4/1/23

VỀ NHỮNG CHỮ HÁN CÓ ÂM ĐỌC KHÔNG ỔN ĐỊNH HOẶC ĐÁNG NGỜ

Trần Văn Chánh


I. VÌ SAO CÓ HIỆN TƯỢNG ÂM ĐỌC KHÔNG ỔN ĐỊNH HOẶC ĐÁNG NGỜ?
Trong thời gian học chữ Hán và sau này biên soạn một số từ điển Hán Việt, chúng tôi chú ý thấy hiện tượng phổ biến không ít chữ Hán có âm đọc không thống nhất, không ổn định, hoặc đáng ngờ, mặc dù chữ Hán từ lâu vốn đã có tiêu chuẩn phát âm bằng phương pháp phiên thiết.([1])
Nguyên nhân sâu xa có lẽ do các nhà Nho Việt Nam thời trước ít chú trọng việc nghiên cứu ngữ âm, mà chỉ quan tâm đến phần ngữ nghĩa: Đọc sao cũng được, miễn hiểu đúng nghĩa câu sách của người xưa thì thôi. Trong tất cả các loại sách học, dù thuộc văn chương hay khoa học tự nhiên, phần lớn đều chỉ chứa đựng những chữ Hán thông dụng đã có cách đọc ổn định, theo kiểu truyền từ đời nọ sang đời kia (như các chữ nhấtnhịtamnhânphuphụgiangsơnthiênđịathủykhổngmạnhtửtôn…), thầy dạy sao trò đọc vậy, chứ không có tiêu chuẩn ngữ âm nhất định. Thậm chí, trong thư tịch Hán Nôm, dường như cũng chưa thấy có nhà Nho Việt Nam nào xét nét / thẩm định cách đọc một chữ Hán cụ thể nào đó hoặc đề cập cách đọc chữ Hán theo lối phiên thiết.
Theo sự hiểu biết của chúng tôi, ở Việt Nam, mãi đến năm 1962 mới có ông Lê Ngọc Trụ (1909-1979) viết bài “Lối Đọc Chữ Hán” (khởi đầu đăng trên tạp chí Văn Hữu số 21, năm 1962; sau có đăng lại trên tập san Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, số 5, năm 1968), trình bày vấn đề một cách khá rành rọt, mà sau ông Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) có tham khảo, tóm tắt lại để hướng dẫn cho những người trẻ học chữ Hán, in trong phần phụ lục “Cách Đọc Chữ Hán” đặt phía sau quyển Tự Học Một Nhu Cầu Thời Đại của ông.
Cũng theo nhà ngữ học quá cố Lê Ngọc Trụ: “Đến như giọng đọc Hán Việt, có nhiều chữ lại không theo phiên thiết mà chỉ đọc theo nhân tuần, thói quen của tiền nhân.” ([2]) Rồi ông nêu mấy thí dụ về chữ  (nhất) [Y + TẤT thiết = ất], chữ  (tất) [BÍCH + CÁT thiết = bát], chữ  (oanh) [HÔ + HOÀNH thiết = hoanh].
Học giả Nguyễn Hiến Lê cũng nêu một ý kiến nhận xét tương tự, “Các nhà Nho thời xưa khi dạy học, không chỉ rõ ràng cách phiên âm trong các tự điển Trung Hoa, và nhiều khi ta thấy hai nhà phiên âm khác nhau, do đó cùng một chữ mà đọc hơi khác nhau.” ([3])
Trên đây là lý do chủ yếu khiến nảy sinh tình trạng cùng một chữ Hán mà lại có hai ba cách đọc khác nhau, kể cả đối với hai bộ từ điển (tự điển) Hán Việt được thông dụng lâu đời nhất của Đào Duy Anh (ĐDA, 1931) và của Thiều Chửu (TC, 1942). Cùng một chữ Hán mà từ điển ĐDA đọc khác với tự điển TC, là hiện tượng khá thường xảy ra. Chúng tôi tạm gọi đây là trường hợp những chữ Hán có âm đọc không thống nhất / không ổn định hoặc đáng ngờ.
Ở đây, tạm bỏ qua những chữ Hán đã có cách đọc ổn định mà ngày nay chúng ta cũng không cần thiết mấy phải dùng phương pháp phiên thiết để định lại âm đọc của chúng, vì làm như thế chỉ tạo thêm sự rắc rối khó xử. Chúng ta chỉ chú ý đến đối tượng những chữ Hán có âm đọc không ổn định, do khởi đầu người ta chỉ đọc theo lối suy diễn / loại suy, mà phần lớn đều dựa vào bộ phận hài thanh (tức phần thanh bàng) để đọc “mò”: Hễ thấy những chữ có thanh bàng giống nhau thì cho ra cách đọc giống nhau, không tham khảo lối đọc theo tiêu chuẩn phiên thiết.
Do đó, trên thực tế Hán Việt, nhiều trường hợp một chữ Hán lại tồn tại hai, ba lối đọc khác nhau, trong đó có một / hai âm đọc sai theo truyền thống và một âm đọc đúng nhờ vận dụng phép phiên thiết. Tiêu biểu có trường hợp chữ  bị đọc sai ảo, do loại suy từ thanh bàng  (yêu) trong những chữ có âm ao ảo ,… trong khi chữ này nếu đọc theo âm pinyin phải là /huàn/ và theo phiên thiết phải là huyễn [HỒ + BIỆN thiết, KHỨ thanh, GIẢN vận, HẠP tổ] (chữ “tổ” trong “HẠP tổ” ý nói nhóm thanh mẫu HẠP). Chữ  này TC đọc huyễn và nói ảo thuật là huyễn thuật; còn ĐDA thì nói “chữ này chính đọc là huyễn, nhưng lâu nay đọc quen là ảo” (tr. 398).
Vài thí dụ khác về sự khác biệt giữa âm đọc truyền thống và âm đọc phiên thiết:
- Cật  /chī/ (trước đọc /jī/) [CƯ + KHẤT thiết, NHẬP thanh, NGẬT vận, KIẾN tổ] (= ăn) quen đọc thành ngật. Chữ này ĐDA ghi âm “ngật”, TC ghi “cật” có cơ sở hơn.
- Liễm  /liǎn/ (= gò má, mặt) quen đọc thành kiểm (như câu thơ “Áng đào kiểm đâm bông não chúng”, trong Cung Oán Ngâm Khúc). Chữ  phải đọc “liễm” /liǎn/ [LỰC + GIẢM thiết, THƯỢNG thanh, LIÊM vận, LAI tổ]. ĐDA ghi âm “kiểm”; TC ghi cả ba âm “kiểm”, “liệm” và “thiểm”.
- Đai  /dāi/ (ĐÁI bình thanh), còn có âm “ngai” /ái/ (âm ). ĐDA đọc “ngai” (= si đần, không hoạt bát, tr. 19) thì có cơ sở; TC đọc “ngốc” (= ngây dại) thì không hiểu dựa trên cơ sở nào. ĐDA có từ ngữ “ngu ngai” ở vần NGU (tr. 39), nhưng người Việt thì chỉ quen dùng “ngu ngốc” chứ không “ngu ngai” (nói “ngu ngai” sẽ chẳng ai hiểu). Được biết, chữ này sách Ngũ Thiên Tự bản phiên âm của hai tác giả Vũ Văn Kính và Khổng Đức cũng đọc “ngốc”.([4])
- Phũ  /fǔ/ quen đọc thành hủ. Chữ  /fǔ/ [PHÙ + VŨ thiết, THƯỢNG thanh, NGU vận, PHỤNG tổ], phải đọc “phũ”, nhưng cả ĐDA và TC đều ghi âm “hủ”. Đây là một tình trạng gần như không thể sửa đổi, vì người Việt Nam đã quen nói hủ bạihủ hóahủ lạnhủ lậuhủ tụcđậu hủ..., chứ không ai nói “phũ bại”, “phũ nho”, “đậu phũ”... (mặc dù đọc “phũ” hay “phủ” thì có lý do ngữ âm hơn để giải thích tại sao lại có từ “đậu phụ” tức tàu hủ...).
- Điểu  /tiào/ (= nhảy) quen đọc thành khiêu. Chữ  /tiào/ [ĐỒ + LIỄU thiết, THƯỢNG thanh, TIỂU vận, ĐỊNH tổ] lẽ ra phải đọc “điểu” hoặc “điễu”.
- Hải giáp 海峽 (= eo biển), lẽ ra phải đọc hải hiệp /hǎixiá/, vì chữ  /xiá/ [HẦU + GIÁP thiết, âm , NHẬP thanh, HIỆP vận, HẠP tổ] đọc “hạp” hay “hiệp”. Chữ này TC ghi hai âm “hạp” và “giáp”, nhưng chú thêm “có nơi đọc là chữ giáp”. Các nhà chú giải sách cổ thời trước thường viết Vu Sơn, Vu Giáp thay vì Vu Sơn, Vu Hiệp...
- Hại hậu 邂逅 (cũng viết 邂遘邂覯邂后) /xièhòu/ (= tình cờ gặp), quen đọc thành giải cấu. Chữ  /xiè/ [HỒ + GIẢI thiết, KHỨ thanh, QUÁI vận, HẠP tổ] lẽ ra phải đọc “hại”, còn chữ  /hòu/ [HỒ + CẤU thiết, âm , KHỨ thanh, HẬU vận, HẠP tổ] đọc “hậu”. ĐDA, TC và các từ điển tiếng Việt, các sách chú giải văn học khác đều đọc “giải cấu” (như “May thay giải cấu tương phùng / Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa”, trong truyện Kiều). Nhóm Vương Lực trong Vương Lực Cổ Hán Ngữ Tự Điển (tr. 1460) cho đây là một từ “song thanh liên miên tự” (tương tự từ láy trong tiếng Việt), nên đọc “hại hậu” là có sơ sở hơn về mặt ngữ âm.
- Hồ thương 壺觴 /húshāng/ (= chén uống rượu) đọc thành hồ trường.([5]) Chữ  /shāng/ TC ghi âm “thương” nhưng có nói thêm “ta quen đọc là chữ tràng”. Ông Nguyễn Bá Trác (1881-1945) dịch thơ cổ Trung Quốc viết là “hồ trường” nên từ đó về sau người ta cứ nói theo bài thơ dịch của Nguyễn Bá Trác.([6])
- Hử  /hǔ/ (trong họ Hử; cũng có nghĩa “đồng ý, cho phép”) quen đọc thành hứa. Chữ  /hǔ/ lẽ ra phải đọc “hử” /hǔ/ [HƯ + LỮ thiết, THƯỢNG thanh, NGỮ vận, HIỂU tổ]. ĐDA chỉ ghi âm “hứa”; TC ghi cả ba âm “hử”, “hứa” và “hổ”.
- Hiệu đính 校訂 /jiàodìng/ lẽ ra phải đọc giáo đính như trong tự điển của TC và Hoa Việt Tự Điển của Khổng-Lạc-Long (Nxb Thanh Hóa, tr. 287), nhưng phổ biến đều đọc “hiệu đính” theo từ điển ĐDA. Chữ  dùng theo nghĩa “sửa, chữa” đọc “giếu” hoặc “giáo” /jiào/ [CỔ + HIẾU thiết, KHỨ thanh, HIỆU vận, KIẾN tổ]. Chữ  này cũng có âm “hiệu” /xiào/ [HỒ + GIÁO thiết, KHỨ thanh, HIỆU vận, HẠP tổ] nhưng âm “hiệu” lại chỉ chuyên dùng với nghĩa “trường học”.
- Tây Tương Ký 西廂記 /xīxiāngjì/ quen đọc thành Tây Sương Ký. Chữ  /xiāng/ [TỨC + LƯƠNG thiết, âm , BÌNH thanh, DƯƠNG vận, TÂM tổ] lẽ ra phải đọc âm “tương”. Chữ này ĐDA đọc đúng là “tương”, đến TC lại đọc thành “sương”. Hay là TC bị ảnh hưởng bởi bản dịch Tây Sương Ký của Nhượng Tống? Giáo sư Dương Quảng Hàm trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu cũng đọc Tây Sương Ký (bản in của Bộ Giáo Dục Sài Gòn, 1968, tr. 379).
Trên đây là một số thí dụ trong ngôn ngữ thông thường. Còn trong hệ thống thuật ngữ khoa học Hán Việt, chúng ta cũng thấy khá phổ biến một số trường hợp dị biệt, không thống nhất nhau, hoặc có tính bất thường trong cách phát âm. Một ít thuật ngữ cũng mượn của Trung Quốc nhưng đã bị đọc sai đi một yếu tố, như hoành cách mô (thay vì phải đọc đúng “hoành cách mạc”, như trong từ ghép “võng mạc”...). Đây cũng là trường hợp tiêu biểu có sự nhầm lẫn ban đầu trong cách phát âm. Nhưng có hiểu được do đâu âm Hán Việt bị phát âm một cách bất nhất, thậm chí đọc sai hẳn, chúng ta mới hiểu thấu được nguồn cơn tại sao một số thuật ngữ khoa học gốc Hán Việt cũng bị đặt sai ngay từ đầu, nhưng dùng riết rồi thành quen, được giới khoa học và xã hội chấp nhận.
Dưới đây là một số trường hợp cụ thể nữa liên quan đến những âm đọc bất thường trong thuật ngữ khoa học gốc Hán Việt:
- Ban mao 斑蝥 /bānmáo/ (= loài côn trùng dùng làm vị thuốc đông y, tên khoa học: Epicaula gorhami hoặc Mylabris phalerata) quen đọc thành ban miêu. Chữ  /máo/ [MẠC + GIAO thiết, âm , BÌNH thanh, HÀO vận, MINH tổ], phải đọc “mao”. ĐDA ghi âm “mâu”; TC cũng ghi âm “mâu” nhưng có thêm âm “mao” cho trường hợp “ban mao”. Các thầy thuốc bắc chỉ quen nói “ban miêu”.
- Biên bức 蝙蝠 /biānfú/ (= con dơi), có chỗ còn đọc “biển bức”, lẽ ra phải đọc biên phúc. Chữ  /fú/ đọc “phúc”, nhưng ĐDA và TC đều đọc “bức”, do chọn âm theo những chữ  /bó/ [BỈ + TRẮC thiết, NHẬP thanh, CHỨC vận, BANG tổ],  /bī/ [BỈ + TRẮC thiết, âm , NHẬP thanh, CHỨC vận, BANG tổ],  /bī/ đều có phần hài thanh giống chữ . Riêng chữ  còn có một âm đọc “phúc” /fú/ [PHƯƠNG + LỤC thiết, NHẬP thanh, ỐC vận, PHI tổ] trong từ Phúc Dương   (tên nước thời cổ).
Chú giải: Chữ  cũng có âm “phúc” /fú/ [PHƯƠNG + LỤC thiết, âm , NHẬP thanh, ỐC vận, PHI tổ] theo nghĩa là “khổ rộng của vải” (“bố bạch đích khoan độ”). ĐDA lại đọc “bức” cho nghĩa “khổ vải”, TC đọc “phúc” /fú/ cho nghĩa “khổ vải” và đọc “bức” /bī/ cho nghĩa “vải trói chân” (bảng thối bố), nhưng có nói thêm “ta quen đọc là chữ bức cả”.
- Tri tru 蜘蛛 /zhīzhū/ (= con nhện), quen đọc thành tri thù, trong khi chữ  [TRẮC + LUÂN thiết, BÌNH thanh, NGU vận, TRI tổ] phải đọc âm “tru”. Vả lại 蜘蛛 (tri tru) là hai chữ song thanh, nên không thể đọc “thù”. Tự điển TC ghi cả hai âm “chu” và “thù”, vì đọc theo giọng Bắc nên không phân biệt phụ âm đầu ch và tr; còn ĐDA chỉ ghi âm “thù” là hoàn toàn theo thói quen (do nhận dạng phần hài thanh giống với những chữ “thù” khác như ...).
- Bức xạ 輻射 /fúshè/ (HXH tr. 151, LKK, TĐVP, tr. 114…), lẽ ra phải đọc phúc xạ. Chữ  /fú/ [PHƯƠNG + LỤC thiết, âm , NHẬP thanh, ỐC vận, BANG tổ], TC đọc “phúc” nhưng có chú thêm “ta quen đọc là chữ bức”, còn ĐDA lại không có chữ  này.
- Cát cánh 桔梗, phải đọc kiết cảnh vì chữ  đọc “kiết” /jié/ [CỔ + TIẾT thiết, NHẬP thanh, TIẾT vận, KIẾN tổ]; chữ  đọc âm “cảnh” /gěng/ [CỔ + HẠNH thiết, THƯỢNG thanh, CẢNH vận, KIẾN tổ]. Chữ , cả ĐDA lẫn TC đều đọc âm “ngạnh”, như vậy lẽ ra đến từ ghép 桔梗 phải đọc “kết ngạnh”, nhưng ĐDA lại đọc “cát cánh”, còn TC đọc “kết cánh”. Ở đây quả là có một tình trạng lộn xộn phức tạp về âm đọc!
- Dịch hoàn 睾丸 (ĐVT, tr. 96; LKK, TĐVPtesticule, tr. 287) lẽ ra phải đọc cao hoàn /gāowán/, vì chữ “cao” /gāo/ bị đọc nhầm thành “dịch”  /yì/ , hai chữ có tự dạng gần y như nhau (cả hai chữ đều thuộc bộ  (mục), nhưng  (cao) có thêm một dấu phẩy ở góc trên phía trái).
- Điền thanh 田菁 (VVC: Sesbania, tr. 2263) là cây so đũa, cây điền thanh, lẽ ra phải đọc điền tinh 田菁 /tiánjīng/, vì chữ  /jīng/ [TỬ + DOANH (DINH) thiết, âm , BÌNH thanh, THANH (THINH) vận, TINH tổ] bị đọc nhầm thành “thanh”  /qīng/ (do có thanh bàng ). Riêng chữ  cũng có âm “thanh / thinh” /qīng/ [THƯƠNG + KINH thiết, âm, BÌNH thanh, THANH (THINH) vận, THANH tổ] nhưng khi đọc theo âm này thì có nghĩa không liên quan gì đến cây cỏ.
- Giao thoa 交叉, lẽ ra phải đọc giao xoa /jiāochā/, vì chữ  /chā/ [SƠ + NHA thiết, BÌNH thanh, MA vận, XUYÊN nhị tổ] bị đọc nhầm thành “thoa”. Chữ này TC đọc “xoa”; ĐDA không có chữ  nhưng lại có mục từ “giao thoa” với chữ “thoa” viết . Đến nay các sách khoa học đều quen dùng “giao thoa”.
- Hoành cách mô (ĐVT, tr. 27; LKK, TĐVPdiaphragme, tr. 485) và Võng mạc (LKK, TĐPVrétine, tr. 1155; ĐVT, tr. 85 đọc “võng mô”). Hai chữ “mô” trong “hoành cách mô” 橫膈膜 và chữ “mạc” trong “võng mạc” 網膜 (Trung Quốc gọi “thị võng mạc”) đều viết “mạc”  (nghĩa là màng...), nên phải nói hoành cách mạc mới đúng (từ “hoành cách mô” nay ít dùng, đã thay bằng từ “cơ hoành”). Chữ  tuy vẫn có hai âm “mô” /mó/ [MẠC + HỒ thiết, BÌNH thanh, MÔ vận, MINH tổ] và “mạc” /mó/ [MỘ + CÁC thiết, NHẬP thanh, ĐẠC vận, MINH tổ], ký âm pinyin giống nhau, nhưng “mô” chỉ dùng trong từ ghép “mô bái” nghĩa là “quỳ dài mà lạy”. TC chỉ ghi âm “mô”, nhưng ĐDA ghi phân biệt hai âm “mô” và “mạc” với hai nghĩa khác nhau và cũng gọi đúng “hoành cách mạc” (quyển I, tr. 378).
- Hối suất 匯率, phải đọc hội suất, vì chữ  có âm phiên thiết là HỒ + TỘI thiết, THƯỢNG thanh, HỐI vận, HẠP tổ (đọc thật đúng phải là “hỗi”, vì thuộc THƯỢNG thanh).
- Hồng đồng 珙桐 (VVC: Davidia involucrata, tr. 897) là cây hồng đồng, cây hoa lệch, lẽ ra phải đọc củng đồng /gǒngtóng/, do đọc nhầm chữ “củng”  /gǒng/ [CƯ + TỦNG thiết, THƯỢNG thanh, CHỦNG vận, KIẾN tổ] thành chữ “hồng”  (có phần hài thanh / thanh bàng tương tự là ). Chữ  (củng) có trong từ điển ĐDA, nhưng lại không có trong TC.
- Hương thung 椿 (LKK, TĐTVHPV: cèdre rouge-Cedra toona, tr. 43) dịch là cây hương thung đỏ, lẽ ra phải nói hương xuân đỏ, vì cây này có tên chữ Hán là hồng xuân 紅椿 /hóngchūn/, và đã đọc nhầm chữ “xuân” 椿 /chūn/ thành chữ “thung”  /chōng/, hai chữ có tự dạng gần giống hệt nhau.
- Lạc huyết 咯血 /kǎxiě/ (= chứng khạc ra máu), lẽ ra phải đọc khách huyết, vì chữ  đọc âm “khách” /kǎ/ chứ không đọc âm “lạc”. TC ghi âm “lạc” cho nghĩa “cãi lẽ” và âm “khách” cho mục “khách huyết” với nghĩa “khạc ra máu” là chính xác, nhưng trong dân gian và cả một số từ điển đông y học lại quen nói “lạc huyết”.([7])
- Lệ dương 列當 (Vũ Văn Chuyên, Tóm Tắt Đặc Điểm Các Họ Cây ThuốcOrobanchaceae, tr. 132, Sách Đỏ Việt Nam, Phần thực vật: OrobanchaceaeAeginetia indica, tr. 301) dịch là họ Lệ dương, cây lệ dương, lẽ ra phải nói là họ Liệt đương, cây liệt đương (còn có những tên khác: dã cô, tai đất ấn), vì gốc chữ Hán viết 列當, do đọc nhầm chữ “liệt”  thành chữ “lệ”  (hai chữ có tự dạng gần giống nhau), và đọc / viết nhầm “đương”  thành “dương”.
- Liên cầu khuẩn 鏈球菌 (LKK, TĐVPstreptocoque), lẽ ra phải đọc luyện cầu khuẩn /liànqiújūn/, vì chữ  /lián/ [LỰC + DUYÊN thiết, BÌNH thanh, TIÊN vận, LAI tổ] đọc âm “luyện”. Chữ này Hán ngữ hiện đại đã đổi thành âm /liàn/, đọc như các chữ  /liàn/,  /liàn/.
- Mao lương 毛艮 (Vũ Văn Chuyên, Tóm Tắt Đặc Điểm Các Họ Cây ThuốcRanunculaceae, tr. 155; Sách Đỏ Việt Nam, Phần thực vật: Ranunculaceae, tr. 307) dịch là họ Mao lương (tất cả các sách thực vật học khác đều lấy theo tên này), lẽ ra phải nói họ Mao cấn, vì gốc chữ Hán viết   /máogèn/, do đọc nhầm chữ “cấn”  /gèn/ thành “lương”  /làng, liáng/ (TC đọc “lang”), hai chữ có tự dạng gần giống nhau. Điều đáng tiếc là thuật ngữ mao cấn đã từng được dùng đúng từ năm 1950 trong Danh Từ Khoa Học - Vạn Vật Học của Đào Văn Tiến (tr. 85), nhưng những nhà khoa học hậu bối đã không nhận biết để dùng theo, mà lại đổi mao cấn thành mao lương!
- Phân bí 分泌, chữ  có ba âm “tất” /bì/ [TÌ + TẤT thiết], “bất” hoặc “tất” /bì/ [BỈ + MẬT thiết, NHẬP thanh] và “mật” /mì/ (âm ) (không có âm nào đọc “bí”), nhưng trong trường hợp phân bí (nghĩa là tiết ra) thì phải đọc  là “mật” /mì/ thành phân mật /fēnmì/. Nói “phân bí” là do nhầm chữ  với một số chữ khác có bộ phận hài thanh tương tự, như  …
- Phiền lộ (LKK, TĐTVHPV, tr. 120: mouron des champs - Anagallis arvensis), chữ Hán viết 繁縷 /fánlǚ/ nên phải đọc phiền lũ.
- Thích  (Vũ Văn Chuyên, Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốcAceraceae, tr. 6; VVC: Aceraceae, tr. 170) chỉ thực vật họ Thích (Aceraceae), giống cây thích hay cây phong (Acer), lẽ ra phải nói họ Túc, cây túc, vì chữ Hán viết 槭樹科槭樹 (Túc thụ khoa túc thụ) nên  phải đọc âm “túc”. Nhầm lẫn là do chữ  có bộ phận chỉ âm bên phải giống những chữ “thích” khác như . TC ghi âm pinyin là /zú/ đọc “túc” và dịch là “cây túc”; Hán Ngữ Đại Tự Điển ghi âm /qī/ và /zú/, đọc theo phiên thiết là TỬ + LỤC thiết, NHẬP thanh, ỐC vận, TINH tổ; Tân Thời Đại Hán Anh Đại Từ Điển ghi âm /qì/. Các nhà thực vật học và làm từ điển ở Việt Nam khi gặp chữ maple trong tiếng Anh hay érable trong tiếng Pháp (tên khoa học: Acer) đều dịch “cây thích” là do nhận lầm mặt chữ.([8])
- Thoát giang 脫肛 (= bệnh sa hậu môn / lòi dom), lẽ ra phải đọc thoát cang /tuōgāng/, vì chữ  /gāng/ [CỔ + SONG thiết, BÌNH thanh, GIANG vận, KIẾN tổ] đọc “cang” (tương tự những chữ “cang” khác, như ...). Chữ này TC ghi âm “giang” nhưng có chú thêm “ta quen đọc là chữ xoang cả”; ĐDA cũng ghi âm “giang” (quyển I, tr. 326) và có mục từ “thoát giang” (quyển II, tr. 423). Từ này vẫn còn tồn tại trong nhiều từ điển để chỉ bệnh sa hậu môn.([9])
- Thải khoản 貸款 (= khoản vay / cho vay), lẽ ra phải đọc thái khoản /dàikuǎn/, vì chữ  /dài/ [THA + ĐẠI thiết, KHỨ thanh, ĐẠI vận, THẤU tổ] đọc “thái” (KHỨ thanh). Cả ĐDA lẫn TC đều ghi âm “thải”. Tương tự, người ta quen nói “tín thải” thay vì “tín thái”...
- Thẩm thấu 滲透, lẽ ra phải đọc sấm thấu /shèntòu/, vì  /shèn/ [SỞ + CẤM thiết, KHỨ thanh, THẤM vận, THẨM nhị tổ] đọc “sấm” như TC là đúng; ĐDA đọc “sâm” thiếu cơ sở hơn. Gọi “thẩm thấu”, rất có thể lần đầu tiên là do HXH trong Danh Từ Khoa Học (ở mục từ osmotique, tr. 128).
-Trật đả 跌打 (= té ngã), lẽ ra phải đọc điệt đả. Chữ  /diē/ [ĐỒ + HIỆT thiết, NHẬP thanh, TIẾT vận, ĐỊNH tổ], TC và ĐDA đều ghi âm “điệt”, nhưng ở TC nói thêm “ta quen đọc là chữ trật”. Các sách đông y đều nói “trật đả”, “trật đả cốt khoa” (khoa chữa trặc gãy xương), “trật đả hiếp thống” (sườn đau do té ngã), “trật đả tổn thương” (tổn thương do té ngã)... có lẽ dùng theo âm đã đọc quen chứ không dựa trên cơ sở ngữ âm.([10])
-Trung khu 中樞, lẽ ra phải đọc trung xu, vì chữ  /shū/ [XƯƠNG + CHU thiết, BÌNH thanh, NGU vận, XUYÊN tam tổ] đọc “xu” như trong TC là đã đúng; ĐDA cũng ghi âm “xu” trong “xu mật viện” (tr. 578), nhưng đến từ ghép 中樞 lại đọc thành “trung khu” (tr. 507). Hầu hết các từ điển khác về sau đều ghi theo “trung khu” (như LKK, TĐVP, tr. 1084, Đại Từ Điển Tiếng Việt, tr. 1729). Tương tự, người ta cũng quen nói khu mật viện (Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, tập II, tr. 537) thay vì xu mật viện, trung khu thần kinh thay vì trung xu thần kinh (xem LKK, TĐVP, tr. 1084).
Vi khuẩn 微菌 là một từ Hán Việt (= tế khuẩn 細菌bactérie), trong đó chữ  /jūn/ hoặc /jùn/ đọc âm “khuẩn” [CỪ + VẪN thiết, THƯỢNG thanh, TRÂN vận, QUẦN tổ], nhưng chữ đồng nghĩa với nó là  /xùn/ [TỪ + NHẪM thiết, THƯỢNG thanh, TẨM vận, TÙNG tổ], phải đọc tẩm, không hiểu sao tất cả các từ điển đều đọc “khuẩn” (cùng nghĩa với  nghĩa là nấm). Chữ  còn có một âm khác nữa là “đàm” /tán/ [ĐỒ + NAM thiết, âm , BÌNH thanh, ĐÀM vận, ĐỊNH tổ].
- Yết hầu 咽喉, lẽ ra phải đọc yên hầu, vì chữ  /yān/ [Ô + TIỀN thiết, âm , BÌNH thanh, TIÊN vận, ẢNH tổ] đọc “yên”. Chữ  TC còn ghi thêm hai âm “yến” và “ế”; ĐDA chỉ ghi một âm “yết”.
II. THẨM ĐỊNH MỘT SỐ CHỮ HÁN CÓ ÂM ĐỌC KHÔNG ỔN ĐỊNH HOẶC ĐÁNG NGỜ
Thông thường, có một quy luật chuyển âm tương đối nhất quán giữa âm đọc Hán Việt và âm Bắc Kinh (âm pinyin), như những chữ Hán có âm khởi đầu là nguyên âm a (a, á, ách, ai, ai, ái, am, ảm, ám, an, áng…) thì khi chuyển qua âm Bắc Kinh cũng đọc bằng nguyên âm /a/ hoặc /e/; những chữ Hán có phụ âm đầu là c như cô, cổ, cốc, côi… khi chuyển qua âm Bắc Kinh phần lớn được ký âm bằng /g/… Như vậy, khi xem bảng tra chữ Hán theo âm Hán Việt trong tự điển TC chẳng hạn, ta thấy một dãy liệt kê liên tiếp từ trên xuống những chữ đồng âm dị tự vần C, với âm pinyin đều khởi đầu bằng /g/, nhưng nếu chen vào giữa có một, hai chữ khởi đầu âm pinyin bằng /h/ hoặc /j/ thì ta nên nghi ngờ âm đọc của những chữ Hán này là “có vấn đề”, thuộc trường hợp cần phải xét lại.
Thí dụ trong dãy liên tục chữ CẢO 稿, đều phiên âm /gǎo/, riêng chỉ có hai chữ  và  lại phiên âm /hào/ thì âm CẢO của hai chữ  và  cần phải thẩm định lại. Hai chữ này, từ điển TC ngoài âm CẢO còn có ghi thêm âm HẠO, nhưng âm HẠO mới gần với âm phiên thiết hơn [HẠ + LÃO thiết, THƯỢNG thanh, HẠO vận, HẠP tổ; đọc đúng là “hão”], còn CẢO chỉ là cách đọc sai theo thói quen truyền thống, vốn được suy đoán dựa theo phần thiên bàng  của những chữ CẢO 稿 khác.
Ưu điểm của tự điển TC ở chỗ về phương diện ngữ âm, ngoài ghi âm chính (“hạo”) soạn giả còn ghi phụ thêm âm quen đọc.
Tương tự như vậy, chữ  TC và ĐDA đều đọc CÁP (không có âm đọc nào khác, với từ trùng điệp “cáp cáp” nghĩa là [cười] hầng hậc, khanh khách, khách khách), nhưng âm pinyin đọc /hā/ thì rõ ràng phải đọc HA mới phù hợp…
Về thanh điệu (giọng), tiếng phổ thông Trung Quốc ghi bằng âm pinyin có bốn thanh:
- Thanh thứ nhất (thanh ÂM), ký hiệu bằng dấu - đặt trên vần cái (thí dụ: /ā/), thường cho ra một âm Hán Việt cũng đọc thanh ngang (thanh BẰNG / BÌNH, không dấu), như /biān/ cho ra biên… (nếu thấy tự điển đọc biền, biển, biến thì phải nghi có thể sai).
- Thanh thứ hai (thanh DƯƠNG), ký hiệu bằng dấu ´ đặt trên vần cái (thí dụ: /á/), thường cho ra một âm Hán Việt đọc thanh BẰNG / BÌNH, dấu HUYỀN, như /chén/ cho ra trần… (nếu thấy tự điển đọc trận thì phải nghi có thể sai).
- Thanh thứ ba (thanh THƯỢNG), ký hiệu bằng dấu ˇ đặt trên vần cái (thí dụ: /ǎ/), thường cho ra một âm Hán Việt đọc thanh THƯỢNG, dấu HỎI hoặc NGÃ, như /biǎn/ cho ra biển, /wǒ/ cho ra ngã… (nếu thấy tự điển đọc biênngạ thì phải nghi có thể sai).
- Thanh thứ tư (thanh KHỨ), ký hiệu bằng dấu ` đặt trên vần cái (thí dụ: /à/), thường cho ra một âm Hán Việt đọc thanh KHỨ, dấu SẮC hoặc NẶNG, như /biàn/ cho ra biếnbiện… (nếu thấy tự điển đọc biênbiền thì phải nghi có thể sai).
Nắm vững nguyên âm, phụ âm đầu và thanh điệu trong ký âm pinyin là phương pháp thực tiễn giản đơn giúp ta có ấn tượng đầu tiên về một chữ Hán đã được phát âm đúng hay sai ghi trong các từ (tự) điển Hán Việt.
Dưới đây là bảng liệt kê một số chữ Hán có âm đọc không ổn định hoặc đáng ngờ. Loại chữ dạng này có thể lên đến số hàng trăm, nhưng đây chỉ chọn kê ra mỗi vần một chữ tiêu biểu, từ A đến X. Về âm đọc của chúng, chúng tôi căn cứ chủ yếu vào từ (tự) điển ĐDA và TC, rồi so sánh với âm đáng lẽ phải đọc (âm phiên thiết), qua đó cho thấy loại chữ này nếu có âm khác nhau giữa các từ (tự) điển thì có lẽ chúng ta nên dựa theo phép phiên thiết để quyết định chỉ một âm tiêu chuẩn. Riêng những chữ có tính phổ thông, dễ biết và đã quá quen dùng từ xưa thì giờ đây có lẽ cũng không nên can thiệp xét lại cách đọc làm gì, trừ khi có nhu cầu khảo cứu sâu hơn về từ nguyên tiếng Việt địa phương hoặc tiếng Việt cổ.
Trong bảng, về âm phiên thiết, chúng tôi căn cứ chủ yếu vào Vương Lực Cổ Hán Ngữ Tự Điển do Trung Hoa Thư Cục xuất bản lần thứ nhất, năm 2000. (Ký hiệu Æ nghĩa là không có.)
Chữ Hán
Thiều Chửu
Đào
Duy Anh
Chú âm theo
Vương Lực Cổ Hán Ngữ Tự Điển
Âm quyết định
ách /yì/
Æ
Y+TÍCH thiết, âm , NHẬP thanh, TÍCH vận, ẢNH tổ
ích
bạc /báo/
Æ
BẠC+GIAO thiết, âm , BÌNH thanh, HÀO vận, TỊNH tổ
bào
cao /áo/
Æ
NGŨ+LAO thiết, BÌNH thanh, HÀO vận, NGHI tổ
ngào (âm phụ: cao)
du /tiáo/ (trước đọc /yóu/)
Æ
ĐIỀN+LIỄU thiết, BÌNH thanh, TIÊU vận, ĐỊNH tổ
điều
điến /miǎn/
Æ
âm 
miễn
ế /yē/
Æ
Ô+KẾT thiết, NHẬP thanh, TIẾTvận, ẢNH tổ
yết
giản /xián/
Æ
HỘ+NHÀN thiết, BÌNH thanh, SAN vận, HẠP tổ
hàn (âm phụ: giản)
hĩnh /jǐng/
Æ
CỔ+ĐĨNH thiết, THƯỢNG thanh, QUÝNH vận, KIẾN tổ
kỉnh
khỏa /huǒ/
Æ
HỒ+QUẢ thiết, THƯỢNG thanh, QUẢ vận, HẠP tổ
hỏa
lệ /dì/
đệ
ĐẶC+KẾ thiết, KHỨ thanh, TỄ vận, ĐỊNH tổ
đệ
mạc /mì/
mịch
MẠC+ĐỊCH thiết, âm , NHẬP thanh, TÍCH vận, MINH tổ
mịch
ngại /hé/
Æ
HỘT+TẮC thiết, âm , NHẬP thanh, ĐỨC [ĐẮC] vận, HẠP tổ
hặc
nhu /náo/
nao
NÔ+ĐAO thiết,  BÌNH thanh, HÀO vận, NÊ tổ
nao
oa /guō/
oa
CỔ+HÒA thiết,  BÌNH thanh, QUA vận, KIẾN tổ
qua
phách /pī/
phách
PHỔ+KÍCH thiết, NHẬP thanh, TÍCH vận, BÀNG tổ
phích
quyên /yuān/
Æ
Ô+HUYỀN thiết, BÌNH thanh, âm , TIÊN vận, ẢNH tổ
uyên
sai /cāi/
xai
THƯƠNG+TÀI thiết, BÌNH thanh, ĐÀI vận, THANH tổ
thai
tỉ, tài /zī/
Æ
TỬ+CHI thiết, BÌNH thanh, CHI vận, TINH tổ
ti
thu /jiū/
Æ
TỨC + VƯU thiết,  bình thanh
tưu
倀
trành /chāng/
trành, xương
TRỬ + DƯƠNG thiết, BÌNH thanh, DƯƠNG vận, TRIỆT tổ
trương
uế /huì/
Æ
HỬ + UẾ thiết, KHỨ thanh, PHẾ vận, HIỂU tổ
huế (âm phụ: uế)
vi /wěi/
vi, vĩ
VU + QUỶ thiết, THƯỢNG thanh, VĨ vận, DỤ tam tổ
xúc /chuò/
Æ
SỨC + GIÁC thiết, NHẬP thanh, GIÁC vận, XUYÊN nhị tổ
sác
III. XỬ LÝ VẤN ĐỀ ÂM ĐỌC BẤT NHẤT TRONG TỪ NGỮ GỐC HÁN
Qua một số cứ liệu dẫn chứng và phân tích cụ thể như trên, chúng ta thấy, có những chữ Hán đã bị đọc sai âm Hán Việt ngay từ đầu, rồi người khác dùng sai theo (ông Lê Ngọc Trụ gọi là “nhân tuần”), do người đọc đầu tiên chỉ “suy đoán” ra một âm nào đó dựa theo những chữ khác có yếu tố hài thanh (tức thanh bàng) tương tự, như thấy chữ  (túc) thì cứ đọc “thích” theo những chữ có âm “thích” khác như  ... Phần còn lại là do hiện tượng chữ tác  đánh thành chữ tộ , tức nhận lầm mặt chữ, như chữ (cao) trong “cao hoàn” 睾丸 bị nhận lầm thành chữ  (dịch) nên mới đặt ra từ “dịch hoàn” để chỉ tinh hoàn hay hòn dái (từ “dịch hoàn” hiện đã ít dùng).
Đến thời kỳ cận-hiện đại, coi như sau giai đoạn từ điển ĐDA ra đời (1931), cách nay khoảng hơn tám mươi năm, thuật ngữ khoa học đều do các nhà tân học đặt. Họ phần lớn có thể giỏi về chuyên môn và có biết chữ Hán ít nhiều, nhưng cũng do óc thực tế, lại không quan tâm mấy đến phần ngữ âm, mà chỉ tham khảo chủ yếu cách đọc ở hai bộ từ (tự) điển Hán Việt của Đào Duy Anh (1931) và của Thiều Chửu (1942). Tuy nhiên, hai bộ từ điển này, tuy đã có công rất lớn đối với việc học tập chữ Hán của hậu thế, nhưng vẫn còn một số mặt hạn chế, đặc biệt về phương diện ngữ âm. Cùng một chữ Hán mà từ điển ĐDA đọc khác với tự điển TC, là hiện tượng khá thường xảy ra. Trong trường hợp có mâu thuẫn này, thiết nghĩ có thể dùng phương pháp phiên thiết để quyết định một âm chuẩn duy nhất (như bảng liệt kê ở mục II đã thử làm), nếu không sẽ tiếp tục để xảy ra thêm tình trạng lộn xộn về sau.
Khi nêu ra một số trường hợp nhầm lẫn cụ thể để dẫn chứng cho vấn đề đang xét, chúng tôi hoàn toàn không có ý hạ thấp công lao biên soạn từ (tự) điển hoặc chế định thuật ngữ của những người đi trước. Một số nhầm lẫn nếu có thì xét cho cùng cũng vô hại cho khoa học, vì bản chất của ngôn ngữ là tính quy ước xã hội được mọi người chấp nhận, nên một thuật ngữ dù có vỏ ngữ âm sai vẫn có thể được người ta hiểu đúng ý nghĩa của nó về phương diện nội dung mà thuật ngữ muốn diễn tả. Chúng tôi cũng không có ý đề nghị từ nay trở đi phải đổi những thuật ngữ đã dùng quen như “bức xạ” thành “phúc xạ”, “trung khu” thành “trung xu”... mặc dù biết đọc “phúc xạ”, “trung xu” thì chắc chắn có cơ sở khoa học hơn, mà chỉ muốn nêu lên một ít thực tế chệch choạc tương đối phổ biến trong việc định âm Hán Việt của chữ Hán cũng như trong việc xây dựng thuật ngữ gốc Hán, nhằm rút kinh nghiệm cho những công việc hữu quan về sau được tốt hơn.
TRẦN VĂN CHÁNH
18-4-2015
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN VÀ MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT
ĐDA: Đào Duy Anh, Hán Việt Từ ĐiểnParis: Nxb Minh Tân, 1949.
ĐVT: Đào Văn Tiến, Danh Từ Khoa Học - Vạn Vật Học, Paris: Nxb Minh Tân, 1950.
HXH: Hoàng Xuân Hãn, Danh Từ Khoa Học (Toán, Lý, Hóa, Cơ, Thiên Văn). Paris: Nxb Minh Tân, 1955.
LKK: Lê Khả Kế.
TC: Thiều Chửu, Hán Việt Tự Điển. Hà Nội: Đuốc Tuệ, 1942.
TĐVP: Lê Khả Kế, Nguyễn Lân, Từ Điển Việt-Pháp. Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, in lần thứ tư, 1997.
TĐTVHPV: Lê Khả Kế, Từ Điển Thực Vật Học Pháp-Việt. Hà Nội: Nxb Khoa Học Và Kỹ Thuật, 1978.
VVC: Võ Văn Chi, Từ Điển Thực Vật Thông Dụng, tập I và II. Hà Nội: Nxb Khoa Học Và Kỹ Thuật, 2003-2004.
Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn Gốc Và Quá Trình Hình Thành Cách Đọc Hán Việt. Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1979.
Trần Văn Chánh, “Từ Cách Đọc Chữ Hán, Bàn Về Một Số Nhầm Lẫn Khi Đặt Thuật Ngữ Gốc Hán”, tạp chí Nghiên Cứu Và Phát Triển, số 4 (81), 2010.
Trần Văn Chánh, “Đọc Chữ Hán Bằng Phương Pháp Phiên Thiết”, đặc san Suối Nguồn, tập 1, tháng 5-2011.
Nguyễn Hiến Lê, Tự Học Một Nhu Cầu Thời Đại. Sài Gòn: Nxb Thanh Tân, 1967.
Vương Lực, Vương Lực Cổ Hán Ngữ Tự Điển 王力古漢語字典. Bắc Kinh: Trung Hoa Thư Cục, 2000.
Lê Ngọc Trụ, “Lối Đọc Chữ Hán”, tập san Đại Học Văn Khoa, số 5. Sài Gòn: Tháng 2-1968.




([1]) Về cách đọc phiên thiết, nếu chưa biết, có thể xem Trần Văn Chánh, “Mấy Điều Tế Nhị Trong Cách Đọc Chữ Hán, in trong Đại Đạo Văn Uyển tập Hanh năm Quý Tỵ (Quý Hai 2013), tr. 173.
([2]) Tập san Đại Học Văn Khoa, số 5. Sài Gòn: tháng 2-1968, tr. 142.
([3]) Tự Học Một Nhu Cầu Thời Đại. Sài Gòn: Nxb Thanh Tân, 1967, tr. 216.
([4]) Ngũ Thiên Tự. Nxb Văn Hóa - Thông Tin, 1997, tr. 35.
([5]) Bài Dâng Trà trong Cao Đài có câu: Đông độ thanh trà mỹ vị hương / Khấu đầu cung hiến chước hồ trường. Nếu hiểu hồ trường là chén uống rượu thì không thích hợp; do đó phải giải thích hồ trường là hồ trà  (nước trà đựng trong bình), nhưng đọc trại trà ra trường cho ăn vần với chữ hương ở câu trên. [Văn Uyển chú]
([6]) Hai câu thơ dịch nổi tiếng của Nguyễn Bá Trác như sau: Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ trường. / Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu? [Văn Uyển chú]
([7]) Trần Thúy, Vũ Nam, Sách Chuyên Khảo Danh Pháp Y Học Cổ Truyền. Hà Nội: Nxb Y Học, 2003, tr. 173.
Nguyễn Công Đức, Thuật Ngữ Đông Y. Nxb Thanh Niên, 2010, tr. 195.
([8]) Xem Từ Điển Anh Việt. Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1993, tr. 1026; LKK, TĐTVHPV, tr. 72...).
([9]) Như: LKK, TĐVP, tr. 983; Thanh Nghị, Việt Nam Tân Từ Điển, 1958, tr. 1327; Từ Điển Việt Nam Phổ Thông, 1951, tr. 590; Đại Từ Điển Tiếng Việt, 1999, tr. 1579...; Sách Chuyên Khảo Danh Pháp Y Học Cổ Truyền, sđd., tr. 363; Thuật Ngữ Đông Y, sđd., tr. 368.
([10]) Xem Thuật Ngữ Đông Y, sđd., tr. 408.

Nguồn: blogspot đại đạo văn uyển
----
CÁCH ĐỌC CHỮ HÁN

1. THANH NÀO CỦA TRUNG HOA PHÙ HỢP VỚI NHỮNG THANH NÀO CỦA TA
Trước hết bạn nên nhớ những thanh nào của Trung Hoa phù hợp với những thanh nào của ta
Trung Hoa có bốn thanh: bình, thượng, khứ, nhập. Mỗi thanh lại có hai bực bổng và trầm.
Bình thanh bực bổng phù hợp với giọng ngang của ta (như tiên)
trầm phù hợp với giọng huyền của ta (như tiền)
Thượng thanh bực bổng phù hợp với giọng hỏi của ta (như tiển)
trầm phù hợp với giọng hỏi của ta (như tiễn)
Khứ thanh bực bổng phù hợp với giọng sắc của ta (như tiến)
trầm phù hợp với giọng nặng của ta (như tiện)
Nhập thanh bực bổng phù hợp với giọng sắc của ta (như tiếc)
trầm phù hợp với giọng nặng của ta trong những tiếng có c, ch, p, t ở cuối (như tiệc)
Vậy bực bổng có: ngang, hỏi, sắc.
bực trầm có: huyền, ngã, nặng.

2. RỒI BẠN PHẢI NHỚ QUI TẮC NÀY
Tiếng trước cho âm khởi đầu và định bực của thanh (bổng hay trầm).
Tiếng sau cho vận và định loại thanh (bình, thượng, khứ hay nhập).

a) Chữ 仙
Khang Hi tự điển chua: tương + nhiên
Từ Nguyên và Từ Hải chua: tức + nhiên.
Ta áp dụng quy tắc trên vào Khang Hi tự điển:
Tiếng trước, tức tiếng tương cho ta:
- âm khởi đầu à t.
- bực bổng (coi lại điều 1 ở trên).
Tiếng sau, tức tiếng nhiên cho ta:
- Vận là iên
- Loại thanh là bình
Vậy chữ 仙 phải có âm khởi đầu là t, vận là iên, thanh bình, bực bổng, (tức là giọng ngang của ta), và ta phải đọc là tiên.


Ta áp dụng qui tắc vào Từ Nguyên và Từ Hải
Tiếng trước, tiếng tức cho ta:
- âm khởi đầu là t
- bực bổng.
Tiếng sau, tiếng nhiên cho ta:
- vận là iên.
- Loại thanh là bình.


Kết quả là: âm khởi đầu là t, vận iên, thanh bình, bực bổng, vậy cũng đọc là tiên.


b) Chữ 見
Khang Hi tự điển chua: cổ + điện
Từ Nguyên và Từ Hải chua: tức + nhiên.
Ta áp dụng quy tắc trên vào Khang Hi tự điển:
Tiếng trước cổ cho ta âm khởi đầu à c và bực bổng.
Tiếng sau điện cho ta vận iên và thanh khứ (coi lại điều 1).
Rốt cuộc ta có: c + iên, khứ thanh, bực bổng (giọng sắc): kiến.
Lại áp dụng vào Từ Nguyên và Từ Hải:
Tiếng trước ký, cho ta âm khởi đầu à k và bực bổng.
Tiếng sau yến cho ta vận iên và thanh khứ.
Rốt cuộc ta có: k + iên, khứ thanh, bực bổng (giọng sắc): kiến.


c) Chữ 健
Khang Hi tự điển chua: cừ + kiến
Từ Nguyên và Từ Hải chua: kỵ + yến.
Cũng theo cách trên, Khang Hi tự điển cho ta:
c + iên, bực trầm (bực của cừ) và thanh khứ (thanh của kiến) và phải đọc là kiện
Còn theo Từ Nguyên và Từ Hải thì là:
k + iên, bực trầm (bực của kỵ) và thanh khứ (thanh của yến), vậy phải đọc là: kiện


d) Chữ 本
Khang Hi tự điển chua: bố + thổn
Từ Nguyên và Từ Hải chua: bố + ổn.
Khang Hi tự điển cho:
b + ôn, bực bổng (bực của bố), thanh thượng (thanh của thổn), và ta phải đọc là bổn.
Còn Từ Nguyên và Từ Hải cho:
b + ôn, bực bổng (bậc của bổ), thanh thượng (thanh của ổn), và ta cũng đọc là bổn.


e) Chữ 末
Khang Hi tự điển chua: mạc + bát
Từ Nguyên và Từ Hải chua: mộ + hoạt (hạt vận = vần hạt) .
Vậy theo Khang Hi, ta có:
m + át, bực trầm (bực của mạc), thanh nhập (vì bát có t ở cuối), và ta phải đọc là mạt (nhập thanh, trầm).


3. KHỞI ĐẦU BẰNG NGUYÊN ÂM THÌ TA TRA CŨNG KHỞI ĐẦU BẰNG NGUYÊN ÂM
Nếu tiếng trước để phiên thiết khởi đầu bằng nguyên âm thì ta tra cũng khởi đầu bằng nguyên âm.
Đây chỉ là một trường hợp đặc biệt của qui tắc 2, tức qui tắc: tiếng trước cho âm khởi đầu.
Thí dụ:


a) Chữ 衣
Khang Hi tự điển chua ư + hi, Từ Nguyên và Từ Hải cho ất + hi
Tiếng trước ư (hoặc ất) khởi đầu bằng nguyên âm, vậy nó không cho phụ âm, mà chỉ cho bực thanh là bổng;
Tiếng sau hi cho vận và loại thanh: bình.
Rốt cuộc là: không có phụ âm + i, bình thanh, bực bổng, vậy phải đọc là y.


b) Chữ 安
Khang Hi tự điển chua ư + hàm, Từ Nguyên và Từ Hải cho a + can.
Ta có: không phụ âm + an, bình thanh, bực bổng, và phải đọc là an
Nhớ ba nguyên tắc trên rồi, bạn thử áp dụng và tra cách đọc những chữ 今, 飽, 詭, 郢, 寅, Kipkis.com-Tu-hoc-mot-nhu-cau-cua-thoi-dai-20.jpg, 綺, 火, 行, 剖, Kipkis.com-Tu-hoc-mot-nhu-cau-cua-thoi-dai-21.jpg, 並, 匙, 遮, 一, Kipkis.com-Tu-hoc-mot-nhu-cau-cua-thoi-dai-22.jpg, xem có nhận ra được điều gì khác thường không.
Chẳng hạn chữ 今, theo đúng tự điển, phải đọc là câm. Tôi nhận thấy tiếng Hán không có vần im, chỉ có vần âm, như thâm (sâu), tâm (tim), tầm (tìm), trầm (chìm)..., đọc 今 là kim là theo giọng của ta.
Về chữ 剖, bạn tra Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, rồi Việt Nam tự điển của Thiều Chửu xem cách đọc nào đúng tự điển Trung Hoa.
Về chữ 飽, bạn tra Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, rồi Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức xem cách đọc trong cuốn nào đúng.
Trong khi đọc ta nên tìm tòi, so sánh như vậy, vừa nhớ lâu mà lại vừa thấy hứng thú.


4. DÙNG MỘT CHỮ CÓ MỘT THANH NHẤT ĐỊNH RỒI ĐỌC RA MỘT THANH KHÁC
Một lối chú tâm nữa ít thông dụng trong các tự điển Trung Hoa là dùng một chữ có một thanh nhất định rồi đọc ra một thanh khác
Thí dụ chữ 个, Khang Hi tự điển ghi: 哥 (ca) khứ thanh.
Ở đây ta cũng có thể áp dụng qui tắc 2 được. Chúng ta đã biết theo qui tắc 2, ta cần phải biết bốn yếu tố rồi mới đọc được một tiếng:
a - âm khởi đầu
b - vận
c - bực của thanh
d - và loại thanh


Khang Hi tự điển cho: ca và khứ thanh. Vậy ta biết loại thanh rồi (khứ thanh) tức yếu tố d; còn ba yếu tố trên a, b, c tất phải nằm trong chữ ca; nghĩa là chữ ca phải cho ta:
a - âm khởi đầu là c
b - vận là a
c - bực của thanh là bổng
Rốt cuộc ta có:
c + a, thanh khứ, bực bổng
và ta phải đọc là cá.


Một thí dụ nữa.


Chữ 入, chua là 任 (nhậm) nhập thanh.
Nhậm cho ta nh + âm, bực trầm.
Vậy phải đọc 入 là nhập (nh + âm, thanh nhập, bực trầm)


5. NHỮNG TIẾNG ĐỒNG ÂM
Sau cùng cách chú âm giản dị nhất, nhưng cũng ít dùng vì chỉ áp dụng được cho những tiếng đồng âm, tức lối độc nhược (đọc như), cũng có khi không gọi là độc nhược mà đọc là âm.
Thí dụ:
Chữ 丨 Từ Nguyên ghi: độc nhược 衮 (cổn) nghĩa là đọc như cổn. Chữ 中 Từ Hải ghi âm 忠 (trung), nghĩa là đọc như chữ trung.
Nếu là một chữ có hai lối viết thì tự điển dùng chữ đồng (cùng). Ví dụ chữ 万 Từ Nguyên ghi: dữ 萬 (vạn) đồng, nghĩa là đọc như chữ vạn, nghĩa là cũng như chữ vạn.
Các bộ Khang Hi tự điển, Từ Nguyên, Từ Hải đều có khuyết điểm rất lớn, làm cho ta lúng túng khi đọc những từ ngữ có hai, ba... tiếng.
Bạn biết rằng nhiều chữ nhiều chữ có hai, ba cách đọc. Chẳng hạn chữ 行 đọc là hành (hà hành thiết), hạnh (hạch manh thiết), hàng (hà ngang thiết), hạng (hàng khứ thanh), tùy mỗi cách đọc mà nghĩa mỗi khác.
Nhưng khi kê và giải nghĩa những từ ngữ gồm có chữ 行 chẳng hạn 行 人, 行 尸, 進 行 thì tự điển lại không cho biết những chữ 行 đó phải đọc theo cách nào.
Trong nhiều trường hợp, hiểu nghĩa thì biết được cách đọc như mấy từ ngữ trên phải đọc là hành...: hành nhân (một quan chức ngoại giao hồi xưa), hành thi (cái thây biết đi: nghĩa bóng tuy sống mà như chết), tiến hành (đi tới lên), nhưng có trường hợp, dù hiểu nghĩa ta cũng không đoán được cách đọc, nhất là trường hợp những nhân danh, địa danh.
Chẳng hạn chữ 太 行, tên núi, các cụ quen đọc là Thái Hàng[1], thì ta cũng đọc như vậy, chứ trong Từ Nguyên, Từ Hải đều không chỉ là phải đọc 太 ra sao. Rồi chữ 言 行 錄 có người đọc là ngôn hành lục, có người đọc là ngôn hạnh lục; ai đúng ai sai, tra tự điển ta cũng không quyết đoán được.
Viện Bác Cổ Sài gòn mới mua được một bộ tự điển Trung Hoa rất đầy đủ, bộ Trung văn đại từ điển của Trung Quốc văn hóa nghiên cứu sở, gồm đâu ba chục cuốn khổ lớn như khổ Việt Nam tự điển của ta, nhưng chưa đủ bộ vì in chưa xong. Bộ đó được bổ khuyết điểm trên.
Còn theo Từ Nguyên và Từ Hải thì:
m + oát, bực trầm (bực của mộ), thanh nhập (vì hoạt có t ở cuối) và ta phải đọc là mạt vì tự điển ghi là vần hạt.

(trích: Nguyễn Hiến Lê, Tự học - một nhu cầu thời đại)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mẹo Comment

Chú ý: chỉ cần dán link vào, không cần gõ thẻ khi post
Hình (file có đuôi jpg, jpeg, png, bmp, gif ),
Nhạc (file có đuôi mp3 hoặc từ trang web nhaccuatui),
Video (từ Youtube)

Đổi cỡ, màu chữ:
[color="red"][size="20"] chữ cỡ 20 màu đỏ [/size][/color]
(màu dùng mã hexa hoặc tiếng Anh: red, blue, green, violet, gold ..)
Giới thiệu link: <a href="link"> tên link </a>
Chữ đậm <b> chữ đậm</b>
Chữ nghiêng: <i> chữ nghiêng </i>

Chèn Yahoo smiley (click Chèn emoticons để xem phím tắt)
Đã thêm mấy smiley nhưng chưa rảnh thêm vào bảng chèn. Phím tắt:

:-/ bối rối ;) nháy mắt ;;) đá lông nheo
:"> thẹn :X yêu thế =(( tan nát cõi lòng

Chú ý Nếu nút Trả lời ko hoạt động, xin chịu khó lên thanh địa chỉ, gõ thêm vào cuối (ngay sau html) ?m=1 rồi nhấn Enter, nút Trả lời sẽ ok. (29/11/18)

Chèn Emoticons
:))
:D
:p
:)
:(
:-o
:-*
=))
:((
:-?
:-h
~o)
@};-
:D
[-X
=D>
*-:)
B-)
X(
:@)