14/4/14

Nhã nhạc cung đình Huế

Nhã nhạc là nhạc của triều đình dùng trong các cuộc tế lễ, triều hội. Ở VN, dấu vết của nhã nhạc được ghi nhận từ triều Lý, đến nhà Nguyễn nhã nhạc đạt đến đỉnh cao. UNESCO đánh giá: “Nhã nhạc Việt Nam mang ý nghĩa âm nhạc tao nhã… Trong các thể loại nhạc cổ truyền Việt Nam chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia. Nhã nhạc Việt Nam đã có từ thế kỷ XI, đến thời Nguyễn thì Nhã nhạc cung đình Huế đạt đến độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất”. Tháng 11/2003 Nhã nhạc cung đình Huế được Unesco nhìn nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.

Để tìm hiểu thêm về Nhã nhạc cung đình Huế, xin click xem bài viết cuối bài. Giờ thì mời thưởng thức một số bài bản nhã nhạc.



click đọc Nhã nhạc cung đình Huế - Một di sản văn hóa âm nhạc ngàn năm 

LTS : Không phải tình cờ Tổ Chức Văn Hóa của Liên Hiệp Quốc (Unesco) nhìn nhận Nhã nhạc cung đình Huế là một trong 28 kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Đó là một cố gắng liên tục và vượt bực của những người Việt Nam và một số nhà văn hóa Nhật Bản đã vinh danh một nghệ thuật cổ truyền của Việt Nam, tưởng đã bị chìm vào quên lãng, lên hàng tài sản văn hóa chung của nhân loại.

Nhã nhạc cung đình Huế là gì ?
     Nhã nhạc cung đình Huế là một thể loại âm nhạc dân tộc cổ điển, bác học thật sự kế thừa một truyền thống ngàn năm, kể từ khi những dàn nhạc - trong đó có mặt nhiều nhạc khí cung đình - xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi trên các bệ đá kê cột chùa thời Lý, thế kỷ 11-12, đến lúc ông vua cuối cùng triều Nguyễn thoái vị năm 1945.
     Các chế độ chính trị cứ lần lượt nối tiếp nhau qua đi, văn hóa luôn luôn còn lại, vì đó là sáng tạo của con người, sức sống của dân tộc, niềm tự hào của nhân loại. Sau 30 năm từ ngày chế độ quân chủ cáo chung tới ngày được Unesco vinh danh là di sản văn hóa của loài người, Nhã nhạc cung đình Huế vẫn luôn tồn tại cho dù đã phải trải qua biết bao thăng trầm. Đó là nhờ công lao của một bà mẹ vua đã âm thầm gìn giữ  cho nó sống ; đó cũng nhờ sự kiên trì của một số nghệ nhân, nhạc sĩ, nhà nhạc học trong và ngoài nước - được sự yểm trợ của những nhà văn hóa và cơ quan văn hóa nước ngoài "biết người biết của" - giữ cho nó sống. Đó là một may mắn cho dân tộc Việt Nam nói riêng và cho cả nhân loại nói chung, bởi vì nhiều giá trị lịch sử và nghệ thuật của một nền văn hóa có nguy cơ thất truyền đã được phục hồi.
     Có lẽ không có một loại âm nhạc Việt Nam nào được ghi vào sách sử Hán Nôm, sách báo tiếng Việt, Pháp, Anh, Đức, Ý... rồi sản phẩm nghe nhìn hiện đại, nhiều và lâu dài như Âm nhạc cung đình Việt và Nhã nhạc cung đình Huế, từ An Nam chí lược đời Trần, Đại Việt sử ký toàn thư đời Lê, Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ đời Nguyễn, đến đĩa vinyl 33 vòng "Âm nhạc Việt Nam truyền thống Huế" năm 1969, đĩa CD-Rom "Nhạc khí dân tộc Việt" năm 2001, những sách vở, bài viết gần đây của Trần Văn Khê, Trần Kiều Lại Thủy, Nguyễn Đắc Xuân…
     Sau khi Nhã nhạc cung đình Huế được vinh danh, cánh cửa hy vọng đi vào lâu đài di sản văn hóa nhân loại từ nay rộng mở. Theo tin từ Bộ Văn Hóa và Hội Văn Nghệ dân gian Việt Nam, mười loại hình văn hóa âm nhạc độc đáo khác của Việt Nam cũng đang được lập hồ sơ để chuyển tới Unesco xét duyệt với hy vọng được công nhận là di sản phi vật thể của nhân loại. Đó là các điệu Hát ả đào (ca trù), Hát quan họ, Hát xoan hát ghẹo, Hát chèo tàu, Hát dô, Hát văn, Sử thi Tây Nguyên, Hát Sli hà lù hà lô Tày-Nùng và 32 điệu Múa Thái cùng với Áo dài Việt Nam.
     Một sự thật không thể chối cãi là Nhã nhạc cung đình Huế có một giá trị nghệ thuật cao. Giáo sư Trần Văn Khê giải thích :
     "Nhạc khí dùng trong nhạc cung đình rất đẹp trong hình thức, đóng ráp kỹ, chạm trổ khéo, đầy đủ màu âm, có tiếng kim, tiếng thổ, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đồng, tiếng đá, tiếng da, tiếng mộc.
     Dàn nhạc đa dạng : Đại nhạc gồm đại hồng chung, trống đại, trống võ, bồng, mõ, thanh la, chập chõa, sinh tiền, kèn, nhị ; Tiểu nhạc (hay Nhã nhạc) có đàn dây tơ : đàn nguyệt (2 dây), đàn tam (3 dây), tỳ bà (4 dây), đàn nhị (2 dây có cung kéo) ; có 2 sáo trúc, trống bảng một mặt, 3 thanh la nhỏ, sinh tiền.
     Việc thành lập những dàn nhạc không quan tâm đến số lượng mà đặt trọng tâm vào chất lượng và sự phối hợp màu âm : trong nhã nhạc, khi các nhạc công hòa tấu ta vẫn nghe rõ tiếng của từng cây đàn : tiếng chững chạc, trang nghiêm của đàn nguyệt, tiếng chuyền tiếng phi bay bướm của tỳ bà, tiếng trong vắt, vuốt ve nên lời dịu ngọt của đàn nhị, tiếng đục khi vê khi khảy của đàn tam, tiếng nỉ non, vi vút của hai chiếc sáo trúc, tiếng kim của tam âm la, tiếng mộc của sinh tiền, tất cả nhạc khí đồng theo tiếng nhịp của trống bảng khi khoan khi nhặt, khi vào nội phách, khi ra ngoại phách, tấu lên 10 bài Ngự, từ nhịp điệu khoan thai của mấy bản Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, lần lần dồn dập của mấy bài Hồ quảng, Liên hoàn, Bình bán, Tây mai, Kim tiền, rộn rã từ Xuân phong qua Long hổ, đi đến náo nhiệt như tiếng vó ngựa phi trong bài Tẩu mã.
     Thang  âm điệu thức đa dạng, tiết tấu phong phú, bài bản dồi dào.
     Công dụng, chức năng đa dạng : khi là nhạc lễ trong các tế giáo, tế miếu, trong những buổi đại triều, thường triều, khi là loại thính phòng cung trung chi nhạc, đàn cho vua chúa triều thần nghe chơi, lúc lại là những điệu nhạc giúp vui trong yến tiệc, phụ họa cho các điệu múa cung đình, cho những vở tuồng hát bội.
     Nhạc công, nhạc sĩ, các nghệ sĩ đàn ca, múa hát đều có kỹ thuật rất cao vì chỉ triều đình mới có khả năng tài chánh, quyền lực chính trị để qui tụ nhiều tài năng từ khắp nơi trong đất nước, có thể tạo điều kiện cho các nghệ sĩ ấy có thời gian và phương tiện trau dồi nghệ thuật để trở nên những nghệ nhân cao tay nghề, sáng tác dồi dào và biểu diễn tinh vi" (1).
     Để có được giá trị nghệ thuật lớn ấy, âm nhạc cung đình Việt và nhã nhạc cung đình Huế không những đã trải qua nhiều thế kỷ sáng tạo nghệ thuật, mà còn trải qua một thời gian dài giao lưu âm nhạc, tiếp biến văn hóa Việt - Chăm, Việt - Hoa, kể cả đem chuông đi đánh xứ người.
     Vài ví dụ : từ cuối thế kỷ 10, người Việt, thời Lê Đại Hành, đã tiếp thu âm nhạc cung đình Chămpa ; đầu thế kỷ 15, thời Lê sơ, âm nhạc cung đình triều Minh, Trung Quốc, được tham khảo, thậm chí bị sao chép ; cuối thế kỷ 18, triều Thanh đã có dịp thưởng thức cái mà họ gọi là "An Nam quốc nhạc" của thời Tây Sơn ; năm 1970, đoàn Ba Vũ (Huế) đã biểu diễn một số bài bản và điệu múa của Nhã nhạc cung đình Huế tại Expo quốc tế Osaka, Nhật Bản, v.v. để rồi 33 năm sau giới yêu chuộng âm nhạc ở năm châu bốn biển khám phá lại kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu này của Việt Nam dâng cho nhân loại.
     Vài niên đại, thời điểm, sự kiện vừa kể có thể làm chứng cho một cuộc đại phiêu lưu sáng tạo nghệ thuật và giao lưu văn hóa dài 10 thế kỷ của một dân tộc thương người, yêu thơ, mến nhạc, trọng nhân nghĩa, thủy chung, thiết tha công lý, khao khát hòa bình.
     Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, khi thưởng thức và trân trọng Nhã nhạc cung đình Huế, nói hay viết về nó, người Việt Nam chúng ta không thể không ghi ơn tất cả những ai đã góp phần sáng tạo nó, gìn giữ bảo vệ, phổ biến, ủng hộ, tài trợ nó, để có được cuộc trung hưng vẻ vang, xứng đáng với giá trị của nó như hôm nay.
     Đó là những điều sẽ được cố gắng gợi tả qua Niên biểu sơ lược này :

Niên biểu 10 thế kỷ lịch sử Âm nhạc cung đình Việt Nam và Nhã nhạc cung đình Huế

- Thời vua Lê Đại Hành (trị vì 980-1005)     Năm 982, vua xâm nhập lãng thổ vương quốc láng giềng Chămpa, chiếm kinh đô Indrapura rồi đưa về Hoa Lư 100 cung kỹ (ca nhi, vũ nữ) Chăm. Kể từ ấy, ảnh hưởng Chăm thâm nhập âm nhạc cung đình Việt.
- Đời Lý : triều đại quân chủ đầu tiên (thế kỷ 11 và 12)
     Trên nhiều bệ đá kê các cột chùa Vạn Phúc (còn gọi là chùa Phật Tích, vùng Kinh Bắc - Bắc Ninh) thấy chạm nổi một dàn nhạc 10 người chơi 8 nhạc khí : thổi tiêu, sanh (ống sáo), đánh phách, trống cơm, kéo nhị, gảy đàn cầm, đàn tam, tỳ bà. Dàn nhạc gồm 4 nhạc khí dây, 2 nhạc khí thổ, 2 nhạc khí gõ này gồm những nhạc khí thuần Việt, hoặc có gốc gác Ấn Độ, Chămpa, Trung Quốc (2).
- Thời vua Lý Thái Tông (1028-1054)
     Năm 1044, vua đánh Chămpa chiếm thành Phật Thệ, đưa về Thăng Long nhiều cung nữ giỏi hát múa Khúc điệu Tây Thiên (khúc hát, điêïu múa Chăm gốc gác từ Ấn Độ).
     Năm 1060, là người giỏi thơ văn, thích múa nhạc, vua đích thân phiên dịch một khúc nhạc Chămpa, ghi chép một điệu trống Chămpa rồi sai nhạc công tập luyện, biểu diễn.
     Năm 1069, vua đánh Chămpa, bắt được vua Chăm Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Chế Củ buộc lòng nộp 3 châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh (Quảng Bình, bắc Quảng Trị ngày nay) để chuộc lại tự do. Cuộc Nam tiến của người Việt bắt đầu. Một bộ phận nhân dân Đại Việt và một bộ phận nhân dân Chămpa bắt đầu chung sống với nhau, với cái tốt nhất và cái xấu nhất có thể xảy ra.
- Thời vua Lý Nhân Tông (1066-1128)
     Dựa trên sách sử và văn bia, nhà sử học – văn hóa học Trần Quốc Vượng đã "Phác họa chân dung nhạc sĩ Lý Nhân Tông" : đặc biệt giỏi âm luật, vua đích thân sáng tác những bài ca khúc nhạc cho nhạc công ca nữ cung đình luyện tập. Văn bia chùa Đọi ghi "Vua ta : tứ thơ thâu tóm thiên biến vạn hóa của Đất, Trời, nhạc phổ hòa hợp âm thanh của Đường, Phạn" (3).
- Thời vua Lý Cao Tông (1176-1204)
     Năm 1202, vua sai nhạc sĩ cung đình đặt ra Khúc nhạc Chăm ("Chiêm Thành âm") tiếng trong trẻo, ái oán, não nùng, người nghe phải chảy nước mắt.
- Đời Trần : thế kỷ 13-14
     Năm 1306, công chúa Huyền Trân, em vua Trần Anh Tông (1293-1314), "nước non ngàn dặm ra đi" sánh duyên cùng vua Chăm Chế Mân, và sính lễ là hai châu Ô và Rí (nam Quảng Trị, Thừa Thiên, bắc Quảng Nam). Sau khi công chúa ca bài Lý qua đèo, nhân dân hai vương quốc Đại Việt và Chămpa xích lại gần nhau hơn chút nữa, nhạc cung đình Thăng Long và nhạc dân gian Thuận Quảng "nhuộm màu Chàm" hơn chút nữa.
     Năm 1307, Lê Tắc, trong An Nam chí lược, cho biết : nhạc cung đình đời Trần có Đại nhạc, trong dân gian có Tiểu nhạc với cả thảy 12 loại nhạc khí : đàn gáo, đàn cầm, tỳ bà, thất huyền, tranh, tam, kèn tất lật, sáo dọc (tiêu), sáo ngang (địch), phách, tiểu bạt và trống cơm (phạn cổ). Trống này, Lê Tắc nói rõ là có gốc gác Chăm.
- Đời Lê sơ : đầu thế kỷ 15 - đầu thế kỷ 16
     Trị vì từ 1428 đến 1433, lê Thái Tổ (Lê Lợi) đã giao cho Nguyễn Trãi, tác giả Đại cáo bình Ngô, định ra qui chế triều phục và nhã nhạc. Chưa kịp triển khai thì vua mất.
     Lê Thái Tông (1434-1442) lại giao việc đó cho Nguyễn Trãi tiếp tục làm, cùng với quan hoạn Lương Đăng. Do trình độ tầm thường và tinh thần vọng ngoại của người này, Nguyễn Trãi xin trả lại công việc được giao. Vua ưng thuận rồi sau đó nghe theo ý kiến của Lương Đăng bất chấp sự phản đối của Nguyễn Trãi và bốn đại thần khác.
     Năm 1437, Lương Đăng trình vua hai loại nhạc cung đình mới sao chép theo qui chế nhã nhạc triều Minh : Nhạc ở trên điện vua và Nhạc ở dưới điện vua. Nguyễn Trãi tiếp tục phản đối và trình vua một quan điểm nhân văn và dân chủ cao quí về âm nhạc : "Đời loạn dụng võ, thời bình chuộng văn… Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân để chốn xóm thôn không còn tiếng oán hận buồn than. Như thế mới không mất cái gốc của âm nhạc" (Toàn thư). Vua khen ngợi tư tưởng của Nguyễn Trãi, nhưng việc thụ động sao chép nhạc nước ngoài là việc đã rồi. Năm năm sau, ngày 19-9-1442 cả nhà Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc.
     Năm 1470, Lương Thế Vinh, tác giả Hí phường phả lục, đã cùng Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận lại tham khảo nhã nhạc triều Minh và trình với vua Lê Thánh Tông (1460-1497), người đã chính thức tẩy oan và khôi phục danh dự cho Nguyễn Trãi năm 1464, hai loại nhạc cung đình mới : Đồng văn (khí nhạc) và Nhã nhạc (thanh nhạc).
     Giai đoạn tốt đẹp nhất của đời Lê là thời Hồng Đức của Lê Thánh Tông (1470-1497). Đó là giai đoạn của Hội Tao đàn, của Thánh Tông di thảo, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức bản đồ, Thiên Nam dư hạ tập… Nhạc cung đình đời Lê đạt đến đỉnh cao với 8 thể loại : nhạc Tế giao, nhạc Tế miếu, nhạc Tế ngũ tự (5 vị thần), nhạc cứu Mặt Trời, Mặt Trăng (khi có Nhật thực, Nguyệt thực), nhạc Đại triều, nhạc Thường triều, Nhạc cử 9 lần khi đại yến, nhạc dùng trong cung.
     Từ khi chịu ảnh hưởng Trung Quốc mạnh mẽ, nhạc cung đình Việt (được tôn là Nhã nhạc nghĩa là nhạc tao nhã) bắt đầu đối lập với nhạc dân gian lâu đời (vốn được các vua Lý, Trần quí trọng, bấy giờ bị chê bai là tục nhạc, nghĩa là nhạc thô thiển, thậm chí bị gọi là dâm nhạc, tức là nhạc bậy bạ), bị cấm không được trình diễn trong cung đình nữa. Toàn thư ghi : "bải bỏ các trò chèo hát".
- Thời Mạc, Lê trung hưng, Trịnh và Lê mạt  ở Thăng Long và Đàng Ngoài : thế kỷ 16-18
     Bên cạnh Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ 15-17), Lê triều hội điển (thế kỷ 17), tài liệu phong phú nhất về âm nhạc Đại Việt (Đàng Ngoài) thời kỳ này là những ghi chép quí báu của Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút và của Lê Qúi Đôn trong Kiến văn tiểu lục.
     Trong ba thế kỷ sau đời Lê sơ, ngoài các loại nhạc cung đình kể trên còn có Cổ xúy đại nhạc, Nhạc huyền, Quân nhạc, Nhạc Bả lệnh (dùng trong phủ chúa Trịnh), Nhạc Giáo phường (vốn là nhạc dân gian, được đưa vào cung đình thay thế cho Đồng văn và Nhã nhạc bị sa sút). Ba thế kỷ ấy cũng là thời nội chiến Mạc-Lê, Trịnh-Nguyễn liên miên, phân tranh chia cắt kéo dài, chúa tiếm quyền vua, nông dân khởi nghĩa, xã hội lầm than loạn lạc ; đó là những nguyên nhân góp phần làm cho nhạc cung đình Đàng Ngoài ngưng đọng và dần dần đình đốn.
- Thời các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong : 1623-1777
     Từ những năm 30 của thế kỷ 17, nhà văn hóa lớn của Đàng Trong là Đào Duy Từ (1572-1634) - tác giả của Hổ trướng khu cơ, Ngọa long cương vãn, Tư dung vãn, của hai lũy Trường Dục và Nhật Lệ còn gọi là Lũy Thầy - tương truyền là tác giả một số bài hát, điệu múa và vở hát bội cung đình. Về sau ông được thờ như một trong những vị tổ của âm nhạc và sân khấu Huế tại nhà từ đường Thanh Bình ở Huế đầu thế kỷ 19. Ông đã tiếp thu âm nhạc và sân khấu  Đàng Ngoài để giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1623-1634) lập ra một hệ thống lễ nhạc, triều nhạc mới ở Đàng Trong : Hòa thanh thự của các chúa ở Phú Xuân là một tổ chức nhạc cung đình lớn gồm ban nhạc, đội ca, đội múa đông đảo (Đại Nam thực lục tiền biên).
     Vào cuối thế kỷ 17 – đầu thế kỷ 18, nhạc cung đình Phú Xuân (Huế) đã khá hoàn chỉnh, phong phú, hấp dẫn, theo những ghi chép và đánh giá của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán, thượng khách của chúa Nguyễn Phúc Chu (1692-1725) sau chuyến đi thăm Phú Xuân và Đàng Trong. Được mời xem ca múa nhạc và hát bội tại phủ chúa, nhà sư cho biết điệu múa nổi tiếng thời đó là múa Thái liên (hái sen) diễn tả dáng dấp đài các, trang nhã, tình tứ của các cô tiểu hầu đô thành Đàng Trong vừa uyển chuyển chèo thuyền vừa tươi cười hái hoa. Các ca nhi vũ nữ ấy "đội mão vàng, áo hoa xanh dài phết đất, thoa son dồi phấn rất mực diễm lệ làm nao lòng người" (4).

- Thời Tây Sơn : 1788-1802
     Năm 1790, sau đại thắng Đống Đa ở Thăng Long, vua Quang Trung (giả) cầm đầu một đoàn sứ giả sang thăm hữu nghị triều Thanh ở Bắc Kinh, cống nạp lễ vật, cầu hòa và chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi. Hoàng đế phong cho vua Quang Trung tước "An Nam quốc vương" và vui vẻ thưởng thức đoàn "An Nam quốc nhạc" biểu diễn chúc thọ. Nhờ những ghi chép sinh động, cụ thể của Đại Thanh hội điển sự lệ và tập văn kiện ngoại giao Đại Việt quốc thư thời Tây Sơn mà nhạc cung đình của ta cuối thế kỷ 18 hiện ra khá rõ nét.
     Hội điển triều Thanh mô tả chính xác trang phục các nhạc công, ca công, vũ công của ta.
     Về phần nhạc khí, theo giáo sư Trần Văn Khê, nghệ nhân cung đình Tây Sơn chơi 8 loại nhạc khí mà hội điển triều Thanh đã ghi lại bằng chữ Nôm : "Một cái cổ (kai kou : trống), một cái phách (kai p’o), hai cái sáo (kai chao), một cái đàn huyền tử (kai-t'an hien-tse), một cái đàn hồ cầm (kai t’an hou k’in), một cái đàn song vận (kai t’an choang wen), tức là đàn nguyệt, một cái đàn tỳ bà (kai t’an p’i p’a), một cái tam âm la (kai san in lo).
     Về phần hát xướng, Đại Việt quốc thư của ta bổ sung như sau : Nhân dịp lễ thượng thọ của Càn Long 80 tuổi, đoàn quốc nhạc Đại Việt gồm 6 nhạc công và 6 ca công cung đình Phú Xuân đã biểu diễn cho hoàng đế nhà Thanh nghe "Nhạc phủ từ khúc thập điệu". Có thể đây chính là liên khúc 10 bản Thập thủ liên hoàn, còn gọi là Mười bản Tấu hay Mười bài Ngự nổi tiếng trong nhã nhạc cung đình Huế, thậm chí có nghệ nhân còn gọi sai là "Mười bản Tàu" (có sự lẫn lộn giữa Tấu và Tàu, Tầu) (5).

- Thời thịnh triều Nguyễn : 1802-1885
     Thời kỳ vàng son của âm nhạc cung đình Đại Việt, Việt Nam, Đại Nam là thời thịnh của triều Nguyễn từ khi Gia Long lên ngôi (1902) đến trước lúc kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ (1885).
     Theo những tài liệu chủ yếu như Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (đầu thế kỷ 19) và các công trình lớn của Quốc sử quán (giữa thế kỷ 19) như Đại Nam thực lục chính biên, Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ thì nhã nhạc cung đình Phú Xuân trong suốt 80 năm đã được phục hồi, chấn chỉnh và phát triển. Các loại Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung chi nhạc đã ảnh hưởng qua lại, thâm nhập lẫn nhau với nhạc cổ điển thính phòng (ca Huế, đờn Huế) và nhạc tuồng cung đình (thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế).
     Đáng chú ý là nhiều nhà hát, rạp hát lớn nhỏ của vua chúa, đại thần và của cả dân thường được xây dựng : đài Thông minh trong cung Ninh Thọ đời Gia Long, Duyệt thị đường trong hoàng cung đời Minh Mạng, Minh khiêm đường trong Khiêm cung (lăng Tự Đức), rạp hát Ông Hoàng Mười, nhà hát Mai Viên trong tư dinh thượng thư Đào Tấn đã không loại trừ hay lấn lướt sự tấp nập dân gian của những rạp hát Ông Sáu Ớt (Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đình họ Đoàn (ở An Cựu), rạp hát Bà Tuần (tồn tại đến 1975), v.v.
     Đời Gia Long (1802-1820), Việt tương đội, kế thừa Hòa thanh thự của các chúa Nguyễn, là một tổ chức âm nhạc cung đình lớn với 200 nghệ nhân ưu tú tuyển từ nhiều nơi trong nước. Sân khấu ca múa nhạc và hát bội đầu tiên được dựng lên là đài Thông minh, dành cho vua và hoàng gia.
     Đến đời Minh Mạng (1820-1840), nhà vua cho dựng nhà hát lớn đầu tiên trong lịch sử âm nhạc và kịch nghệ Việt Nam : Duyệt thị đường (1824), đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự với qui mô lớn hơn, lại lập thêm đội Nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, nhạc nữ ; đặc biệt triều đình còn cho dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế thờ Đào Duy Từ và hàng chục vị khác : đó là Thanh bình từ đường (1825), trước nhà thờ dựng bia và một sân khấu để biểu diễn trong các dịp tế lễ. Văn bia cho biết vào đời Minh Mạng âm nhạc và kịch nghệ cung đình đã phát triển tốt đẹp.
     Đời Tự Đức (1841-1883), âm nhạc thính phòng (ca Huế, đờn Huế), nhã nhạc và hát bội cung đình đạt tới đỉnh cao. Nhà hát lớn Minh Khiêm đường được dựng trong Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ trở thành Khiêm lăng). Ông hoàng bà chúa tham gia dựng rạp hát, sáng tác nhạc và tuồng hát bội. Tương truyền Tứ đại cảnh là một tác phẩm của Tự Đức (?), ông vua này đã lập ra một thứ Hội Tao đàn mang tên Hiệu thư phòng, nơi vua và các danh nho thời ấy xướng họa thơ văn, thưởng thức âm nhạc, sáng tác và nhuận sắc các vở tuồng hát bội. Nhà thơ và nhà soạn tuồng lỗi lạc Đào Tấn (1845-1907) là một trong những cột trụ của cơ quan văn hóa cung đình ấy. Thời Tự Đức, nhiều tác phẩm viết về nhạc Huế cổ điển và cung đình ra đời (được các nhạc sĩ Vĩnh Phan, Nguyễn Hữu Ba, giáo sư Hoàng Xuân Hãn sưu tầm, gìn giữ) : đó là những Nam cầm phổ, Nguyệt cầm phổ… ghi dấu một thời vang bóng.

- Thời suy triều Nguyễn : 1885 -1945
     Thực dân Pháp gây hấn và bắt đầu xâm lược vương quốc Đại Nam từ Đà Nẵng rồi lấn chiếm dần các tỉnh Nam bộ, Bắc bộ (1858-1883). Triều đình vội ký hàng ước rồi tháng 8-1885 kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ. Các vua Nguyễn sau Tự Đức đều được Pháp đưa ra ngồi làm vì, mất hết thực quyền. Đời sống cung đình tẻ nhạt, âm nhạc cung đình ngày càng sa sút.
     Thành Thái (1889-1925) lập Võ can đội, rồi thêm đội Đồng ấu (nhạc công diễn viên thiếu niên làm dự bị cho Võ can đội). Tất cả đều hoạt động lai rai, cầm chừng.
     Khải Định (1916-1925) dựng thêm nhà hát Cửu tư đài trong cung An Định.
     Trong thời gian từ 1914 đến 1944, một sự kiện văn hóa đáng ghi nhớ : Tập san Những Người Bạn của Huế Cổ Kính (Bulletin des Amis du Vieux Huế, tiếng Pháp) ra đời tại Huế và đã xuất bản tổng cộng 120 tập, dày hàng vạn trang trong suốt 30 năm, dưới sự điều khiển của hai nhà Việt Nam học lỗi lạc : linh mục Cadière và ông Orband. Nhiều bài khảo tả có giá trị về âm nhạc và lễ hội cung đình được công bố, nổi bật là công trình của Hoàng Yến (1919) về Âm nhạc ở Huế và của R. Orband về Lễ tế Nam Giao.
     Thời Bảo Đại (1933-1945), Võ can đội đổi thành Ba vũ đội gồm cả một đội Đại nhạc và một đội Tiểu nhạc với khoảng 100 nhạc công, ca công, vũ công hoạt động rời rạc trong lúc chờ đợi làm nhiệm vụ chính : tham gia phục vụ phần nhạc và múa trong lễ Tế Nam giao (tổ chức ba năm một lần). Ba vũ đội quen được gọi là đội Nhạc chánh Nam triều.
     Năm 1942, triều Nguyễn cử hành lễ Tế Nam giao, cũng là lần cuối cùng Nhã nhạc cung đình Huế biểu diễn trọng thể và đúng qui cách trước công chúng.
     Ngày 31-8-1945, trên khán đài uy nghi của Ngọ Môn, ông vua cuối cùng của triều Nguyễn thoái vị. Nhã nhạc cung đình tạm thời rã đám.

- Nửa thế kỷ cố gắng phục hồi : 1945-1993
     Một ít lâu sau ngày Bảo Đại thoái vị, cựu hoàng thái hậu mà nhân dân Huế thời ấy cẩn kính gọi là Đức Từ Cung (hay Đức Từ) thực sự là người có công cứu Nhã Nhạc cung đình Huế thoát nguy cơ tuyệt tự. Từ 1946 đến 1975, với tiền riêng và biết chọn mặt gởi vàng, bà ủy nhiệm cho ông Nguyễn Hữu Hòa (tức Đội Hòa, con ông Đội Thức, người chỉ huy Ba vũ đội nổi tiếng một thời) đi gom một số nhạc công cung đình thất nghiệp (Lữ Hữu Thi, Nguyễn Mạnh Cẩm, La Cháu, Nguyễn Kế, Trần Kích…) rồi lập lại một ban lễ nhạc gồm khoảng mươi người và các con cháu thạo nhạc của họ để thỉnh thoảng phục vụ các buổi tế lễ, kỵ lạp do bà và Tôn nhơn phủ tổ chức. Chính các cụ nghệ nhân ấy (năm nay nếu còn sống thì cũng đã trên 90 xuân) và con cháu của họ là hạt nhân của đoàn Ba vũ đã hoạt động cầm chừng tại Huế cho đến trước 1975.
     Năm 1962, được sự tài trợ của Viện bảo tàng quốc gia nghệ thuật Á Đông Guimet và Trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học (CNRS) Pháp, luận án tiến sĩ của Trần Văn Khê, La Musique vietnamienne traditionnelle, được nhà xuất bản PUF (Paris) cho phát hành. Lần đầu tiên hơn 100 trang nghiên cứu nhạc học bằng tiếng Pháp được dành cho Nhã nhạc cung đình Huế. Sau khi tác phẩm này được công bố, trong những thập niên 1960-1990, Trần Văn Khê đã được nhiều nhà xuất bản các bộ bách khoa thư Âu, Mỹ mời viết về nhạc Việt Nam và nhạc châu Á.
     Trong những năm 1963-1968, hai nhà nhạc học Việt Nam, Nguyễn Hữu Ba (Tỳ bà trang, Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Huế, Sài Gòn) và Trần Văn Khê (CNRS, CEMO Paris) được viện trưởng Viện Quốc Tế Nghiên Cứu Âm Nhạc Đối Chiếu (Tây Bá Linh), Alain Daniélou, tài trợ. Tại Huế, nghệ sĩ Nguyễn Hữu Ba, người trực tiếp phụ trách sưu tầm, ghi âm, chụp ảnh, tập hợp tài liệu nghiên cứu… làm việc với ông Đội Hòa và các lão nghệ nhân trong và ngoài đoàn Ba Vũ để ghi âm nhiều bài bản nhạc Huế cổ điển và cung đình. Sau gần sáu năm làm việc, nhiều tác phẩm âm nhạc cổ điển và nhạc cung đình Huế sẽ được chọn lọc và công bố trong một đĩa nhựa vinyl dành riêng cho âm nhạc Việt Nam, do Unesco bảo trợ trong Bộ Hợp Tuyển Âm Nhạc Phương Đông (Anthologie musicale de l'Orient).
     Năm 1967, cuốn Musique du Vietnam của Trần Văn Khê được nhà xuất bản Buchet-Chastel Paris phát hành. Trong tác phẩm cập nhật hóa này (được bổ sung năm 1996), tác giả đã dành hơn 50 trang để nói về nhạc khí, lịch sử và giá trị nhạc cổ điển, nhạc cung đình Huế.
     Năm 1969, Unesco công bố cùng một lúc tại Paris, New York và Cộng Hòa Liên Bang Đức đĩa hát Âm nhạc Việt Nam I : truyền thống Huế, do Trần Văn Khê và Nguyễn Hữu Ba ghi âm và giới thiệu bằng ba thứ tiếng (Anh, Pháp, Đức), và Viện Quốc Tế Nghiên Cứu Âm Nhạc Đối Chiếu phát hành (Barenreiter Musicaphon BM30L2022). Nội dung đĩa hát gồm 11 tác phẩm về lễ nhạc, nhạc tôn giáo và nhạc tiêu khiển : Mã vũ và Mang, Phượng vũ, Đăng đàn, Mười bài Ngự, Đào điên, Ngũ lôi cổ, Tụng Lăng nghiêm, Tán Nhứt điển, Độc tấu đàn bầu, Phú lục chậm và Tứ đại cảnh.
     Ngay sau khi được phát hành, đĩa hát này đã liên tiếp nhận hai giải thưởng lớn : Giải âm nhạc Deutscher Schallplatten của Cộng Hòa Liên Bang Đức năm 1969 và Giải dân tộc nhạc học của Viện Hàn Lâm Đĩa Hát Pháp năm 1970. Sự thành công của đĩa hát âm nhạc truyền thống Huế này đánh dấu sự sống lại của một di sản văn hóa từ lâu bị lãng quên. Từ sau ngày đó thế giới văn hóa biết đến nền âm nhạc cổ điển, nhạc cung đình Việt Nam xứng đáng sánh vai với Ya-yue của Trung Quốc, Gagaku của Nhật Bản, Ah-ak của Triều Tiên.
     Năm 1970 một đoàn nghệ nhân Việt Nam, do giáo sư Nguyễn Hữu Ba dẫn đầu, đã được mời lên biểu diễn trên sân khấu lớn của Expo quốc tế Osaka (Nhật Bản), một số bài ca bản nhạc và điệu múa cung đình.
     Năm 1981, tổng giám đốc Unesco Amadou Matar M’Bow đến Hà Nội và Huế phát động Cuộc vận động quốc tế giúp Việt Nam bảo vệ trùng tu di tích lịch sử, văn hóa Huế. Nhân buổi biểu diễn ca múa nhạc cung đình tại Huế, chào mừng đoàn thượng khách, giáo sư Trần Văn Khê đã gợi ý với tổng giám đốc Unesco nên bảo vệ nền thi ca, âm nhạc, vũ điệu, kịch nghệ của cung đình Huế, vì đó là cái hồn, cung điện lăng tẩm của cố đô chỉ là cái xác.
     Năm 1997, nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế) công bố cuốn Âm nhạc cung đình triều Nguyễn của Trần Kiều Lại Thủy, công trình đầu tiên bằng tiếng Việt đáng chú ý về đề tài này.
     Di tích lịch sử - văn hóa cố đô Huế và Nhã nhạc cung đình Huế được nhìn nhận là di sản văn hóa chung của nhân loại : 1993-2003
     Tháng 6-1993, Unesco tổ chức Hội thảo quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại tại Paris, trong đó dự án bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của cố đô Huế và của các sắc tộc thiểu số Việt Nam.
     Tháng 12-1993, tổng giám đốc Unesco, ông Federico Mayor, tuyên bố Tổng thể di tích lịch sử - văn hóa cố đô Huế, di sản nghệ thuật kiến trúc của Việt Nam, là di sản văn hóa của nhân loại.
     Để chuẩn bị lễ kỷ niệm 10 năm (1993-2003) cố đô Huế được nhìn nhận là di sản văn hóa của nhân loại, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đã lập : Dự án qui hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa (trình chính phủ), Hồ sơ Nhã nhạc cung đình Huế (trình Unesco), thành lập Nhà hát nghệ thuật cung đình Huế, xuất bản nhiều sách nghiên cứu và sách giới thiệu di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Huế…
     Đầu năm 1994, Unesco tổ chức hai buổi hội thảo quốc tế khác, một tại Hà Nội về Di sản văn hóa phi vật thể các sắc tộc Tây Nguyên do giáo sư G. Condominas chủ tọa và một tại Huế về Di sản văn hóa phi vật thể cố đô Huế do bà Noriko Aikawa và giáo sư Trần Văn Khê chủ tọa.
     Tháng 7-1994, cơ quan văn hóa Arion Edo của Nhật Bản mời đoàn nghệ thuật âm nhạc và múa cung đình Huế, do nữ nghệ nhân La Cẩm Vân dẫn đầu, biểu diễn tại Đại nhạc hội quốc tế mùa hè ở thủ đô Tokyo, cố đô Kyoto và nhiều thành phố khác. Đài truyền hình NHK đã chiếu lại toàn bộ các buổi trình diễn cho dân chúng Nhật Bản xem.
     Năm sau, do sự vận động của hai giáo sư Yamakuti Osamu và Tokumaru Yoshihito, quỹ Toyota Foundation đã tài trợ cho đoàn nghiên cứu nhạc học và chuyên viên kỹ thuật nghe nhìn Nhật Bản, với những trang bị tối tân nhất, sang Việt Nam thu âm và ghi hình tất cả những gì mà các lão nghệ nhân còn nhớ được về Nhã nhạc cung đình Huế để mang về nghiên cứu. Tất cả đã được đúc kết lại thành bộ Hồ sơ nhạc học sinh động và đồ sộ tồn trữ tại Viện đại học Osaka và Tokyo, bản sao gởi tặng Việt Nam.
     Những năm kế tiếp, 1995 và 2002, hai đoàn nghệ thuật Việt Nam (hát ả đào, nhạc cổ điển và cung đình Huế) đến Pháp trình diễn tại trụ sở Unesco (Paris), Nhà Văn hóa Thế giới Paris, nhiều thành phố khác tại Pháp và châu Âu. Các lão nghệ nhân cung đình đã được hoan nghênh nhiệt liệt.
     Năm 1997, hai giáo sư Yamakuti và Tokumaru lại vận động quỹ Japan Foundation tài trợ cho Đại học Huế mở lớp đào tạo 4 năm Nhã nhạc cung đình. Tháng 6-2000, dưới sự dìu dắt của hai nghệ nhân lão thành và ba giảng viên nhạc học, 11 sinh viên đầu tiên được cấp bằng tốt nghiệp cử nhân âm nhạc cung đình.
     Trong hai ngày, 26 và 27-8-2002, Hội thảo quốc tế về Nhã nhạc cung đình lần đầu tiên được tổ chức tại Huế. Nhân dịp này bà Noriko Aikawa, trưởng Vụ văn hóa và sáng tạo nghệ thuật Unesco, và giáo sư Trần Văn Khê đã giúp phía Việt Nam chấn chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hồ sơ Nhã nhạc cung đình trình Unesco.
     Đầu năm 2003, loạt bài của nghệ sĩ Trịnh Bách viết về Nhã nhạc cung đình triều Nguyễn (6) chứa đựng nhiều tư liệu độc đáo về nhã nhạc cung đình Việt Nam, nhất là đã làm bất tử những các cụ nghệ nhân, những "di sản văn hóa sống" : Lữ Hữu Thi, Lê Văn Lương, Lữ Hữu Cử…
     Ngày 7-11-2003, tại Paris, tổng giám đốc Unesco, ông Koichiro Matsura, tuyên bố Nhã nhạc cung đình Huế cùng với 27 kiệt tác của các nước khác được nhìn nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.
     Trong buổi trao bằng Di sản văn hóa phi vật thể Nhã nhạc cung đình Huế ngày 31-1-2004, hơn một ngàn người có mặt trong hội trường Unesco (Paris) đã có dịp thưởng thức bài Tam luân cửu chuyển, Mười bài Ngự, các điệu múa Lân mẹ đẻ lân con, Lục cúng hoa đăng… đặc sắc của những nghệ nhân Việt Nam, trong đó có cụ Trần Kích 90 tuổi.
     Để kết thúc, xin mượn lời tâm huyết của giáo sư Trần Văn Khê : "Chúng ta rất vui mừng, phấn khởi khi được thế giới công nhận nhạc cung đình Việt Nam là một kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại… Di sản văn hóa của ông cha ta để lại có bề dày của lịch sử, bề sâu của nghệ thuật. Chúng ta nên vô cùng thận trọng trong việc giữ gìn và nhất là trong việc phát triển. Đừng để cho nhiệt tình của chúng ta […] làm biến chất cái hay của truyền thống".
     Đó cũng là lời nhắn nhủ dành riêng cho những người làm công tác quản lý văn hóa ở trong nước : Phải biết gìn giữ trọn vẹn di sản của ông cha cho con cháu.

Lê Văn Hảo (Paris)

Chú thích :
(1) Trần Văn Khê, tham luận đọc tại Hội thảo quốc tế Nhã nhạc cung đình Huế, Huế, 26-27 tháng 8-2002 : "Giá trị lịch sử và nghệ thuật của Nhã nhạc cung đình Huế", tạp chí Kiến thức ngày nay, tháng 9-2002, tr. 7-11.
(2) Phát hiện khảo cổ học tại chỗ của Louis Bezacier năm 1940 ; Nghiên cứu nhạc học của Trần Văn Khê cuối thập kỷ 1950.
(3) Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, 2000, tr.712.
(4) Bản dịch Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, 1963.
(5) Đại Thanh hội điển sự lệ, bản in 1908, quyển 528, Thư viện Hội châu A Paris ; Đại Việt quốc thư, Trung tâm Học liệu Bộ Giáo Dục xuất bản, Sài Gòn, 1962.
(6) Tạp chí Xưa và Nay, Hà Nội, số 134-136, tháng 2/ 3-2003.

Nguồn: yahoo.com


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mẹo Comment

Chú ý: chỉ cần dán link vào, không cần gõ thẻ khi post
Hình (file có đuôi jpg, jpeg, png, bmp, gif ),
Nhạc (file có đuôi mp3 hoặc từ trang web nhaccuatui),
Video (từ Youtube)

Đổi cỡ, màu chữ:
[color="red"][size="20"] chữ cỡ 20 màu đỏ [/size][/color]
(màu dùng mã hexa hoặc tiếng Anh: red, blue, green, violet, gold ..)
Giới thiệu link: <a href="link"> tên link </a>
Chữ đậm <b> chữ đậm</b>
Chữ nghiêng: <i> chữ nghiêng </i>

Chèn Yahoo smiley (click Chèn emoticons để xem phím tắt)
Đã thêm mấy smiley nhưng chưa rảnh thêm vào bảng chèn. Phím tắt:

:-/ bối rối ;) nháy mắt ;;) đá lông nheo
:"> thẹn :X yêu thế =(( tan nát cõi lòng

Chú ý Nếu nút Trả lời ko hoạt động, xin chịu khó lên thanh địa chỉ, gõ thêm vào cuối (ngay sau html) ?m=1 rồi nhấn Enter, nút Trả lời sẽ ok. (29/11/18)

Chèn Emoticons
:))
:D
:p
:)
:(
:-o
:-*
=))
:((
:-?
:-h
~o)
@};-
:D
[-X
=D>
*-:)
B-)
X(
:@)