Hiển thị các bài đăng có nhãn Quỳnh Giao. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quỳnh Giao. Hiển thị tất cả bài đăng
29/10/16
Con Đường Cái Quan
Trường Ca CON ÐƯỜNG CÁI QUAN được thai nghén từ 1954, vào lúc các cường quốc vừa chia đôi nước Việt Nam ra thành hai miền Quốc-Cộng với bản Hiệp Ðịnh Geneve. Tôi đang đi học nhạc tại Paris và bằng trường ca này, tôi phản đối sự chia cắt đó. Vào năm 1960, tôi hoàn tất phần còn lại của Trường Ca CON ÐƯỜNG CÁI QUAN.
Trường ca gồm 19 đoản khúc, đại đa số bài nằm trong âm giai ngũ cung và có thêm nhạc thuật chuyển hệ. Nhưng tôi cũng không ngần ngại pha trộn vào trường ca một số bài nằm trong âm giai thất cung Tây Phương. (Phạm Duy phamduy.com)
Mời nghe Quỳnh Giao giới thiệu về trường ca nổi tiếng này của Phạm Duy
26/10/16
SNTN 19 . Phạm Duy, nhạc xây tình người
Phạm Duy, nhạc xây tình người
Trong dòng suối nguồn tân nhạc của Việt Nam, Phạm Duy có chỗ đứng đặc biệt, vì ở bất cứ một nhánh quanh co hay bát ngát nào của dòng nhạc Việt, ta cũng gặp ông. Ông nhập cuộc rất sớm và theo đuổi cầm ca như niềm hạnh phúc và một cái nghề hơn là cái nghiệp, cho tới gần đây khi đã trên 75. Cho nên ta không dễ gì nói về nhạc của Phạm Duy trong vỏn vẹn một chương trình.
Nhưng, người ta như lại dễ nói về Phạm Duy, nếu chúng ta kể ra bao điều đã được viết về ông.
Vẫn biết rằng như đỉnh cao trên dãy Trường Sơn trùng điệp của tân nhạc, ông là cây cao nên chịu gió lớn, và ông mới bị phê phán về cả trăm điều, mà đa số lại ở ngoài âm nhạc. Phải chăng sự việc đó cho thấy rằng chúng ta quá yêu nên đòi hỏi quá nhiều ở một nghệ sĩ đã có công lao rất lớn với tân nhạc của dân tộc? Nói chung, dư luận khó có thể dửng dưng với Phạm Duy, mà nếu Phạm Duy có dửng dưng trước dư luận thì lại chẳng bao giờ dửng dưng với cuộc đời... Chúng ta nên trả cho Phạm Duy những gì của đời sống riêng tư của ông, và chỉ hân hoan đón nhận những gì ông viết cho tân nhạc, và cho tình yêu, chủ đề của chương trình hôm nay...
Bài ca mãi mãi gắn liền tên tuổi Phạm Duy với tân nhạc - khiến lời ca là thành ngữ được trích dẫn trong nhiều tác phẩm khác - Phạm Duy lại không viết cho tình yêu đôi lứa. Bản Tình Ca bất hủ được ông viết tại Saigon, vào năm 53, cho quê hương. Ðây là bài hát tiêu biểu nhất cho thể tài hoài hương mà chúng ta đã giới thiệu trong một chương trình trước. Chúng ta không thể có một chương trình đặc biệt về Phạm Duy mà không nhắc tới Tình Ca. Bài này, Quỳnh Giao xin quý thính giả thưởng thức qua tiếng hát Thái Thanh...
Bài cuối trong loạt bài Suối Nguồn Tân Nhạc của Quỳnh Giao
![]() |
Phạm Duy (1921 - 2013) |
Trong dòng suối nguồn tân nhạc của Việt Nam, Phạm Duy có chỗ đứng đặc biệt, vì ở bất cứ một nhánh quanh co hay bát ngát nào của dòng nhạc Việt, ta cũng gặp ông. Ông nhập cuộc rất sớm và theo đuổi cầm ca như niềm hạnh phúc và một cái nghề hơn là cái nghiệp, cho tới gần đây khi đã trên 75. Cho nên ta không dễ gì nói về nhạc của Phạm Duy trong vỏn vẹn một chương trình.
Nhưng, người ta như lại dễ nói về Phạm Duy, nếu chúng ta kể ra bao điều đã được viết về ông.
Vẫn biết rằng như đỉnh cao trên dãy Trường Sơn trùng điệp của tân nhạc, ông là cây cao nên chịu gió lớn, và ông mới bị phê phán về cả trăm điều, mà đa số lại ở ngoài âm nhạc. Phải chăng sự việc đó cho thấy rằng chúng ta quá yêu nên đòi hỏi quá nhiều ở một nghệ sĩ đã có công lao rất lớn với tân nhạc của dân tộc? Nói chung, dư luận khó có thể dửng dưng với Phạm Duy, mà nếu Phạm Duy có dửng dưng trước dư luận thì lại chẳng bao giờ dửng dưng với cuộc đời... Chúng ta nên trả cho Phạm Duy những gì của đời sống riêng tư của ông, và chỉ hân hoan đón nhận những gì ông viết cho tân nhạc, và cho tình yêu, chủ đề của chương trình hôm nay...
Bài ca mãi mãi gắn liền tên tuổi Phạm Duy với tân nhạc - khiến lời ca là thành ngữ được trích dẫn trong nhiều tác phẩm khác - Phạm Duy lại không viết cho tình yêu đôi lứa. Bản Tình Ca bất hủ được ông viết tại Saigon, vào năm 53, cho quê hương. Ðây là bài hát tiêu biểu nhất cho thể tài hoài hương mà chúng ta đã giới thiệu trong một chương trình trước. Chúng ta không thể có một chương trình đặc biệt về Phạm Duy mà không nhắc tới Tình Ca. Bài này, Quỳnh Giao xin quý thính giả thưởng thức qua tiếng hát Thái Thanh...
24/10/16
SNTN 18. Trịnh Công Sơn - Như cánh vạc bay
Bài viết của Quỳnh Giao trong loạt bài Suối Nguồn Tân Nhạc, cop lại từ trang nguoi-viet. Một số ca khúc minh họa trong bài trên Youtube chưa có phiên bản tác giả giới thiệu, tạm thay bằng một phiên bản khác
Trịnh Công Sơn viết nhạc từ tuổi đôi mươi cho đến những năm gần đây, nên đã cho chúng ta một số lượng tác phẩm rất lớn. Như ở một triết gia đích thực, ở nơi ông nỗi ám ảnh lớn về đời người đã đưa đến ba loại đề tài lớn, là tình yêu, quê hương và thân phận con người, trong đó chiến tranh và đói khổ là sự ngột ngạt bao trùm lên tất cả.
Khi chiến tranh đã chấm dứt, và vận nước đã đổi thay, ông thiên về các đề tài mang nhiều triết tính về cuộc đời, nhưng thủy chung vẫn là người viết nhạc tình độc đáo nhất. Nhạc sĩ Văn Cao gọi Trịnh Công Sơn là "ca nhân về tình yêu" có lẽ là trong ý đó...
Từ góc độ của người hát và yêu nhạc, khi nhìn lại Trịnh Công Sơn viết cho tình yêu, Quỳnh Giao muốn được nói lên một sự kiện, đó là từ Trịnh Công Sơn trở đi, các tình khúc đã đổi khác rất nhiều, và nền tân nhạc phải cảm tạ ông về sự khai phá đó...
Nói về tình khúc Trịnh Công Sơn, ta hãy thử nhắm mắt lại để nhìn quanh mà xem... Gió mưa; nắng cát; sông biển núi non; sa mạc, công viên; lá vàng, sỏi đá; rong rêu, lộc nõn; phố vắng, tháp cổ; mây bay, tóc rối; thân xác, cây già, v.v... ngần ấy hình tượng tản mát đều lấp lánh siêu thực trong các tình khúc của ông.
Trịnh Công Sơn là một phù thủy về ngôn ngữ, và căn bản văn hóa Pháp mà ông hấp thụ từ khi còn trẻ có thể phần nào, dù chỉ phần nào thôi, giải thích khả năng dùng chữ đầy ấn tượng lạ kỳ của ông. Phần nào thôi, vì khả năng rất tự nhiên đó, có lẽ ông phải có từ tiền kiếp, nhất là trong lối sử dụng hình dung từ bóng bảy và hình ảnh bất ngờ mà có sức biểu cảm lớn, như trong hội họa.
Ông là một nhà thơ, trước khi là một nhạc sĩ. Ta hãy nghe Tuấn Ngọc trong bài Ru Ta Ngậm Ngùi chẳng hạn, để bàng hoàng nhớ lại là 30 năm trước ông dùng chữ như thế nào...
20/10/16
SNTN 17. Phạm Ðình Chương, Quê Hương Là Người Ðó
![]() |
Phạm Đình Chương (1929 – 1991) |
Nhưng, nói tới nhạc tình của quê hương mà không nhắc tới Phạm Ðình Chương thì là một thiếu sót lớn. Ông sinh vào mùa Thu năm 1929 trên đất Bắc, và dưới tên Hoài Bắc đã là một trong những giọng ca nam điêu luyện nhất của Việt Nam trong những thập niên 50-70. Nhưng, tiếng hát Hoài Bắc đã hy sinh cho sự lẫy lừng của ban hợp ca Thăng Long, mà ông là linh hồn, là con chim đầu đàn và người hòa âm tuyệt vời, dưới tên Phạm Ðình Chương.
Thật không phải là quá đáng nếu nói rằng Saigon trước 75 đã chẳng có phong thái văn nghệ rất phong lưu nếu không có ly rượu Hoài Bắc và tiếng nhạc Phạm Ðình Chương. Có lẽ vì vậy mà cho đến nay, các nhạc khúc của ông vẫn chưa được khôi phục đúng ngôi vị ở trong nước, và đây là một thiệt thòi lớn cho mọi người chúng ta.
Ông đã mất năm 91, và ở nơi chốn ông đang tạm dung, có lẽ Phạm Ðình Chương vẫn phóng dật với âm nhạc và bằng hữu, trong sự đầm ấm ân cần ở nét cư xử cực kỳ dễ thương, dễ mến...
17/10/16
SNTN 16. Dương Thiệu Tước, mạch tương lai láng chờ phím ngân trùng
Trong một dịp bình nghị về nhạc, Phạm Duy đã phát biểu, rằng vào đầu thập niên 40 khi Văn Cao và Phạm Duy còn viết nhạc với âm thanh chuỗi như trong Cung Đàn Xưa hay Khối Tình Trương Chi, thì người đó đã tài tình hòa cả thất cung lẫn ngũ cung trong một khúc tình ca diễm tuyệt. Người mà Phạm Duy nhắc tới đó, chính là Dương Thiệu Tước.
Khúc hát làm Phạm Duy cảm phục mãi tới giờ chính là Trời Xanh Thẳm, mà Dương Thiệu Tước đã viết từ năm 1939. Và Phạm Duy nhớ bài ca vô cùng, vì do nghe Thái Hằng ngây ngất với Trời Xanh Thẳm mà ông đã bị cú sét ái tình... và Thái Hằng trở thành bà Phạm Duy từ đó...
Trời Xanh Thẳm
Đối với nhiều nhạc sĩ ở tuổi thất tuần hiện nay, Dương Thiệu Tước là một người đàn anh đáng yêu, không chỉ vì tuổi đời hay tuổi nghề, mà còn vì tài nghệ xuất chúng và cung cách phong nhã khác thường.
14/10/16
SNTN 15. Văn Cao, một phiến tài tình giữa cô đơn
Quỳnh Giao
Chúng ta đã dành 15 chương trình để nghe dòng thơ nhạc réo rắt của suối nguồn tân nhạc đã liên tục chảy trong tâm hồn người Việt từ 60 năm qua. Hôm nay, Quỳnh Giao xin được giới thiệu năm nhạc sĩ đã để lại cho chúng ta nhiều tuyệt tác và những tình khúc hay nhất của quê hương.
Trong số rất đông đảo các nghệ sĩ đã cống hiến cuộc đời và tác phẩm cho tân nhạc, việc chọn lựa này dĩ nhiên là không dễ dàng và khó tránh khỏi chủ quan. Quỳnh Giao tuyển chọn căn cứ trên cảm quan của một người yêu nhạc và đã trình bày các ca khúc tân nhạc từ mấy thập niên.
Cả năm nghệ sĩ được lần lượt giới thiệu sau đây đều có số lượng sáng tác lớn lao, thuộc nhiều thể loại, nhưng đều giống nhau ở hai điểm. Thứ nhất là họ có những tình khúc trác tuyệt; và thứ hai, các tác phẩm này đã chinh phục giới thưởng ngoạn và ảnh hưởng tới cách thẩm âm của chúng ta, trong ý nghĩa là sau họ, chúng ta không viết và nghe như trước nữa.
Quỳnh Giao xin giới thiệu Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Phạm Ðình Chương, Trịnh Công Sơn và Phạm Duy.
*
12/10/16
Suối Nguồn Tân Nhạc 14: Sơ kết về tương lai tân nhạc Việt Nam
Quỳnh Giao
![]() |
Ca sĩ Quỳnh Giao (1946 - 2014). Ảnh internet |
Ðiều đầu tiên có thể ghi nhận là ranh giới mơ hồ của thể loại ta gọi là tân nhạc cải cách. Ðây là một bộ môn âm nhạc khó định nghĩa vì cả hai mặt tiếp cận mới/cũ và trong/ngoài. Tân nhạc của ta có truyền thừa nghệ thuật cổ điển, như dân ca hay dân nhạc cổ truyền, như các làn điệu câu hò từ cả ba miền thôn quê, như cả bộ môn cải lương trên sân khấu miền Nam hay quan họ ngoài đình làng xứ Bắc. Nhưng, dù tiếp cận như vậy, tân nhạc vẫn khác các thể loại cũ vì khai triển sự đóng góp của âm nhạc Âu Tây.
Ngược lại, dù tân nhạc có du nhập ảnh hưởng nước ngoài, với nhiều kỹ thuật, âm giai và tiết điệu lẫn lời ca Âu Mỹ, nó vẫn không xa lạ vì hàm chứa ý tưởng gần gũi với văn hóa Việt.
Nhìn từ sự giao tiếp rộng rãi đó với các bộ môn âm nhạc mới và cũ, của người và của ta, có lẽ tân nhạc là bộ môn dù chưa là đặc thù dân tộc thì cũng chẳng lạc lõng với tâm hồn người Việt.
Ðiều đó làm nổi bật một khía cạnh khác, đó là tầm quan trọng của lời ca trong tân nhạc, vì nhạc chuyên chở lời. Ðiều đó cũng giải thích sự thành công của nhiều bài hát phổ nhạc từ lời thơ, đến nỗi một số bài thơ hay đã được nhiều nhạc sĩ cùng phổ nhạc.
Sự xác định trên đây không có gì là gượng gạo, vì trong dòng tân nhạc xứ ta, nếu có Tiếng Xưa nghe âm vang điệu hò miền Nam, hoặc Ðêm Tàn Bến Ngự của cùng tác giả lại nồng nàn ý nhạc đất Thần Kinh, thì cũng Dương Thiệu Tước đã có một bài luân vũ đài các đầy vẻ Âu Châu là Bến Xuân Xanh, hay có Hội Hoa Ðăng và Khúc Nhạc Dưới Trăng thì lại dồn dập nhịp điệu Tây Ban Nha lồng với hình ảnh rất Việt Nam.
Như trong nhiều trường hợp của những tác giả khác, ngần ấy ca khúc đều rất Việt Nam và đều đáp ứng thị hiếu đa diện, tinh tế và thực tiễn của dân ta. Quỳnh Giao xin quý thính giả nghe vài trích đoạn của mấy tác phẩm trên để cảm ra điều đó...
10/10/16
Suối Nguồn Tân Nhạc 13: Xu hướng nhạc bình dân
Quỳnh Giao
Nếu theo dõi kỹ từ thời phôi thai, chúng ta có thể nói rằng tân nhạc Việt Nam đã khởi đi từ thành phố là nơi các nhạc sĩ đã đầu tiên tiếp xúc với văn hóa và nghệ thuật Tây phương. Nhưng, từ đó, tân nhạc đã bay bổng trên khắp mọi miền và đưa nhiều giai điệu mới lạ về tới thôn quê, để nhận lại những âm hưởng bình dị của thôn quê.
Chúng ta đã có dân ca cải biên hay những bài hát về quê hương đồng nội, mà cũng có những bài mang hẳn màu sắc thôn quê về cả lời lẫn nét nhạc, theo người dân quê vào tới thành phố. Đây là loại nhạc bình dân trong ý nghĩa là được đại đa số người dân miền quê yêu thích.
Nó không hẳn là dân ca cổ truyền nhưng lại có giai điệu gần gũi với miền quê, dù nhịp điệu có khi là pha trộn giữa tango với boléro và cả cha cha cha của ngoại quốc. Nó không hẳn là cổ nhạc mà vẫn gợi nhớ nét nhạc truyền thống với đàn tranh hay nhịp phách xen kẽ với dàn trống Âu Mỹ. Chúng ta có thể gọi đây là loại nhạc của miền quê khi tiếp xúc với thành phố, và có nét vui buồn tùy theo tâm trạng người viết, người hát, và tùy theo tình hình đất nước vào mỗi thời.
Xu hướng này có thể được gọi là nhạc bình dân, nhạc chân quê, và về mặt văn hóa xã hội có lẽ nó không xa loại nhạc country mà dân Mỹ thường nồng nàn hát ở nơi thôn dã của họ.
Một trong những bài đầu tiên, thịnh hành và có tác động cổ võ lớn lao vào thời đó, chính là bài Lời Người Ra Đi của Trần Hoàn, mà ta sẽ thưởng thức sau đây, qua tiếng hát Nhã Phương.
Nếu theo dõi kỹ từ thời phôi thai, chúng ta có thể nói rằng tân nhạc Việt Nam đã khởi đi từ thành phố là nơi các nhạc sĩ đã đầu tiên tiếp xúc với văn hóa và nghệ thuật Tây phương. Nhưng, từ đó, tân nhạc đã bay bổng trên khắp mọi miền và đưa nhiều giai điệu mới lạ về tới thôn quê, để nhận lại những âm hưởng bình dị của thôn quê.
Chúng ta đã có dân ca cải biên hay những bài hát về quê hương đồng nội, mà cũng có những bài mang hẳn màu sắc thôn quê về cả lời lẫn nét nhạc, theo người dân quê vào tới thành phố. Đây là loại nhạc bình dân trong ý nghĩa là được đại đa số người dân miền quê yêu thích.
Nó không hẳn là dân ca cổ truyền nhưng lại có giai điệu gần gũi với miền quê, dù nhịp điệu có khi là pha trộn giữa tango với boléro và cả cha cha cha của ngoại quốc. Nó không hẳn là cổ nhạc mà vẫn gợi nhớ nét nhạc truyền thống với đàn tranh hay nhịp phách xen kẽ với dàn trống Âu Mỹ. Chúng ta có thể gọi đây là loại nhạc của miền quê khi tiếp xúc với thành phố, và có nét vui buồn tùy theo tâm trạng người viết, người hát, và tùy theo tình hình đất nước vào mỗi thời.
Xu hướng này có thể được gọi là nhạc bình dân, nhạc chân quê, và về mặt văn hóa xã hội có lẽ nó không xa loại nhạc country mà dân Mỹ thường nồng nàn hát ở nơi thôn dã của họ.
Một trong những bài đầu tiên, thịnh hành và có tác động cổ võ lớn lao vào thời đó, chính là bài Lời Người Ra Đi của Trần Hoàn, mà ta sẽ thưởng thức sau đây, qua tiếng hát Nhã Phương.
5/10/16
SNTN 12: Xu hướng Việt hóa nhạc phổ thông ngoại quốc
Nếu vào thời phôi thai tân nhạc Việt Nam đã khởi đi từ các ca khúc Tây hay Tàu hát với lời Việt thì giờ đây ta thấy thể loại đó phát triển trở lại, và khá mạnh ở cả bên ngoài và trong nước.
Ta có thể gọi đây là xu hướng Việt hóa nhạc phổ thông ngoại quốc, khởi lên trong dòng nhạc Việt từ thập niên 60, nhưng lại khác với xu hướng gọi là bán cổ điển mà chúng ta đã nghe trong một lần trước. Sau thời phôi thai của thập niên 30-40, với một số bài Tây mang lời Việt dù sao chỉ là mấy thử nghiệm hiếm hoi, tới thập niên 60 ở trong Nam ta đã thấy xu hướng du nhập không chỉ giai điệu mà cả tiết điệu nhạc phổ thông, là nhạc pop, của Âu Mỹ. Về đề tài khai thác, đa số thường viết về tình yêu, hoặc ngợi ca thiên nhiên để tả tình, hoặc cảm tác theo lời ngoại quốc...
Một nhạc sĩ có sức hấp thụ mạnh và sáng tác loại nhạc gần như phóng tác của ngoại quốc chính là Văn Phụng. Khi mới viết vào giữa thập niên 50, ông đã có những tác phẩm thuần túy Việt Nam với giai điệu ngũ cung như Các Anh Đi, Trăng Sáng Vườn Chè hoặc Nhớ Bến Đà Giang. Càng về sau ông càng thiên về nhịp điệu ngoại quốc, mà điển hình là bài Tiếng Dương Cầm trang nhã Tây phương, hay Khúc Nhạc Viễn Du với âm điệu Á Rập, bài Bức Họa Đồng Quê với nhịp Cha Cha Cha rộn ràng, hoặc bài Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn với điệu slow-rock thịnh hành trong giới trẻ Hoa Kỳ vào thập niên 60. Sau đây, Quỳnh Giao xin mời quý vị nghe bài Bức Họa Đồng Quê, được trình bày hợp ca.
4/10/16
SNTN 11. Xu hướng oán ghét chiến tranh - Từ phản chiến tới du ca
![]() |
Tiếc Thương . ảnh: Nguyễn Ngọc Hạnh |
Trong thời chiến tranh, nhất là khi chiến cuộc đã tới lúc khốc liệt ở trong Nam từ 1965 đến 1975, giao động tâm lý đã nổ ra, vì thực chất đây vẫn là cuộc tương tàn giữa hai bờ Bến Hải của một xứ sở. Cho nên, vào thời này, ta đã thấy xuất hiện xu hướng chống chiến tranh trong tân nhạc, với tiếng hát bi ai về chết chóc hủy diệt, lời kết án đạn bom và cả lời kêu gọi tình người mau dập tắt hận thù.
Xu hướng chống chiến tranh đó đã mở ra hai cánh cửa gần như đối diện. Tiêu cực thì có nhạc phản chiến, tích cực thì có phong trào du ca, hai đặc điểm dường như chỉ có trong Nam.
Y như đối với loại nhạc chiến dịch đã nói tới trong kỳ trước, còn lại ngày nay sẽ chỉ là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật nhất, viết từ cùng cực của khổ đau hay tột cùng của tuyệt vọng...
*
29/9/16
SNTN 10: Khuynh hướng cổ động, và nhạc chiến dịch
![]() |
Thương Tiếc . tượng của Nguyễn Thanh Thu (xưa đặt trước cổng vào Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa) |
Vẫn biến rằng chiến chinh là bất đắc dĩ, nhưng nhu cầu chiến tranh cũng đòi hỏi việc cổ vũ tâm lý, cho nên tân nhạc đã được huy động cho chiến trường, như điều vẫn có ở trong mọi xã hội con người... Tuy nhiên, xét cho kỹ, ta có thể thấy rằng nếu trong thời kỳ 45-54, đa số những bài hát ngợi ca tổ quốc và kêu gọi lên đường cứu nước đều tự phát vì được viết ra từ niềm hứng khởi dạt dào của mọi người - có lẽ lúc đó chưa phân giới tuyến chính trị mà chỉ nhìn vào kẻ thù chung là thực dân xâm lược - thì qua giai đoạn sau đó, khi hai bên Nam Bắc đều có chính quyền, ta có thể thấy rõ hơn cái nỗ lực chủ động tuyên truyền của hai chế độ đối nghịch.
Chúng ta có thể gọi những ca khúc có khi bi thiết, khi hùng tráng, nhưng đều mang tính chất cổ động đó là nhạc chiến dịch. Một sự khác biệt thứ hai, là trong khi miền Bắc đề cao văn hóa như một mặt trận và trong thơ phải có thép, nên văn nghệ mọi ngành đều có nhiệm vụ thúc giục đấu tranh, thì ở miền Nam, dường như chỉ giới nhạc sĩ quân đội và công chức mới để ý tới nhu cầu cổ động này. Trong khi ấy nhiều nghệ sĩ khác vẫn thoải mái viết về những đề tài khác, kể cả lời than vãn chiến tranh...
20/9/16
Suối Nguồn Tân Nhạc 9. Khuynh hướng hoài hương
Trong thời gian 60 năm vừa qua, có hai lần mà cả mấy triệu người đã lìa xa quê hương yêu dấu của họ. Lần đầu vào năm 54, lần sau vào năm 75 và những năm kế tiếp...
Khi gợi lại suối nguồn tân nhạc và các trào lưu sáng tác, ta không thể không nhắc tới nhiều tác phẩm được viết ra từ hai lần đau thương ấy. Nói chung, thể tài chính được âm nhạc ghi lại nhiều nhất vẫn là nỗi hoài niệm và ước mơ trở về quê cũ. Quỳnh Giao xin được gọi chung là những ca khúc hoài hương...
Năm 1954, khi đất nước bị chia đôi từ Hiệp Định Genève, có đông đảo các nhạc sĩ đã di cư vào Nam. Đa số trong lớp này cũng là nhạc công, và ở trong Nam, họ đóng góp nhiều cho tân nhạc cải cách qua môi trường hoạt động chính yếu là các đài phát thanh và các buổi nhạc hội hay chiếu bóng có phụ diễn văn nghệ. Ngoài những người như Hoàng Trọng hay Ngọc Bích đã nổi danh tại miền Bắc trước 54, thì những tên tuổi như Đan Thọ, Nguyễn Hiền hay Nhật Bằng, Lê Trọng Nguyễn cũng nổi lên. Trong khi nhạc Lê Trọng Nguyễn kén người nghe và đa số lại gần với xu hướng bán cổ điển mà chúng ta đã nhắc tới kỳ trước, thì Nhật Bằng, Đan Thọ và Nguyễn Hiền là tiêu biểu của lớp người viết nhạc trong Nam để nhớ quê hương miền Bắc...
15/9/16
SNTN 8: Khuynh hướng yêu nước - Từ thanh niên ca tới kháng chiến ca
Quỳnh Giao xin thân ái kính chào quý vị,
Trong gần hai thập niên, sự hình thành và phát triển của tân nhạc đã hòa lẫn với hai phong trào lớn của xã hội, đó là phong trào thanh niên khởi lên từ giữa thập niên 30 và tiếp nối là cuộc kháng chiến bùng lên từ giữa thập niên 40. Trong giai đoạn đó, chúng ta đã chứng kiến sự giao thoa tuyệt vời giữa tân nhạc và mệnh nước, với bài ca tuổi trẻ mở đường khai lối cho kháng chiến ca.
Quỳnh Giao xin được gọi chung hai loại đề tài thanh niên và kháng chiến đó là các ca khúc yêu nước...
Có thể là vì động lực chính trị của chính quyền thuộc địa, mà cũng có thể vì đáp ứng lòng khát khao của nhiều thế hệ sau những chấn động chính trị của năm 30, từ giữa thập niên 30 trở đi, ta đã thấy xuất hiện phong trào ngợi ca tuổi trẻ. Sau đó, khi kháng chiến bùng nổ, dòng nhạc thanh niên đã hòa chung với dòng nhạc yêu nước, và các bản thanh niên ca của Hoàng Quý, Lưu Hữu Phước hay Hùng Lân đã khơi ngòi cho các bản chiến trường ca bất hủ thời 45-54, với Văn Cao, Ðỗ Nhuận hay Phạm Duy, Phan Huỳnh Ðiểu...
13/9/16
SNTN 7: Khuynh Hướng Lãng Mạn Thời Phát Huy
Quỳnh Giao xin thân ái kính chào quý vị,
Nếu trong thời kỳ đầu của nền tân nhạc, các nghệ sĩ đã viết về những mối tình e ấp kín đáo, như sự nín lặng với Cô Hàng Hoa, mối tình câm với Cô Láng Giềng, như nỗi bâng khuâng của Cây Ðàn Bỏ Quên vì không biết rằng người đẹp "yêu tôi hay yêu đàn," hoặc lời nhắn gọi vu vơ, với "ai lướt đi ngoài sương gió, không dừng chân khiến em bẽ bàng"... của Buồn Tàn Thu, thì từ đầu thập niên 50 trở đi, các nhạc sĩ tiên phong của chúng ta đã mạnh dạn hơn trong xu hướng nhạc tình.
10/9/16
SNTN 6. Khuynh hướng tình cảm thời phôi thai
Ngay từ đây, ta đã có thể nói rằng thể tài lớn nhất, gây cảm hứng sáng tác cho đông đảo các nghệ sĩ chính là tình yêu. Trong một phần sau, ta sẽ đặc biệt tìm hiểu về năm tác giả tiêu biểu nhất cho xu hướng này...
Ngoài những tác phẩm ngợi ca tình yêu, nếu tân nhạc là nguồn hứng mới của nghệ sĩ trong bộ môn âm nhạc, thì trong nguồn cảm hứng chung đó, ta có thể phân biệt được chín thể tài được nhiều nhạc sĩ cùng khai thác một cách tự phát, mà Quỳnh Giao xin giới thiệu qua các ca khúc tiêu biểu nhất của họ, như một lời ghi ơn đối với nghệ sĩ sáng tác.
6/9/16
Suối Nguồn Tân Nhạc 5: Thời hòa bình trong đau thương (1975-1995)
Cuộc chiến Việt Nam đã chấm dứt năm 1975 nhưng hòa bình vẫn chưa trở về trong hồn người.
![]() |
Tiến chiếm dinh Độc lập . hình trên net |
Ðó là nói về thể tài sáng tác và phân biệt theo tiêu chuẩn địa dư trong và ngoài nước. Về thời gian thì trong 20 năm, từ 75 đến 95, ta cũng có thể phân biệt được hai thời kỳ: từ 75 đến khoảng 85 là thời hòa bình đau thương, và sau đó là thời hồi sinh, từ những năm 86-87 cho tới gần đây...
1/9/16
Suối nguồn tân nhạc 4. Thời chiến tranh (1965-75)
Nếu có một khoảng cách thời gian đủ dài để nhìn lại, thì thời kỳ chiến tranh từ 65 đến 75 có thể là giai đoạn u buồn và nhiễu nhương nhất của tân nhạc Việt Nam. Trong thời kỳ đó, nếu quả rằng đã có lúc tiếng hát át tiếng bom, thì bom đạn vẫn là sự hủy diệt gieo rắc trên cả hai miền, là những vành khăn tang xé vội phủ ngập các vòng hoa chiến thắng, và ảnh hưởng ngược vào ca nhạc.
Trong thời kỳ này, nhìn từ thế giới tân nhạc ra, người ta có thể chứng kiến sự ra đời của nhiều thể tài liên quan đến chiến tranh và đến đời sống con người ở bên ngoài chiến cuộc.
30/8/16
Suối nguồn Tân nhạc 3. Thời phân li (1954 - 1965)
Sau thời kỳ phát huy rực rỡ của tân nhạc Việt Nam từ 45 đến 54, thì kể từ 1954 trở đi, thời cuộc đã ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt âm nhạc. Hiệp Ðịnh Genève chia đôi đất nước vào năm 54 đã để lại một vết cắt đau thương trong các nguồn hứng sáng tác. Rồi chiến cuộc bùng nổ mạnh mẽ từ 65 đến 75 đã đưa tân nhạc lên chiến hào trong tiếng bom đạn của cả hai bên...
Hiệp Ðịnh Genève chia đôi xứ sở từ năm 54 đã đưa đến cuộc di cư của mấy triệu người từ Bắc vào Nam. Quý vị vừa nghe tác phẩm "Người Hà Nội" của Nguyễn Ðình Thi, sáng tác điển hình cho tinh thần lạc quan tự hào của tân nhạc ở miền Bắc sau năm 54.
Sau chín năm kháng chiến, các nghệ sĩ tân nhạc miền Bắc đều có chiều hướng sáng tác mang âm điệu phấn khởi, và Hà Nội đã là chủ đề kết tụ tinh thần đó tới cao độ. Tiêu biểu cho tinh thần này, ngoài Nguyễn Ðình Thi, ta có Trần Hoàn với "Ðêm Hồ Gươm," Hoàng Hiệp với "Nhớ Về Hà Nội," Hồng Ðăng với "Hoa Sữa," hoặc Phạm Tuyên, con trai của học giả Phạm Quỳnh, với bài "Hồ Tây, Chiều Bình Yên"...
28/8/16
Suối nguồn tân nhạc 2. Thời kì phát huy (1945 - 1954)
![]() |
ca sĩ Quỳnh Giao (1946-2014) |
Vào thời phôi thai đó, các nhạc sĩ tiền phong đều ít nhiều sử dụng nhạc khí cổ truyền Ðông phương rồi làm quen với nhạc lý Tây phương, cho nên những sáng tác đầu tay của họ đều hoặc thiên về thang âm ngũ cung cổ điển – như trường hợp Thẩm Oánh – hoặc mở ra thang âm thất cung mới mẻ hơn – như trường hợp Nguyễn Văn Tuyên – hoặc hài hòa dung hợp cả hai như Dương Thiệu Tước.
22/8/16
Suối nguồn tân nhạc 1. Thời phôi thai (1938 - 1945)
![]() |
Ca sĩ Quỳnh Giao (1946 - 2014) . ảnh BBC |
Bấy giờ internet chưa phổ biến, thông tin thiếu thốn, một chương trình nội dung như thế thật quí. Chẳng ngạc nhiên khi ít lâu sau, BBC đã cho phát lại lần 2 theo yêu cầu của nhiều thính giả. Nhớ không lầm thì hồi ấy BBC Việt ngữ có loan báo thính giả nào thích có thể gởi thư, địa chỉ về BBC sẽ tặng băng / dĩa gì đấy ghi lại toàn bộ chương trình, nhưng sau trở ngại về tác quyền hay sao đó không thực hiện được thì phải.
Về sau, Hoài Nam trên đài SBS Úc làm một chương trình về Tân nhạc Việt đồ sộ hơn, nhưng bây giờ nhìn lại thấy chương trình xưa của Quỳnh Giao vẫn hữu ích, giúp người nghe nhanh chóng có một cái nhìn tổng quát về nền tân nhạc Việt do một ca sĩ được đào tạo nhạc bài bản lại có thâm niên trong nghề dẫn giải nên giàu thông tin lại thú vị. "Quỳnh Giao viết về nhạc thì cũng như kể chuyện về các nghệ sĩ bằng hữu của thân mẫu. Nhưng kiến thức sâu sắc về nhạc và về kỹ thuật trình bày còn giúp người đọc nhớ lại và có sự thưởng ngoạn cao hơn với từng tác phẩm, từng tác giả hay người trình diễn." (BBC)
Hiện vẫn chưa tìm được chương trình của BBC xưa phổ biến trên mạng. Sau khi Quỳnh Giao mất, trên trang nguoi-viet.com cho đăng lại loạt bài này dựa theo bản thảo còn lưu lại. Nếu không có gì trở ngại, sẽ lần lượt lấy về đây lưu cho mọi người cùng đọc cho vui. Tiếc không còn nghe được cái giọng thanh thoát truyền cảm của cô, những đoạn nhạc minh họa mà cô chọn lựa .. Tôi sẽ cố gắng mỗi khi có thể, tìm nhạc minh họa (*) đưa vào playlist cuối mỗi bài, tuy nhiên không bảo đảm đúng version cô đã giới thiệu.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)