Tháng 10.1970, tôi đến Bạc Liêu, dạy môn triết học cho học sinh các lớp đệ nhất (lớp 12) tại tỉnh này. Thuở ấy, mỗi tỉnh chỉ có một người dạy môn triết cho lớp đệ nhất đi thi tú tài.
Làm quen với âm nhạc tài tử
Đất Bạc Liêu là nơi hội tụ của ba nguồn văn hóa Việt, Hoa và Khmer. Tự căn cơ, Bạc Liêu có một nền văn hóa thâm hậu. Tính tôi lại ham chơi, thích tìm hiểu nên lúc nào rảnh việc lại đi xem những ngôi nhà cổ do Pháp để lại, những đền chùa và những đêm biểu diễn nghệ thuật của người Hoa và Khmer.
Thuở ấy, người ta chỉ có thể nghe nhạc qua radio. Tối thứ sáu và tối chủ nhật hằng tuần, học trò của tôi cũng nghe nhạc của hai ban Tiếng nhạc tâm tình và Tiếng tơ đồng trên Đài phát thanh Sài Gòn. Nghe nhiều, các em hiểu ra Thu, hát cho người và Chiều mơ do Anh Ngọc, Hà Thanh, Ngọc Long, Mai Hương, Quỳnh Dao, Vân Quỳnh, Vân Hà, Lệ Thu... hát chính là sáng tác của thầy mình.
Các em có ý định rủ tôi cùng đi nghe và xem những ban đàn ca tài tử địa phương biểu diễn. Tôi đã được học một chút âm nhạc Tây phương để sáng tác ca khúc, vốn chỉ quen với thanh nhạc qua những nhạc cụ định âm, nốt nào ra nốt đó như guitar, piano, mandoline, kèn saxo... Bấy giờ, được làm quen với đàn ca tài tử, tôi cảm thấy thú vị với những âm thanh chơi vơi, lơ lửng 1/4, 1/8, thậm chí 1/16 ton từ các nhạc cụ guitar phím lõm, đàn kìm, đàn cò, đàn tranh... phát ra.
Ông Cao Văn Lầu |
Buổi gặp gỡ thật cảm động. Nhạc sĩ Cao Văn Lầu đeo kiếng trắng, bận một bộ bà ba trắng, phong cách rất ung dung, điềm đạm. Ông bắt tay tôi, gọi tôi là “cháu”. Ông nói: “Bác chỉ quen sáng tác và sinh hoạt đờn ca bên cổ nhạc. Bây giờ, bác lớn tuổi quá rồi, hơi hám chẳng còn bao nhiêu, chỉ dám nghe đờn ca chớ ít khi dám ca. Các cháu đến thăm chơi muốn nghe bài Dạ cổ hoài lang, bác cũng ca cho các cháu nghe vậy”.
Cây đàn kìm của bác thật cũ kỹ, mặt đàn đã tróc hết sơn, căng hai sợi dây cước. Có lẽ cây đàn đó đã gắn bó máu thịt với cuộc đời nghệ sĩ của bác từ rất lâu. Bác vặn khóa, so dây; ngồi theo tư thế chân trái co lại hình chữ V sát mặt ván, chân phải cũng co lên hình chữ V tỳ gối vào nâng thùng đàn. Và ông ca bài Dạ cổ hoài lang:
Từ, (là) từ phu tướng.
Báu kiếm sắc phán lên đàng.
Vào ra luống trông thơ nhạn.
Năm canh mơ màng.
(Trông ngóng) trông tin chàng.
Gan vàng càng lại thêm đau.
Lòng dầu say ong bướm.
Xin cũng đừng phụ nghĩa
tào khang.
Đêm luống trông tin bạn.
Ngày mỏi mòn như đá
vọng phu.
Vọng phu vọng luống trông
tin chàng.
Xin đó chớ phụ phàng.
Chàng (là) chàng có hay.
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây.
Bao thuở đó đây sum vầy.
Duyên sắc cầm tình thương
với nhau.
Nguyện cho chàng.
Đặng chữ bình an.
Trở lại gia đàng.
Cho én nhạn hiệp đôi với
đó đây.
Tôi hiểu một tác phẩm âm nhạc có giá trị nghệ thuật tiêu biểu cho dòng nhạc phương Nam, thể hiện sâu sắc tính nhân văn thì mới được người đi sau phát triển thành bài ca vọng cổ “phủ sóng” khắp cả nước
|
Tôi hiểu khi bác sáng tác bài ca này, chắc chắn bác đã đọc Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn (Đoàn Thị Điểm dịch Nôm) nhiều lần. Một số khái niệm cổ được bác viết trong ca từ mang đậm dấu ấn của tác phẩm văn học này: phu tướng, báu kiếm (bảo kiếm), thơ nhạn (nhạn tín), nghĩa tào khang, đá vọng phu, sầu tây…Bài ca chỉ bao gồm 20 câu, trong đó câu 4 và câu 12 rơi vào nhịp ngoại - phách yếu (temps faible), các câu còn lại đều rơi vào phách mạnh (temps fort). Ở những chỗ rơi vào nhịp ngoại, nhạc sĩ Cao Văn Lầu viết chữ (của ca từ) trước, sau đó mới đánh dấu bằng (=). Ở những câu bình thường rơi vào phách mạnh, nhạc sĩ Cao Văn Lầu viết chữ cuối (của ca từ) rồi đánh dấu bằng (=) dưới chữ ấy. Tôi mường tượng ở những chỗ có dấu bằng, song loan (mõ nhỏ dùng để điểm nhịp trong các đàn nhạc tài tử) phải gõ đúng vào đó, nhắc cho người ca biết đó là phách mạnh để ca khỏi trật nhịp.
Về chủ âm của bài ca, tôi đồ chừng Dạ cổ hoài lang viết cho giọng đào (chuyên ca bài vọng cổ) ca. Nếu đối chiếu qua thanh nhạc Tây phương thì chủ âm của bài ca này ở vào khoảng Ré thứ (Ré mineur), cao nhất thì cũng chỉ Mi thứ (Mi mineur) là cùng. Âm vực của Dạ cổ hoài lang khá rộng - bao gồm 13 nốt. Đặc biệt nốt nhạc ở quãng 6 luôn luôn được thăng lên một bán âm, rõ ra phong cách âm nhạc dân ca Nam Bộ.
Năm 1975, tôi xa xứ Bạc Liêu. Năm 1999, tôi và nhạc sĩ Nguyễn Đức Trung được mời về Bạc Liêu biểu diễn. Trước khi đêm nhạc chủ đề của tôi và nhạc sĩ Nguyễn Đức Trung diễn ra tại rạp Cao Văn Lầu, Tỉnh ủy và UBND tỉnh có một buổi gặp mặt với các nhạc sĩ, ca sĩ. Trong buổi gặp mặt, ông Nguyễn Văn Út - Bí thư Tỉnh ủy, nói với tôi: “Tỉnh mình có Dạ cổ hoài lang là cái vốn quý của âm nhạc dân tộc. Ông nghiên cứu giúp làm sao phục dựng và phát triển giá trị của Dạ cổ hoài lang”. Tôi đồng ý với ông bí thư tỉnh ủy.
|
Về bản chất, Dạ cổ hoài lang là một bài ca, một ca khúc (chanson). Mà hễ là một ca khúc thì nó phải có phần thanh nhạc làm giai điệu (mélodie) và phần ca từ (parole) diễn đạt nội dung. Làm thế nào để có một Dạ cổ hoài lang đúng nghĩa là ca khúc?
Để ký âm lại bài Dạ cổ hoài lang, năm 1999, tôi đề nghị thạc sĩ Vưu Long Vỹ - Phó giám đốc Trung tâm văn hóa tỉnh Bạc Liêu - ca cho tôi ghi âm vào băng cassette bài này. Ông Vưu Long Vỹ đã ca mộc (không dùng tới dàn nhạc) nhưng vẫn bảo đảm tiết tấu. Sau đó, tôi thu thêm tiếng ca mộc của năm nghệ nhân ở Bạc Liêu.
Tính dị bản quá lớn
Tôi qua bảo tàng tỉnh xin được xem bài ca chép tay của bác Cao Văn Lầu. Tôi thấy bác ghi như thế này:
Từ, từ phu tướng.
Hò là hò xang cống.
Múa Dạ Cổ Hoài Lang tại lễ hội 90 năm Dạ Cổ Hoài Lang (Bạc Liêu, 2009) Ảnh Huy Thái |
Điểm thứ hai là ngay trong bốn chữ đờn, bác Sáu Lầu lại dùng một từ (Là) thay cho chữ đờn. Như vậy muốn diễn tả từ Là đó thì cả thầy đờn và người ca phải ca thêm một chữ đờn nữa. Vậy chữ ấy tương ứng với cao độ của nốt nào? Tôi thật sự hơi lo khi thấy trong những văn bản chép tay của bác Sáu Lầu có những chữ bị xóa, ca từ của bản này có một vài từ khác so với bản kia.
Ngay trong nội dung ca của ông Vưu Long Vỹ và năm nghệ nhân ở Bạc Liêu thì ca từ của sáu người cũng khác nhau. Về thanh nhạc, sự khác biệt lại càng cao hơn. Như đã trình bày, nếu ký âm Dạ cổ hoài lang ra thanh nhạc Tây phương cung Mi mineur, thì ông Vưu Long Vỹ ca câu đầu tiên:
Từ là từ phu (luyến) tướng.
Mi Si Mi La-Si Do#.
Năm nghệ nhân còn lại ca:
Mi Mi Mi La-Si Do#.
Cao độ nốt thứ nhì Si (quãng 4) của ông Vỹ ca và cao độ nốt thứ nhì Mi (chủ âm, quãng 1) của năm giọng ca còn lại cách nhau một trời một vực, trong đó thanh nhạc của câu ông Vỹ ca đẹp hơn.
Tôi hiểu Dạ cổ hoài lang nguyên gốc là một bài ca chính quy; sau khi ra đời, đã được các nghệ sĩ cổ nhạc và đàn ca tài tử rất ưa chuộng. Người học trò học thì chân phương - ngay ngắn như quy tắc của thầy dạy nhưng biểu diễn thì hoa lá - có sự thêm thắt, sự sáng tạo riêng tùy theo cảm hứng. Chính vì vậy, Dạ cổ hoài lang từ tác phẩm âm nhạc chính quy đã nhanh chóng trở thành tác phẩm âm nhạc dân gian, mang theo tính dị bản rộng rãi.Sau khi nghe sáu bản ca, đối chiếu với những bản ca khác của các nghệ sĩ cải lương đã được thu thanh, tôi ký âm lại Dạ cổ hoài lang theo solfège của thanh nhạc Tây phương. Tôi chọn chủ âm là cung Mi mineur, tương đương với cao độ giọng đào hát bài vọng cổ, nhịp của bản nhạc là 2/4. Tôi thăng quãng 6 lên một bán âm, tất cả nốt Do đều thăng lên thành Do dièse (Do#). Đầu bản nhạc, tôi đề: “Dạ cổ hoài lang. Sáng tác: Cao Văn Lầu. Ký âm lại: Vũ Đức Sao Biển”.
Bản nhạc ký âm xong, tôi đưa cho ca sĩ Hương Lan hát với hòa âm của nhạc sĩ Đức Trí; ca sĩ Hạnh Nguyên hát với hòa âm của nhạc sĩ Quốc Dũng. Hai nhạc sĩ hòa âm rất hay, sử dụng nhạc cụ định âm của Tây phương nhưng nhạc nền nghe ra vẫn rất... cổ nhạc Nam Bộ. Cả hai ca sĩ hát đều tốt, thu thanh cũng tốt mà ra biểu diễn ở Hà Nội cũng được người yêu nhạc khen ngợi.
Những tranh biện về "Dạ cổ hoài lang"
Năm 2009, ngành văn hóa tỉnh Bạc Liêu tổ chức hội thảo về bài Dạ cổ hoài lang tại trường Nghệ thuật sân khấu TP.HCM. Trong hội thảo này, giáo sư Trần Văn Khê phát biểu nên “chuẩn hóa” lại ngôn ngữ trong ca từ bài Dạ cổ hoài lang giúp người xưa. Ông ví dụ khái niệm “báu kiếm” mà người ta hay ca. Ông lý luận cách dùng từ ngữ như vậy là nửa Hán nửa Nôm, không đúng với quy chuẩn ngôn ngữ Việt Nam. Nếu thuần Việt thì nó là “kiếm báu”; nếu Hán Việt thì nó là “bảo kiếm”. Hoặc ta ca theo thuần Việt “Kiếm báu sắc...”; hoặc ta ca theo từ Hán Việt “Bảo kiếm sắc...”...
Trong phần tham luận của tôi, tôi mong phục hiện Dạ cổ hoài lang về cả ca từ và thanh nhạc. Bởi lẽ một khi đã nói đến bài ca, bản nhạc (chanson) thì phải có nhạc chuẩn; yêu cầu người ca, người biểu diễn phải ca (hát) đúng cao độ, trường độ, cường độ. Người ca hát có “hoa lá” đến đâu thì cũng chỉ được phép hoa lá trong quy ước của âm nhạc. Tôi đưa thí dụ một nữ ca sĩ tân nhạc hát bài do tôi ký âm lại thu đĩa. Trong câu “Em luống trông tin chàng”, tôi ký âm chữ chàng với nốt Si. Nhạc sĩ hòa âm nhạc nền cũng chuyển qua ngũ trình át âm cung Si bicarre thứ. Ấy vậy mà chị vẫn hát chữ chàng với nốt Là - tứ trình át âm, nghe chẳng ra làm sao cả.
Mong ngành văn hóa Bạc Liêu chính thức có được một bài ca Dạ cổ hoài lang, công bố nó như một giá trị văn hóa phi vật thể quý giá của tỉnh mà chỉ Bạc Liêu mới có được
|
Vũ Đức Sao Biển
Nguồn: thanhnien.com.vn
Hạnh Nguyên
Út Trà Ôn
Ngọc Giàu
Phi Nhung
Cẩm Ly
Đêm Gành Hào Nghe Điệu Hoài Lang - Vũ Đức Sao Biển - Đông Đào ca
Đất Phương Nam - Lư Nhất Vũ & Lê Giang - Tô Thanh Phương ca
Em nghe Dạ Cổ Hoài Lang lâu lắm òi, chắc phải gần 30 năm, Út Trà Ôn ca, buồn như chấu ... sau này cứ thấy ai ca bài này là đi ... chỗ khác. Hic !
Trả lờiXóaĐất Phương Nam nghe nao lòng quá nghe lại vẫn hay. Về miền Tây cách đây gần 30 năm sẽ thấy những bài ca này rất đặc trưng cho Nam Bộ. Hồi ấy chưa hề có cái cầu nào, cũng chưa có nhà cao tầng(3 tầng trở lên) vùng đồng bằng trù phú xanh rì bình yên thiên nhiên tĩnh mịch.... đi xuồng trái cây rau xanh bạt ngàn . Hồi đó mua xoài chục 16 trái hoặc 18 trái ăn mệt nghỉ hic !
Lâu rồi ko về miền Tây, ko biết hồi này ra sao. Thời anh về miền Tây vào một số thôn làng - dân Khmer chiếm đến 90%, thì thậm chí trừ các ngôi chùa - thường được xây rất to đẹp, còn nhà dân cả làng chưa có nhà gạch.
Xóa