Nghe nói đâu đó bên Tàu cũng có Vọng Phu Đài, Vọng Phu Thạch, Vọng Phu Sơn .. Nhiều nước Đông Nam Á cũng có những hòn vọng phu của họ, chẳng hạn ở Borneo với ngọn Kinabahu cao hơn 4000m - Nhưng có lẻ ko đâu mật độ các hòn vọng phu dày đặc như xứ sở hình con giun xéo này. Không biết bao nhiêu nỗi mong chồng của người thiếu phụ thì kết thành một hòn vọng phu nhỉ, mà từ bắc vô nam có lắm Hòn Vọng Phu đến thế. Nàng Tô Thị ở Lạng Sơn. Người vợ ôm con chờ chồng trên núi Nhồi Thanh Hóa; hay cạnh dòng Nậm Giải, Nghệ An. Người đàn bà buồn bã trên núi Đá Bà Rầu ở Quảng Nam. Người mẹ bồng con trên núi Mẫu Tử ở Khánh Dương, Khánh Hòa; trong dãy Núi Bà ở Phú Cát, Bình Định; hay trên núi Đá Bia ở Đèo Cả, Tuy Hòa; trên Vọng Thạch Đài ở Hà Tiên .. . Tên hòn tên núi nhiều nơi có khác, nhưng vẫn là hình ảnh người vợ bế con mòn mỏi chờ chồng, đi ra từ một truyện tích dân gian đầy nước mắt nào đó.
Hòn Vọng Phu cũng là nhan đề một bản trường ca của Lê Thương, gồm ba bài
Hòn vọng phu 1: Đoàn người ra đi (Hương Mộc Lan xuất bản lần đầu vào năm 1946)
Hòn vọng phu 2: Ai xuôi vạn lí (Hương Nam xuất bản vào tháng 10 năm 1946)
Hòn vọng phu 3: Người chinh phu về (Dân Tộc xuất bản lần đầu vào năm 1949)
Hoàn cảnh sáng tác bản trường ca cho đến nay vẫn được nhiều nhà phê bình âm nhạc đánh giá là một trong những bản trường ca đầu tiên và hay nhất của nền tân nhạc Việt, được chính tác giả kể lại trong thư của Lê Thương gởi cho Phương Hương - tức sư cô Chân Không của Làng Mai
Hòn Vọng Phu cũng là nhan đề một bản trường ca của Lê Thương, gồm ba bài
Hòn vọng phu 1: Đoàn người ra đi (Hương Mộc Lan xuất bản lần đầu vào năm 1946)
Hòn vọng phu 2: Ai xuôi vạn lí (Hương Nam xuất bản vào tháng 10 năm 1946)
Hòn vọng phu 3: Người chinh phu về (Dân Tộc xuất bản lần đầu vào năm 1949)
Hoàn cảnh sáng tác bản trường ca cho đến nay vẫn được nhiều nhà phê bình âm nhạc đánh giá là một trong những bản trường ca đầu tiên và hay nhất của nền tân nhạc Việt, được chính tác giả kể lại trong thư của Lê Thương gởi cho Phương Hương - tức sư cô Chân Không của Làng Mai
Cách đây 43 năm (1944-45), tại xứ Dừa tỉnh Kiến Hòa, lúc đó còn là cù lao An Hóa, tỉnh Mỹ Tho, tình trạng giao động của một tâm hồn ưu tư về thời cuộc (Nhật chiếm Lạng Sơn 1940 rồi tràn vào Hải Phòng Hà Nội, tôi vào nam 1941) hòa nhiễm nỗi lòng chinh phu trong văn thơ đưa tôi đến việc sáng tác lần hồi 3 bài Hòn Vọng Phu thành một truyền kỳ cảm động.
Năm đó tôi tự cho là một kẻ phiêu lạc, đã từng ghé bến Quảng Châu Trung Hoa 4 tháng- ghi xong hơn 384 trang nhật ký, tiếc rằng nay đã mất hết ở Trà Vinh năm 1945 - mang nặng mối tình nước non đang xao xuyến, phân vân trước bao nhiêu nghi vấn của đời người, nên tôi gởi thác tâm tình vào để tài dân tộc là Tích Người Đàn Bà Hóa Đá.
Tất cả luân lý đông phương hầu như căn cứ trên lẽ tiết trung của Con Người các thế hệ, các giai cấp trong một nhân sinh quan sâu đậm Tình và Nghĩa.
Người Mẹ ôm con đợi chồng rồi hóa đá quả là một truyện ly kỳ tuyệt đẹp. Thành đá đây là thành “chứng quả tình thâm, tình vợ chồng chưa toại lòng nhau đã cách biệt. Tình cha con chưa từng ôm ấp đã chia ly, tình đồng loại chưa sum vầy đã tan rã.”
Nước ta có 3 đá Vọng Phu: một ở Lạng Sơn có nàng Tô Thị như trong câu “ Đồng đăng có phố Kỳ Lừa, có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”, hai là ở Phú Yên (nam trung việt ) có núi Vọng Phu, vùng Đèo Cả (tỉnh Phú Khánh), ba là ở Hà Tiên, có Vọng phu Thạch.
Núi Vọng phu ở Phú Yên tại một vùng địa lý hơi man rợ, thâm u là đá đẹp nhất, xem từ biển nhìn vào làm cho tôi cảm mến.
… Nhớ lại năm 1470 đầu niên hiệu Hồng Đức tại vùng này có "thạch bi sơn" làm biên giới Việt Nam và Chiêm Thành còn sót lại... Cảnh trí đường đèo quanh co, cây cỏ um tùm man rợ làm cho dân gian ghi tạc mấy câu vè siêu thực đầy tính bí hiểm: “Mưa Đồng Cộ, Gió Tu Hoa, Cọp ổ Gà, Ma Hòn Lớn”
Lời sơ giải của dân gian kể là: Trên một cao nguyên nhỏ vùng đèo, thường có mây dày đặc chỉ cần gọi nhau trên đó là có mưa rớt xuống (còn nhiều di tích dân cổ Chiêm Thành trên đó)
Đường lên ngọn cao nơi đó, sườn núi bị soi mòn, gió biển thổi qua các khúc quanh co, nghe như tiếng hú âm u. Đó là Mưa Đồng Cộ, gió Tu Hoa.
Cọp thời xưa dạn dĩ đến nỗi sau những trận mưa chúng ra đường lộ phơi nắng cho khô, bộ áo rằn ri, xe hơi thời đó bóp kèn năn nỉ chúng cũng không thèm nhúc nhích (xe thời đầu Pháp thuộc có mui dựng lên để hai bên hông trống rỗng) nên xe phải dừng lại cho mấy “ông ba mươi” đi hết mới chạy qua, vừa lên tốc độ chối chết vừa la như giặc.
Còn Hòn Lớn thì nghe như một cái đảo âm u ngang vùng Phan Rang gì đó, có rất nhiều “ma hồi” đêm cứ lập lòe nhát các ngư phủ ghé thuyền tránh gió đến đó qua đêm!
Quang cảnh hú vía của thiên nhiên, trộn vào ảnh cảm địa lịch qua từng bước đường nam tiến vẫn ám ảnh tâm hồn tôi, một cậu trai giàu tưởng tượng để lúc sống bên bờ kinh Chẹc Xậy (tỉnh Bến Tre thân mến) phải thể hiện thành bài Hòn Vọng Phu 1.
Lệnh vua hành quân trống kêu dồn.....(Hòn Vọng Phu 1)
(Bài này đã xong và đưa anh Lưu Hữu Phước trước ngày 23/9/45 để anh đem ra Bắc)
Bài Ai xuôi vạn lý ( Hòn Vọng Phu 2) là cuối năm 1945 sang 46, tôi theo kháng chiến tỉnh Mỹ Tho đi từ Cai Lậy, thuộc Nhiêu, Vĩnh Kim qua sông, đi với các em phần đông là học sinh Petrus Ký mà tôi là trưởng đoàn Ca Nhạc với những bài thanh niên lịch sử và riêng Hòn Vọng Phu 1 nghêu ngao qua các làng dừa từ Thành Triệu, An Khánh, Phú An Hòa, Quới Sơn, Giao Long, Giao Hòa, cho đến Dòng Sầm, gần Bình Đại...
Bỗng Tây đem tàu tấn công 3 Cù Lao, Minh, Bảo, An Hóa. Tiếng Canon 75 bắn tủa vào các bờ sông có dừa, máy bay phun lửa “spitfire” từ trời bắn xuống. Đoàn phải tan rã các em trong đoàn chạy hầu hết về gia đình, chỉ còn tôi và người bạn Ánh (nay đã chết) trốn được vào vùng lá Dòng Sầm cách Bình Đại 4 cây số.
Chúng tôi được vài gia đình người Cao Đài làm đầu tộc đạo nơi đó thương xót giấu trong bìa lá và giúp lương thực sống trong sự khủng khiếp hằng ngày vì tên Pháp lai Leroy và bọn lính Partisans đầu đỏ xục xạo làng xóm gieo khủng khiếp. Lúc đầu chúng tôi còn trốn vào sâu trong ruộng, đem gạo cơm đi ăn tối về nằm trong kho lúa. Sau vì còn thấy nguy hiểm nên anh tư- bà con với ông đầu tộc đạo dẫn chúng tôi vào bìa lá dòng Sầm dày 4,5 trăm thước sát cửa biển Bình Đại.
Tại nơi yên tĩnh này chúng tôi được sống bên bờ rạch dày đặt lá dừa nước! May mà còn chiếc mùng “Tuin”(tulle) để tránh muỗi, đêm đêm nghe dế than, cá thòi lòi đập đuôi lạch bạch dưới sình và tâm hồn lo âu vô vọng. Tôi hay nghĩ đến sự chết thê thảm cô đơn và lẩn vẩn trong trí óc sự tiếc nuối mênh man như lòng người chinh phụ trong giang san Đèo Cả.
“Thôi đứng đợi làm chi. Thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng kỳ. Những người mang mệnh biệt ly.”
Nhờ cây viết máy Kao lo khô mực và nước rạch nhỏ vào cho ướt lại, tôi viết mấy ô nhịp trên.
Tâm hồn rạo rực trong mỗi buổi chiều tà làm bốc lên những tiếng mới của bài Hòn Vọng Phu 2, tức Ai xuôi vạn lý, được ghi vội vã lộn xộn nhưng cuồng nhiệt như tâm hồn tôi ghì lấy sự sống.
Ngày chót ở Dòng Sầm là ngày đại bố của tên Leroy. Hắn nghe tin có người lạ mặt trốn trong lá (vì có tên lính kín của hắn trà trộn trong đám người đi chặt lá bất ngờ gặp 2 chúng tôi).
Tên này giả đò thương hai chúng tôi, hỏi vu vơ vài câu rồi ra lộ làng. Anh Tư người che chở chúng tôi thấy nó chạy vội xuống Bình Đại, anh hốt hoảng vào kêu chúng tôi thu xếp túi áo quần, xóa vết củi than rồi tìm chổ trốn càng sâu càng tốt- như ráng chui dưới đống lá mới chặt kẻo vào bụi rậm thì dễ bị chúng bắn bừa vào cho chết.
Cả một ngày khủng khiếp tột độ kéo dài cho đến gần tối đêm, chúng tôi mới dám lần về nhà anh Tư, hỏi thăm nơi nào còn trốn được nữa. Anh dẫn đến nhà người bề trên trong dòng họ và cả trong đạo, năn nỉ xin giúp. Ông này chỉ lối cho chúng tôi ra một tha ma nhỏ có một mộ đào sẳn nhưng chưa chôn - Lấy rơm nơi gần đó trải đầy xuống đáy mộ, chúng tôi đành xuống đó nằm nghĩ qua đêm, yên lặng trong ngôi mộ như chờ lấp đất.
Vòm trời sao hình chữ nhật tỏa xuống hai thằng người nửa sống nửa chết, tuy chưa chôn nhưng đang phó thác tâm hồn cho thượng đế với hai cái xác còn đầy sức sống cầu mong được thoát nạn. Sáng hôm sau lời nguyện đã được nghe từ thiên cao: Một em trong đoàn hát tìm được chúng tôi và dẫn qua đường làng đến Vang Quới, xuống đó may về được Mỹ Tho để ngồi tù...Rồi thoát nạn.
SaiGon cuối 1947. Hòn Vọng Phu 2 với nổi lòng “người Vọng Phu” (qua) lúc gió mưa thành hình và trong nội năm 1948 nỗi lòng ấy vang dội trên các sân khấu Sài Thành với giọng ca điêu luyện của nhiều nam nữ ca sĩ trong đó có Ánh Mai, sau này thành vợ cũ của Huỳnh Văn Tiểng và vài người đẹp đã quên tên.
Sống lại với nền tân nhạc giữa thời “khai sơn phá thạch” tôi không ngớt theo đuổi ý chí kể lại khúc chót của chuyện tích mặc dù mắc kẹt với bao sáng tác của năm 1948 một năm khởi sắc với 6 bài nhạc thời sự (Hòa Bình 48, Báo Thương, Liều Thuốc Độc Lập...Dao ca, tạp khúc ca, kịch ngắn v.v.) thâu âm đĩa hát, tìm nhà ở, tìm chổ dạy học lại.v.v.
Người Chinh Phu về (HVP3) với tình nghĩa vợ chồng đổi sang tình nghĩa non sông, nhìn đứa con để trao cho nó thanh kiếm sơn hà. “Trao nó đi gây lại cơ đồ”. Linh tính làm người Việt Nam giữa thời khói lửa vẫn đinh ninh là Hạnh Phúc vẫn là mục tiêu không kỳ hạn mà dân tộc phải tìm lâu dài cho đến khi quân bình được những cảm tình trái ngược mà lẽ đời sôi động của cuối thế kỷ đã lôi cuốn bao lớp người vào lãng phí sinh mạng như vào hận tủi bi thiết của nhân sử nòi Việt.
Đến đây nhân lúc mới khỏe lại về thân thể và tin đời, tôi gửi thác P Hương một điệp khúc tự sự của bài HVP 2.
Có thơ xuôi vạn lý nhắn Phương Hương mấy lời
Đá non sông tình ý vẫn trơ gan dưới đời
Ghi nghĩa nặng tình sâu
Và lòng thân tín với nhau
Vững như đá tảng non đầu
Vẫn chan chứa Tình Bể Dâu
Lê Thương
-----------
Tái bút :
Nhớ lại những giọng Hoàng Oanh, nõn nà thùy mị, rồi mới đây giọng Mai Hương, đơn chuyên thẳng tắp sau những thổn thức của Thái Thanh trong các kỳ diễn lại Ai Xuôi Vạn Lý. Phải kể nhiều về giọng Long Xuyên Tinh Nghệ của Phạm Bá Phước ( đã khuất) của Thanh Hùng và nhất là giọng Duy Khánh thiết tha chải chuốt và mới đây giọng Hoài Trung diễn kể Người Chinh Phu về còn cảm tình gió Khơi Dĩ Vãng.
Năm đó tôi tự cho là một kẻ phiêu lạc, đã từng ghé bến Quảng Châu Trung Hoa 4 tháng- ghi xong hơn 384 trang nhật ký, tiếc rằng nay đã mất hết ở Trà Vinh năm 1945 - mang nặng mối tình nước non đang xao xuyến, phân vân trước bao nhiêu nghi vấn của đời người, nên tôi gởi thác tâm tình vào để tài dân tộc là Tích Người Đàn Bà Hóa Đá.
Tất cả luân lý đông phương hầu như căn cứ trên lẽ tiết trung của Con Người các thế hệ, các giai cấp trong một nhân sinh quan sâu đậm Tình và Nghĩa.
Người Mẹ ôm con đợi chồng rồi hóa đá quả là một truyện ly kỳ tuyệt đẹp. Thành đá đây là thành “chứng quả tình thâm, tình vợ chồng chưa toại lòng nhau đã cách biệt. Tình cha con chưa từng ôm ấp đã chia ly, tình đồng loại chưa sum vầy đã tan rã.”
Nước ta có 3 đá Vọng Phu: một ở Lạng Sơn có nàng Tô Thị như trong câu “ Đồng đăng có phố Kỳ Lừa, có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”, hai là ở Phú Yên (nam trung việt ) có núi Vọng Phu, vùng Đèo Cả (tỉnh Phú Khánh), ba là ở Hà Tiên, có Vọng phu Thạch.
Núi Vọng phu ở Phú Yên tại một vùng địa lý hơi man rợ, thâm u là đá đẹp nhất, xem từ biển nhìn vào làm cho tôi cảm mến.
… Nhớ lại năm 1470 đầu niên hiệu Hồng Đức tại vùng này có "thạch bi sơn" làm biên giới Việt Nam và Chiêm Thành còn sót lại... Cảnh trí đường đèo quanh co, cây cỏ um tùm man rợ làm cho dân gian ghi tạc mấy câu vè siêu thực đầy tính bí hiểm: “Mưa Đồng Cộ, Gió Tu Hoa, Cọp ổ Gà, Ma Hòn Lớn”
Lời sơ giải của dân gian kể là: Trên một cao nguyên nhỏ vùng đèo, thường có mây dày đặc chỉ cần gọi nhau trên đó là có mưa rớt xuống (còn nhiều di tích dân cổ Chiêm Thành trên đó)
Đường lên ngọn cao nơi đó, sườn núi bị soi mòn, gió biển thổi qua các khúc quanh co, nghe như tiếng hú âm u. Đó là Mưa Đồng Cộ, gió Tu Hoa.
Cọp thời xưa dạn dĩ đến nỗi sau những trận mưa chúng ra đường lộ phơi nắng cho khô, bộ áo rằn ri, xe hơi thời đó bóp kèn năn nỉ chúng cũng không thèm nhúc nhích (xe thời đầu Pháp thuộc có mui dựng lên để hai bên hông trống rỗng) nên xe phải dừng lại cho mấy “ông ba mươi” đi hết mới chạy qua, vừa lên tốc độ chối chết vừa la như giặc.
Còn Hòn Lớn thì nghe như một cái đảo âm u ngang vùng Phan Rang gì đó, có rất nhiều “ma hồi” đêm cứ lập lòe nhát các ngư phủ ghé thuyền tránh gió đến đó qua đêm!
Quang cảnh hú vía của thiên nhiên, trộn vào ảnh cảm địa lịch qua từng bước đường nam tiến vẫn ám ảnh tâm hồn tôi, một cậu trai giàu tưởng tượng để lúc sống bên bờ kinh Chẹc Xậy (tỉnh Bến Tre thân mến) phải thể hiện thành bài Hòn Vọng Phu 1.
Lệnh vua hành quân trống kêu dồn.....(Hòn Vọng Phu 1)
(Bài này đã xong và đưa anh Lưu Hữu Phước trước ngày 23/9/45 để anh đem ra Bắc)
Bài Ai xuôi vạn lý ( Hòn Vọng Phu 2) là cuối năm 1945 sang 46, tôi theo kháng chiến tỉnh Mỹ Tho đi từ Cai Lậy, thuộc Nhiêu, Vĩnh Kim qua sông, đi với các em phần đông là học sinh Petrus Ký mà tôi là trưởng đoàn Ca Nhạc với những bài thanh niên lịch sử và riêng Hòn Vọng Phu 1 nghêu ngao qua các làng dừa từ Thành Triệu, An Khánh, Phú An Hòa, Quới Sơn, Giao Long, Giao Hòa, cho đến Dòng Sầm, gần Bình Đại...
Bỗng Tây đem tàu tấn công 3 Cù Lao, Minh, Bảo, An Hóa. Tiếng Canon 75 bắn tủa vào các bờ sông có dừa, máy bay phun lửa “spitfire” từ trời bắn xuống. Đoàn phải tan rã các em trong đoàn chạy hầu hết về gia đình, chỉ còn tôi và người bạn Ánh (nay đã chết) trốn được vào vùng lá Dòng Sầm cách Bình Đại 4 cây số.
Chúng tôi được vài gia đình người Cao Đài làm đầu tộc đạo nơi đó thương xót giấu trong bìa lá và giúp lương thực sống trong sự khủng khiếp hằng ngày vì tên Pháp lai Leroy và bọn lính Partisans đầu đỏ xục xạo làng xóm gieo khủng khiếp. Lúc đầu chúng tôi còn trốn vào sâu trong ruộng, đem gạo cơm đi ăn tối về nằm trong kho lúa. Sau vì còn thấy nguy hiểm nên anh tư- bà con với ông đầu tộc đạo dẫn chúng tôi vào bìa lá dòng Sầm dày 4,5 trăm thước sát cửa biển Bình Đại.
Tại nơi yên tĩnh này chúng tôi được sống bên bờ rạch dày đặt lá dừa nước! May mà còn chiếc mùng “Tuin”(tulle) để tránh muỗi, đêm đêm nghe dế than, cá thòi lòi đập đuôi lạch bạch dưới sình và tâm hồn lo âu vô vọng. Tôi hay nghĩ đến sự chết thê thảm cô đơn và lẩn vẩn trong trí óc sự tiếc nuối mênh man như lòng người chinh phụ trong giang san Đèo Cả.
“Thôi đứng đợi làm chi. Thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng kỳ. Những người mang mệnh biệt ly.”
Nhờ cây viết máy Kao lo khô mực và nước rạch nhỏ vào cho ướt lại, tôi viết mấy ô nhịp trên.
Tâm hồn rạo rực trong mỗi buổi chiều tà làm bốc lên những tiếng mới của bài Hòn Vọng Phu 2, tức Ai xuôi vạn lý, được ghi vội vã lộn xộn nhưng cuồng nhiệt như tâm hồn tôi ghì lấy sự sống.
Ngày chót ở Dòng Sầm là ngày đại bố của tên Leroy. Hắn nghe tin có người lạ mặt trốn trong lá (vì có tên lính kín của hắn trà trộn trong đám người đi chặt lá bất ngờ gặp 2 chúng tôi).
Tên này giả đò thương hai chúng tôi, hỏi vu vơ vài câu rồi ra lộ làng. Anh Tư người che chở chúng tôi thấy nó chạy vội xuống Bình Đại, anh hốt hoảng vào kêu chúng tôi thu xếp túi áo quần, xóa vết củi than rồi tìm chổ trốn càng sâu càng tốt- như ráng chui dưới đống lá mới chặt kẻo vào bụi rậm thì dễ bị chúng bắn bừa vào cho chết.
Cả một ngày khủng khiếp tột độ kéo dài cho đến gần tối đêm, chúng tôi mới dám lần về nhà anh Tư, hỏi thăm nơi nào còn trốn được nữa. Anh dẫn đến nhà người bề trên trong dòng họ và cả trong đạo, năn nỉ xin giúp. Ông này chỉ lối cho chúng tôi ra một tha ma nhỏ có một mộ đào sẳn nhưng chưa chôn - Lấy rơm nơi gần đó trải đầy xuống đáy mộ, chúng tôi đành xuống đó nằm nghĩ qua đêm, yên lặng trong ngôi mộ như chờ lấp đất.
Vòm trời sao hình chữ nhật tỏa xuống hai thằng người nửa sống nửa chết, tuy chưa chôn nhưng đang phó thác tâm hồn cho thượng đế với hai cái xác còn đầy sức sống cầu mong được thoát nạn. Sáng hôm sau lời nguyện đã được nghe từ thiên cao: Một em trong đoàn hát tìm được chúng tôi và dẫn qua đường làng đến Vang Quới, xuống đó may về được Mỹ Tho để ngồi tù...Rồi thoát nạn.
SaiGon cuối 1947. Hòn Vọng Phu 2 với nổi lòng “người Vọng Phu” (qua) lúc gió mưa thành hình và trong nội năm 1948 nỗi lòng ấy vang dội trên các sân khấu Sài Thành với giọng ca điêu luyện của nhiều nam nữ ca sĩ trong đó có Ánh Mai, sau này thành vợ cũ của Huỳnh Văn Tiểng và vài người đẹp đã quên tên.
Sống lại với nền tân nhạc giữa thời “khai sơn phá thạch” tôi không ngớt theo đuổi ý chí kể lại khúc chót của chuyện tích mặc dù mắc kẹt với bao sáng tác của năm 1948 một năm khởi sắc với 6 bài nhạc thời sự (Hòa Bình 48, Báo Thương, Liều Thuốc Độc Lập...Dao ca, tạp khúc ca, kịch ngắn v.v.) thâu âm đĩa hát, tìm nhà ở, tìm chổ dạy học lại.v.v.
Người Chinh Phu về (HVP3) với tình nghĩa vợ chồng đổi sang tình nghĩa non sông, nhìn đứa con để trao cho nó thanh kiếm sơn hà. “Trao nó đi gây lại cơ đồ”. Linh tính làm người Việt Nam giữa thời khói lửa vẫn đinh ninh là Hạnh Phúc vẫn là mục tiêu không kỳ hạn mà dân tộc phải tìm lâu dài cho đến khi quân bình được những cảm tình trái ngược mà lẽ đời sôi động của cuối thế kỷ đã lôi cuốn bao lớp người vào lãng phí sinh mạng như vào hận tủi bi thiết của nhân sử nòi Việt.
Đến đây nhân lúc mới khỏe lại về thân thể và tin đời, tôi gửi thác P Hương một điệp khúc tự sự của bài HVP 2.
Có thơ xuôi vạn lý nhắn Phương Hương mấy lời
Đá non sông tình ý vẫn trơ gan dưới đời
Ghi nghĩa nặng tình sâu
Và lòng thân tín với nhau
Vững như đá tảng non đầu
Vẫn chan chứa Tình Bể Dâu
Lê Thương
-----------
Tái bút :
Nhớ lại những giọng Hoàng Oanh, nõn nà thùy mị, rồi mới đây giọng Mai Hương, đơn chuyên thẳng tắp sau những thổn thức của Thái Thanh trong các kỳ diễn lại Ai Xuôi Vạn Lý. Phải kể nhiều về giọng Long Xuyên Tinh Nghệ của Phạm Bá Phước ( đã khuất) của Thanh Hùng và nhất là giọng Duy Khánh thiết tha chải chuốt và mới đây giọng Hoài Trung diễn kể Người Chinh Phu về còn cảm tình gió Khơi Dĩ Vãng.
Mời nghe thêm một số ca sĩ trình bày Hòn Vọng Phu và ngắm vài bức ảnh của DungArt chủ đề Mẹ Con
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: chỉ cần dán link vào, không cần gõ thẻ khi post
Chèn EmoticonsHình (file có đuôi jpg, jpeg, png, bmp, gif ),
Nhạc (file có đuôi mp3 hoặc từ trang web nhaccuatui),
Video (từ Youtube)
Đổi cỡ, màu chữ:
[color="red"][size="20"] chữ cỡ 20 màu đỏ [/size][/color]
(màu dùng mã hexa hoặc tiếng Anh: red, blue, green, violet, gold ..)
Giới thiệu link: <a href="link"> tên link </a>
Chữ đậm <b> chữ đậm</b>
Chữ nghiêng: <i> chữ nghiêng </i>
Chèn Yahoo smiley (click Chèn emoticons để xem phím tắt)
Đã thêm mấy smiley nhưng chưa rảnh thêm vào bảng chèn. Phím tắt:
:-/ bối rối ;) nháy mắt ;;) đá lông nheo
:"> thẹn :X yêu thế =(( tan nát cõi lòng
Chú ý Nếu nút Trả lời ko hoạt động, xin chịu khó lên thanh địa chỉ, gõ thêm vào cuối (ngay sau html) ?m=1 rồi nhấn Enter, nút Trả lời sẽ ok. (29/11/18)