạo ra nó
@ Vietnam Review
Nguồn: http://www.yeunhacvang.com/forums/index.php?topic=10310.0
Đây cũng có một bài viết về Cung Quân của học trò cũ của ông: http://www.dactrung.com/Bai-nh-918-Nhac_si_Chung_Quan.aspx
Thạch Hãn, Quảng Trị. ảnh bạn chụp
2 nhận xét:
Chú ý: chỉ cần dán link vào, không cần gõ thẻ khi post
Hình (file có đuôi jpg, jpeg, png, bmp, gif ),
Nhạc (file có đuôi mp3 hoặc từ trang web nhaccuatui),
Video (từ Youtube)
Đổi cỡ, màu chữ:
[color="red"][size="20"] chữ cỡ 20 màu đỏ [/size][/color]
(màu dùng mã hexa hoặc tiếng Anh: red, blue, green, violet, gold ..)
Giới thiệu link: <a href="link"> tên link </a>
Chữ đậm <b> chữ đậm</b>
Chữ nghiêng: <i> chữ nghiêng </i>
Chèn Yahoo smiley (click Chèn emoticons để xem phím tắt)
Đã thêm mấy smiley nhưng chưa rảnh thêm vào bảng chèn. Phím tắt:
:-/ bối rối ;) nháy mắt ;;) đá lông nheo
:"> thẹn :X yêu thế =(( tan nát cõi lòng
Chú ý Nếu nút Trả lời ko hoạt động, xin chịu khó lên thanh địa chỉ, gõ thêm vào cuối (ngay sau html) ?m=1 rồi nhấn Enter, nút Trả lời sẽ ok. (29/11/18)
Một thời ngoại thích bài "Làng Tôi" này, 1 thời gian thấy nó buồn quá, nhất là nghe đàn bầu, cứ day dứt 1 cảnh nghèo nàn đến xót xa, đã vậy lại còn ôm súng oánh lộn. hầy dà thiệt là ...!
Trả lờiXóacó nhiều bài mang tên Làng tôi, nhung ba bài nổi tiếng hất là của Chung Quân, Văn Cao và Hồ Bắc đều làm trong thời kháng chiến cống Pháp, bài nào cũng đại khái ban đầu là tả cảnh làng quê thơ mộng êm đềm, sau đó là uýnh nhau, rồi làng quê xơ xác điêu tàn .. tiếp theo đó thi Chung Quân sống ở HN nên nhẹ nhàng nhất:
XóaCó một chiều Thu lá thu rơi.
Ôm súng nhìn quê tôi thầm mơ bóng ngày về.
Hai bài kia thì .. sẽ gt sau, mọi người nghe lại các ca khúc một thời vang bóng cho vui :d