Làm thế nào?
minh họa: Hoàng Tường |
Triết học cũng luôn bị chế nhạo: nếu đối tượng của nó là “tất cả và không là gì cả” (Gai nhọn hay hoa hồng, SGTT 16.6.2010) thì phương pháp của nó sẽ là gì? Chỉ là một phương pháp chung chung, trị bách bệnh theo kiểu: “Hãy suy nghĩ rõ ràng và mạch lạc! Hãy suy nghĩ hợp lôgíc!”? Cuộc thảo luận về phương pháp trong triết học kéo dài bất tận, vì nó không chỉ là cuộc thảo luận về phương pháp đúng mà trước hết là cuộc thảo luận chung quanh một khái niệm đúng về phương pháp! Nghĩa là, trước hết phải hỏi: làm sao tiến hành có phương pháp để tìm ra một phương pháp (nếu có!). Quả là một vòng tròn luẩn quẩn. Phương pháp đúng – nếu không phải từ trời rơi xuống – làm sao tìm thấy được, một khi nó chưa có! Do đó, bản thân việc đi tìm một phương pháp triết học đã là một vấn đề triết học. Khi triết học đã gắn bó với một phương pháp nhất định nào đó, ắt nó sẽ tự động xem các nền triết học còn lại (theo phương pháp khác hoặc đang đi tìm phương pháp) là chưa phải triết học, không phải triết học hay thậm chí phản-triết học. Rồi nó cũng xem cả con đường đã dẫn nó đến với phương pháp ấy chưa phải là con đường “đúng đắn”. Làm như thể từ khi có được phương pháp, nó mới thực sự là triết học, trong khi quên rằng chính con đường chưa được định hình trước đây mới là người mẹ đẻ đích thực của phương pháp hiện nay.
Thêm một khó khăn nữa: bản thân phương pháp không thể tự biện minh cho chính mình một cách… có phương pháp được! Cũng như không thể dùng chính phương pháp đã gây ra vấn đề để giải quyết vấn đề: con dao sắc không gọt được chính nó! Do đó, câu hỏi là: đi tìm một phương pháp cho triết học phải chăng cũng giống như mong muốn có kiến thức trước khi có kiến thức, muốn học bơi ở trên cạn mà không chịu nhảy xuống nước? Nói khác đi, triết học đích thực có nên để mình bị cột chặt vào một phương pháp nhất định hay phải dám suy tư và đối diện với những gì chưa chắc chắn, chưa ổn định, chưa rõ ràng? Nếu triết học không muốn chỉ là nơi sản sinh những con vẹt, nó không nên đi “con đường Như Lai” đã đi (hưu hướng Như Lai hành xứ hành) mà phải khai phá, tìm đường. Giữ cho tư tưởng có trật tự, có “kỷ luật” không có nghĩa là rơi vào chủ nghĩa hình thức, trái lại, khai phá, tìm đường với ý thức trách nhiệm, nghĩa là, theo sự hiểu biết và lương tâm chân thật của mình. Descartes khuyên rằng: cứ kiên quyết đi theo đường thẳng sẽ có lúc thoát khỏi rừng rậm. Montaigne thì e rằng: rừng rậm biết đâu quá rộng và quá dài… so với một đời người, do đó, ta nên đi đường vòng để thoả sức ngắm nhìn bao kỳ hoa dị thảo và… vừa đi vừa huýt sáo để tự trấn an!
Tại sao?
Tại sao lại làm triết học một khi nó không phải và cũng không thể trở thành một khoa học theo nghĩa chặt chẽ? Nó không phải là một khoa học riêng lẻ đã đành, mà cũng không phải là một khoa học nền tảng hay phổ quát, không phải khoa học của khoa học, càng không phải là sự tổng hợp những kiến thức khoa học. Khi triết học bàn về những vấn đề như ý nghĩa cuộc đời, bản chất con người hay về cái gì siêu việt, phải chăng chỉ vì tò mò? Vâng, có thể, nhưng có lẽ đây là một thứ tò mò đặc biệt, một sự tò mò vượt ra khỏi sự tò mò thường nhật hay cả sự tò mò khoa học.
Triết học có thể là một sự mạo hiểm, nhưng óc mạo hiểm không thôi chưa phải là động lực chủ yếu. Người xưa bảo rằng triết học bắt đầu với sự kinh ngạc. Triết học hiện đại lại cho rằng nó bắt đầu với những kinh nghiệm khổ đau, nghi ngờ, tuyệt vọng, sợ hãi. Cái nào cũng có lý cả, nhưng phải chăng động lực khiến ta làm triết học còn nằm sâu hơn, ở trong “bản tính” của con người? Con người là một sinh vật đặc biệt, luôn tra hỏi, luôn đi tìm ý nghĩa, mong muốn soi sáng cho chính mình. Như thế, có nghĩa: ta suy tư triết học, vì… ta không thể làm khác được! Thật thế, lịch sử triết học là lịch sử của những câu hỏi, của những cách đặt câu hỏi và rất nhiều khi, những cách đặt câu hỏi mở rộng bản ngã và chân trời của ta hơn cả những câu trả lời. “Câu trả lời đích thực cho câu hỏi chỉ là bước đi sau cùng của một chuỗi dài những bước đặt câu hỏi. Câu trả lời chỉ có giá trị, bao lâu nó bắt rễ trong việc hỏi” (Martin Heidegger).
Ai?
Triết học có thể là một sự mạo hiểm, nhưng óc mạo hiểm không thôi chưa phải là động lực chủ yếu. Người xưa bảo rằng triết học bắt đầu với sự kinh ngạc. Triết học hiện đại lại cho rằng nó bắt đầu với những kinh nghiệm khổ đau, nghi ngờ, tuyệt vọng, sợ hãi.
|
Nói khác đi, tư duy triết học đòi hỏi ta phải biết giữ khoảng cách với chính mình, xem xét các vấn đề cá nhân, cá biệt một cách phổ quát, thoát ly khỏi cái đặc thù bằng một sự trừu tượng hoá nào đó. Xin hẹn lần sau sẽ đề cập ba đặc điểm của tư duy triết học: tư duy về nguyên tắc (vượt lên khỏi kinh nghiệm thường ngày), tư duy có hệ thống và nhất là, tư duy tự do.
Bùi Văn Nam Sơn
(sgtt.vn, 07.07.2010)
anh chợt đến chợt đi như con gió nào vô định
Trả lờiXóatôi một thời một đời ngồi đợi phía không tên
nhưng có thể một chiều kia đầu ngõ
bước chân về, ai đó giật mình ai ...
Cảm ơn bạn ghé thăm, còn tặng thơ .. Thỉnh thoảng tôi cũng có ghé nhà bạn đọc thơ đấy. Nhiều bài tôi rất thích, đặc biệt một số bài lục bát.
XóaEm chen ngang đây tí anh K nhé: Nhất trí với anh - nhà anh Mộc có nhiều bài thơ hay nhưng em thích nhất là bài: CÀI KHUY ÁO LẠI ĐI EM :D - Có nhiều bạn đọc đã bình bài thơ này rất hay... riêng em nghĩ hình như mọi người mải mê phân tích các câu trong bài mà 2 câu cuối van chưa được phân tích triệt để để toát hết nội dung mà anh Mộc muốn chuyển tải thì phải :D
XóaHì, anh thì thích một bài cũ hơn, nhưng ở blog bạn ấy ko có label, tìm bài cũ rất khó. Ngay cả bài này, anh cũng lấy lại từ blog http://hoang-lap.blogtiengviet.net/. Em đọc và có ý kiến chi, nói ở đây tác giả cũng nghe được :D
XóaCài khuy áo lại đi em
http://1.bp.blogspot.com/-nBXr_2uyw6k/UyfUUBLhKqI/AAAAAAAAG28/zMJMeu2-rOw/s1600/thi%E1%BA%BFu+n%E1%BB%AF+ng%E1%BB%A7+ng%C3%A0y.jpg
[color="blue"]
cài khuy áo lại đi em
kẻo trăng rớt xuống chỗ mềm mại thu
kẻo sông xa sóng mịt mùng
tội con cá tự nhiên mù tịt khơi
cài khuy áo lại em ơi
kẻo mây lơ đãng bỏ trời mồ côi
kẻo rừng xanh với nương đồi
rũ nhau trút hết lá rồi mênh mang
cài khuy áo nhé em ngoan
kẻo không gió sẽ ngang tàng nặc nô
kẻo thiên hà những muôn sao
sáng lung linh phía mắt thao thức tìm
cài đi em dẫu một khuy
kẻo bàn tay lỡ lầm ghì chặt vai
đụng bờ môi tiếng thở dài
lúc quay gót sẽ giẫm lai láng chiều
cài khuy áo ngực em yêu
kẻo người đi nhuộm muối tiêu tóc mình
kẻo người về cứ đinh ninh
bước phong trần lẫn phiêu linh như vừa
*
từ ngày xửa đến ngày xưa
mẹ rằng áo mặc chớ chừa lại khuy ...
Sài Gòn, 7.2013
Bình Địa Mộc[/color]
Hì anh! Ai lại mượn nhà để nói bao giờ :))
XóaỦa, sao ko được ? Đem bài thơ về, đọc rồi nói những cảm nhận, suy nghĩ .. cái ấy là quyền của người đọc, dù khen chê chắc tác giả cũng vui lòng mà.
Xóatừ ngày xửa đến ngày xưa
mẹ rằng áo mặc chớ chừa lại khuy ...
theo em tác giả muốn nói gì qua 2 câu này ? Anh thì chỉ thấy đơn giản là anh chàng nói hoài cô gái ko chịu cài nút áo, nên đem mẹ ra dọa thôi :)). Hồi xưa mẹ dạy ăn mặc kín đáo làm sao, giờ em bận thế hử :-?.
Ở đây tác giả dùng từ ngày xửa, ngày xưa phải chăng có ý muốn gợi đến truyền thống nết na kín đáo của người phụ nữ ? Thật ra, áo có khuy nút chỉ mới xuất hiện dăm bảy chục năm trở lại đây thôi. Thời xưa hơn các cô mặc yếm hoặc thậm chí ko mặc gì cả. Ai lên vùng thượng du heo hút ngày nay, sẽ thấy hình ảnh dân Kinh ta thời 18xx và thậm chí đầu thế kỷ XX: đàn bà ở trần mặc váy, đàn ông ở trần đóng khố. Đàn ông đàn bà gì đều đi chân trần .. Có thể tìm trên mạng một số ảnh chụp của các nhà nhiếp ảnh Pháp để chứng minh điều này.
http://2.bp.blogspot.com/-VkpDwrgzq4k/Uyg4poha-aI/AAAAAAAAG3s/jkSljptzoco/s1600/phu-nu-viet-xua+(3).JPG
http://2.bp.blogspot.com/-5pKQrKc-2eA/Uyg4o2fSWFI/AAAAAAAAG3g/Ij6vqrIkWDw/s1600/pn20.jpg
http://3.bp.blogspot.com/-3O9bYwMEgSw/Uyg4p5pqRmI/AAAAAAAAG30/ZlCnMQha00g/s1600/pnxua3.jpg
http://1.bp.blogspot.com/-a-kgIrj9Poc/Uyg4pVHM6wI/AAAAAAAAG3o/f-2AGAKBps4/s1600/Phu+nu+vn+xua+2.jpg
và như thế, chuyện PN Việt ăn bận kín đáo .. chỉ là những huyền thoại. Ở trần - yếm - và bây giờ là những chiếc áo dài ôm sát theo đường cong cơ thể, nhiều khi còn mỏng tang .. thì y phục PN Việt bao giờ cũng cực kỳ sexy. Cái này thì đúng là số 1 thế giới :d